MỘT SỐ VỐN ĐỀ CỐN mu Ý
KM 1WC HỒNH QUYỐÌ CÔNG Tổ, KỂH SÁT
VỆC GÙ QUYẾT VỤ ÁN ùn ĐẢO OỐM ĐOẠT Tin SÒN
ThS.PHẠM THỊ THANH HUYÉN * ThS.LÈBựCSƠN**
* Kiểm tra viên Viện kiểm sát nhân dãn thành phổ Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.
** Vãnphòng Viện kiếm sát nhân dân tối cao.
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong những tội danh được áp dụng tương đổi phổ biến trong nhóm tội phạm xâm phạm sở hữu. Tuy nhiên, trong thực tiễn vẫn có những nhầm lẫn khi định tội đối vói các hành vi tương tự hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Do đó, khi được phân công thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Kiểm sát viên cần lưu ý các đặc điểm trong
cấu thành tội phạm của tội danh này.
Từkhóa: Tội lừađảochiếm đoạt tài sàn; tội phạm xâm phạm sở hữu.
Nhận bài:24/5/2022; biên tập xong: 05/6/2022; duyệtbài: 08/6/2022.
T
ội lừahội chủ đảonghĩachiếm là tội danh được đoạt tài sản xã quy định tại Điều 135 Bộ luậtHìnhsự (BLHS) đầu tiên củanước ta(BLHS năm 1985). Mặc dù đãđược sửa đổi, hoàn
thiện nhiều lần để cá biệt hóa tội danh này, tránh nhầm lẫn với các hành vi tương tự, thực tiễnthực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết các vụ án lừađảo chiếm đoạt tài sản vần tồn tại những khó khăn, vướng mắc nhất định. Do đó, khi đượcphân công thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải
quyết các vụ án lừa đảochiếm đoạt tàisản, Kiểm sát viên cần nghiên cửu kỹ hồ sơ vụ án, lưu ý các đặc điểm trong cấu thành tội phạm của tội danh này.
1. Vướng mắc khi giải quyết vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Thứ nhất, về xác định giá trị tài sản
Tạp chí _________
KIỂM SÁT-SỐ 14/2022
24
CONG TÁC KIÊM SÁT
chiếm đoạt. Đây là một trong những vấn đề quan trọng khixử lý hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản vì giá trị tài sản bị chiếm đoạt cóýnghĩatrong Việc định tội và địnhkhung hình phạt. Trong thực tiễn, đối với hànhvi lừa đảo chiếmđoạttài sản mà người phạm tội đưa ra thông tin, nội dung... sai sự thật để bị hại tintưởng giao tài sảnthì việc xác định giá trị tài sản bịchiếmđoạt để làm căn cứ xử lý tráchnhiệmhình sự tươngđối đon giản. Thông qua kết quả định giá tài sản hoặc giám định, kiểm đếm tài sản là tiền, cơ quantiến hành tố tụng có căn cứđể xử lý hành vi củangười phạm tội. Tuy nhiên, đối với trường hợp người phạm tội muốn lừa đảo để chiếm đoạt tài sản của bị hại thông qua việc trao đổi vật chất với nhau thì việc xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt vẫn còn tồn tại các quan điểm khác nhau.Ví dụ: Nguyền Văn A vìmuốn chiếm đoạt tài sản nên đóng giả làm người giao trứng. Ađem 50 quả trứng bỏ vàocác hộp, đến các nhà đê giao hàng với thông tin là người nhà đặttrứnggà với giá 1 triệu đồng.
Nhiềungườicả tin chorằng ngườithân đã đặt số hàngtrên nên đã trả tiền, lấy hàng.
Đối với những người từ chối nhận hàng, A liền xin lỗi vì giao nhầm địa chỉ. Với thủ đoạn trên, A đãgiaođược 12 hộp trứnggà, thu về 12 triệu động. Saukhi phát hiện sự việc, một số bị hiại đã làm đơn trình báo, yêu cầu xử lý hành vi của A. Đối với vấn
đề về xác định giá trị tài sảnchiếm đoạt để xử lý hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của NguyễnVănA có hai quan điểm sau:
Quan điêm thứ nhất xácđịnh: sốtiềnA thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt được là 12 triệu đồng, tức là số tiền A nhận từ các bị hại.
Quan điêm thứ haixác định: Đê làmrõ số tiền Achiếm đoạt cần phải yêu cầu định giá số trứng Ađã giao cho các bị hại, sau đó khấu trừ số tiền đótrong 12triệu đồng.
Bởithực tế A đã giao lại tài sản chocác bị hại, một số bị hại đă sử dụng số trứng đó cho mục đích sinh hoạt hàng ngày.
Việc xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt trong trường hợp trên hiện chưa có văn bản hướngdẫncụ thể, đặc biệt đối với những trường hợp xác định giá trị tài sản trong khoảng trên dưới 02 triệu đồng để xác định có đủ để cấu thành tội phạm hay không khiến các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn lúng túng. Theo tác giả, trong trường hợp này có thể áp dụng tinh thần Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT/TANDTC- VKSNDTC-BCA-BTPngày25/12/2001về việchướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của BLHS năm 1999 để xác định giátrị tài sản chiếm đoạt. Theo đó, tại điểm 2 Mục II Thông tư liên tịch này quy định: ... “2.
Trong trường hợp có đầy đủ căn cứ chứng
í ụp c)i!
So 14/2022 KI) vị SÁ I 25
CÕNG TÁC KIỂM SÁT
minh rằng người có hành vi xâm phạm sở hữu có ý định xâmphạm đến tài sản có giá trị cụ thể theo ý thức chủ quan củahọ, thì lấy giá trị tài sản đó để xem xétviệc truy cứu trách nhiệm hình sựđối với người có hành vixâm phạm”. Theođó, khi xác định giá trị tài sản mà người thực hiện hành vi chiếm đoạt thựchiện,cần khấu trừ số giá trị mà họ đãđem “trao đổi” cho bị hại.
Thứ hai, xác định thẩm quyền giải quyết theo lãnh thổ trong trường họp sử dụng mạng máy tính, mạng viền thông...
để thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Khoản3 Điều 145 Bộluật Tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2021 (BLTTHS năm 2015) quy định về thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố củaCơ quan điều tra, cơquanđược giao nhiệmvụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo thẩm quyền điềutra.
Khoản 4 Điều 163 BLTTHS năm 2015 quy địnhthẩm quyềnđiều tra theo lãnhthổ của Cơ quan điều ưa như sau: “Cơ quan điều tra có thẩm quyền điều tra những vụ án hình sự mà tội phạm xảy ra trênđịa phận của mình. Trường họp tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác hoặc không xác định được địađiểm xảy ra tội phạm thìviệc điều tra thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra nơi phát hiện tội phạm, nơi bịcan cư trú hoặc bị bắt”. Đối với cơ quan được
giao nhiệmvụ tiến hành một số hoạtđộng điều tra,thẩm quyền theolãnhthổđượcxác định là “địa bàn do mìnhquản lý” theo quy định tạiĐiều 164 BLTTHSnăm 2015.
Thực tiễn giải quyết các vụ việc, vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua phương tiện mạng máy tính, mạng viễn thông...đã phát sinh các quan điểm xác địnhvề thẩm quyền giải quyết khác nhau.
Cụ thể: Đối với các vụ việc bị hại tố giác về việc mình bị lừa đảo chiếmđoạttài sản khi các đối tượng sử dụng chiêu thức giả danh cán bộ Công an, Kiểmsát, Tòa án để gọiđiện yêu cầu chuyển tiền;lập facebook, zalo “ảo” để yêu cầu bị hại chuyển tiền...
thì thông thường, Cơ quan điều tra nơi bị hại cư trúsẽ tiếp nhận vàgiải quyết.
Ví dụ: Trần Thị H (có hộ khẩu thường trú tại thành phố Đ, tỉnh Q), sau khi nhận được điện thoại của một người xưng là cán bộ Công an, cần phong tỏa tài khoản để phục vụ việc điều tra về hoạt động rửa tiền, đã đến cây ATMđặt trước trụ sở ngân hàng tại thành phố Đ, tỉnh Q chuyển tiền qua số tài khoản đã cho trước với số tiền 200 triệu đồng. Sau khi phát hiện bị lừa, H trình báo với Cơ quan Cảnh sátđiềutra Công an thành phố Đ, tỉnh Q. Quá trình xác minh tin báo, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ xác định Trần Văn T là đối tượng đã thực hiện hành vi gọiđiệnlừa tiền chị H. Thiện sinh sống tại
Tạp chí _________
KIÊM SÁT—/So 14/2022
26
CONG TAC KIỂM SAT
quận c, thành phố H. Khi thực hiện việc gọiđiệnthoại, Hđang ở quận L,thànhphố H. Vì vậy, việcị Cơ quan Cảnhsát điều tra công an huyện ỉ) thụlý giảiquyết vẫncòn nhiều quan điểtn, nơi xảy ra tội phạm là ở đâu vẫn còn (phưa thống nhất, đồng thời bản thân bị hại không biết rõ nơi cư trú của người mình đã chuyến tiền. Tuynhiên, đối chiêu với quy định vê thâm quyên điêu tra thì nơi cưtrii củabị hại không phải là một trong những căn cứ để xác định thẩm quyền điều tra. po đó, đối với trường hợp trên, để có cơ sờ pháp lý và áp dụng pháp luậtthốngnhất cần có hướng dẫn cụ thể.
2. Những vấn đề cần lưu ý khi thực hành quyền cô^ig tố, kiểm sát việc giải quyết vụ án lừạ đảo chiếm đoạt tài sản
- Xác định rõ thù đoạn giandối có trước hay hành vi chietn đoạt cỏ trước: về mặt lý luận, Tội lừa đảq chiếm đoạt tài sảnchỉ có một hành vi kháchquan duy nhất là chiếm đoạt. Hànhvi giạn dối của người phạm tội được xem là thủi đoạn trong cấu thành tội danh này, không phải hành vi khách quan1, vềtrình tựthời gịan, thủđoạn gian dốiphải có trước hành vi chiếm đoạt, nếu ngược lại, người phạm tội có được tài sản một cách hợp pháp nhưng$au đó mới dùng thủ đoạn giandốiđể chiếmịđoạt tàisản thì hànhvi đó ---,---
1. Đinh Văn Quế, Bình luận Bộ luật Hình sự năm 2015, Phần thứ hai 4 Các tội phạm, chương XVI, XVII, Nxb. Thông tinị và Truyền thông, 2018, tr 244.
không cấu thành Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà tùy từng trường hợpđể có thể định tội hànhvi này. Trong thực tiễn đấu tranh chống tội phạm, việc xác định vấn đề này phụ thuộc phần lớn vào ý thức chủ quan của người phạm tội. Ví dụ: Vì cần tiền để đánh bạc, Nguyễn Văn A nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản,lợi dụng Trần Văn B là người cả tin, A đã mượn xe B để đembán, sau đó báo cho B là đã làm mất xe nhưng không có tiền đềnbù. Cũng trường họp này, nhưng nếu Nguyễn Văn A vì cần sử dụng xe nên đã mượnxe của TrầnVăn B (xe trị giá 15 triệu đồng). Sau khi sử dụng, A nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe trên nên mang đi bán để lấy tiền đánh bạc rồi báo với B xe bị kẻ gian lấymấtthì hành vi này lại thuộc hành vi khách quan của Tội lạm dụng tínnhiệm chiếm đoạt tài sản. Do đó, trong quá trình thựchànhquyền công tố và kiểm sát việc giải quyết vụ án, Kiểm sát viên cần làm rõ vấn đề này, tránhviệc khởi tố,điềutra, truy tố, xétxửnhầmtội danh.
- Người phạm tội thông qua thủ đoạn gian dối chiếm đoạt được tài sản chứ không cần thực hiện thêm hành vi khách quan nào khác trongnhóm tội xâm phạm sở hữu: Kiểm sátviên cần xác định rõ hành vi chiếm đoạt trong Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là người phạm tội thông qua thủ đoạn gian dối để bị hại tự nguyện giao tài sản hoặc nhận tài sản cho người phạm
27
CÔNG TÁC KIỂM SÁT
tội và tin rằng việc giao tài sản trên là hợp pháp. Từ việc nhận được tài sản đó, người phạm tội có hành vichiếm đoạt tài sản hoặc giátrị của tài sản. Trườnghợpbị hạikhông tự nguyện giao tài sản và người phạm tội phải thực hiện thêm các hành vi khác đế chiếmđoạtthì không cấu thành Tội lừađảo chiếm đoạt tài sản. Do đó, quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra đổi với tội danh này cần làm rõ thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản và thủ đoạn gian dổi đề tiếp cận tài sản nhằm tránh nhầm lẫn về tội danh. Ví dụ: Ngày 15/10/2021, vì có ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại của M nên N (sinh năm 1997, có đủ nănglựctrách nhiệm hình sự) giả vờ mượn điện thoại của M để gọi nhờ. M tin tưởng nên giao điện thoại cho N,sau đó đứng đợi. Saukhi nhận điện thoại từ tay M, N nhanh chóng giật lấy điện thoại và bỏ chạy. Chiếcđiện thoại trị giá 5,3 triệu đồng. Trongthựctiễn đã có trườnghọp xácđịnh hành vi trên thuộc tội danh lừa đảo chiếm đoạt tài sản và khởi tố2;
Căn cứ việc người phạm tội đã cóhành vi gian dối là giả vờ mượn điện thoại sau đó bỏ chạyđể chiếm đoạt. Tuy nhiên, N thực tế đã có hành vi gian dối là giả vờ mượn điện thoại với ý định chiếm đoạt, việc M cho N mượn điện thoại nhưng vẫn đợi để
2. https://cand.com.vn/Ban-tin-l 13/Vo-goi-nho- dien-thoai-thanh-nien-cuop-luon-dien-thoai-roi-tau- thoat-i553628/; truy cập ngày 20/5/2022.
lấy lại thể hiện M không có ý chí giao tài sản cho N chiếm hữu. Mặtkhác, để chiếm đoạtđược chiếc điện thoại trên, N phải giật lấy và bỏ chạy. Nhưvậy, hành vi của N đủ yếu tốcấuthành Tội cưóp giậttài sản.
- Xác định rõ đoi tượng bị chiếm đoạt có thuộc trường hợpđặc biệt đê cấu thành các tội danh khác hay không?: Theo quy định của BLHSnăm 2015, sửa đổi,bổ sung năm 2017 (sau đây gọi tắt là BLHS năm 2015), một số trường họp với các đối tượng bị chiểm đoạt mang tính đặc biệt, thể hiện tính nguyhiểm cho xã hội ở mức cao hơn so với các đối tượng thông thường thìngười phạm tội khi có thủ đoạn gian dối chiếm đoạt, các đối tượng này sẽ không cấu thành Tội lừađảochiếmđoạttài sản mà cấu thành các tội danh khác, cụ thể: Trong việc mua, bán hàng hóa hoặc cung cấp dịchvụ mà có hành vi gian dối như cân, đong, đo, đếm, tính gian hàng hóa, dịch vụ hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác là hành vi khách quan cùa Tội lừa dối khách hàng (Điều 198);
hành vi gian dối về chất lượng hàng hóa thông quaviệc sảnxuất, buôn bánhàng giả tùy từng trường hợp sẽ cấu thành Tội sản xuất, buôn bán hàng giả(Điều 192), Tội sản xuất buôn bán hàng giả là lươngthực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm (Điều 193), Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 194) hoặc Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức
Tạp chí _________
KIÊM SẤT SỐ 14/2022
28
CONG TAG KIÊM SAT
ăndùngđể chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệịthực vật, giống cây trồng, giống vậtnuôi (£)iều 195); hành vi lừa dối chiếm đoạt chất ịmatúyhoặc tiền chất dùng vào việc sản xdất chất ma túy là hành vi khách quan của Tội chiếmđoạtchấtmatúy (Điều 252) hoặứ Tội chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 253); hành vi lừađảo chiếm đoạt đối tượng là vũ khí quân dụng,phương tiện kỹ thuật quân sự, vật liệu nổ, súng săn, vũ khí thô sơ,vũ khí thểthao hoặc công cụ hỗ trợ tùy từng trưởng hợp là hành vi khách quan được mô tả tại Điều 304, 305 hoặc 306 với các tội danh: Tội chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phường tiện kỳ thuật quân sự;
Tội chiếm đoạt Ỷật liệu nồ; Tội chiếm đoạt súng săn, vũ khíthô sơ, vũkhíthểthao hoặc công cụ hỗ trợ; hành vi gian dối trong lĩnh vựcbảohiểm tùy từng dạng hành vi sẽ cấu thành hành vi khậch quantrongTội gianlận trong kinh doanh bảohiểm(Điều 213); Tội gian lận bảo hiếtn xã hội (Điều 214) hoặc Tội gian lậnbảoỊhiểm y tế (Điều 215).
Như vậy, trổng quá trình thực hành quyền côngtố vồ kiểm sát việc giải quyết các vụ án,Kiêm ísát viên bên cạnh việc chú ý đến thủ đoạn gian dối của người phạm tội, cần xác định rõ đối tượng chiếm đoạt mà người phạm tội thực hiện để xác định chính xác tội dainh, tránh nhầm lẫn trong định tội nếu đối tượng thuộc các trường
hợp đặc biệt nêu trên.
- Xác định rõ phương thức gian dối mà người phạm tội thực hiện, cần đặc biệt lưu ý trườnghợp người phạm tội sử dụng mạng xã hội hoặc phương tiện điện tử để lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Những năm gần đây, do tác động của việc thực hiện giãn cách xã hội để phòng, chống dịch bệnh Covid-19, hoạt động lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua phương thức lợi dụng không gianmạng có chiều hướng gia tăng và diễn biến rấtphức tạp. Đối với các vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên không gian mạng, hiện nay vẫncósự thiếu thống nhất trong việc xác định giữa Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS năm 2015) và Tội sử dụng mạng máy tính, mạngviễnthông,phươngtiệnđiệntửthực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 290 BLHSnăm 2015).
Trong thực tiễn, việc thông qua mạng máy tính, mạng viễn thông để lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện phổ biến dưới các dạnghành vi sau:
Giả danh cán bộ Công an, cán bộ Kiểm sát gọi điện cho bị hại thông báo bị hại có liên quan đến vụ buôn lậu, rửa tiền, mua bán tráiphép chất ma túy... và yêu cầu bị hại chuyển tiền vào số tài khoản do đối tượng cung cấp để phong tỏa, phục vụ công tác điều tra rồi chiếmđoạt.
l ạp chi Sô 14'2022 KI l'| SÁT 29
CÔNG TÁC KIỂM SÁT
Trường hợp khá phổ biến là tạo tài khoản mạng xã hội facebook đứng tên người có quốc tịch các nước pháttriển như Mỹ, Thụy Sĩ, Pháp... có công việc tốt, có tiền, có vẻ ngoài ưa nhìn... để làm quen vớibịhại. Sau một thời gian thì thông báo gửi quà tặng hoặc quà đính hôn vàgiả danh nhân viên hải quan, bưu điện thông báo, yêu cầu bị hại chuyển các khoản phí như phí gửi hàng, phí quy đổi ngoại tệ thuế, phí hải quan... rồi chiếm đoạt tiền. Hoặc một dạng hành vi kháclàlợi dụng việc bán hàng livestream, các khách hàng cung cấp thông tin, người phạm tội liên hệ trước, giả danh là bên bán hàng yêu cầu chuyển khoảnđể gửihàng.
Ngoài ra, các đối tượng còn sử dụng tài khoản facebook “ảo” liênhệ vớicác bị hại đang thực hiện hoạt động kinh doanh đặt mua hàng hoá, sau đó gửi link, yêu càu bị hại cung cấp mã OTP gửi đến điện thoại và chiếm quyền sử dụng tài khoản ngân hàng của bị hại, chuyểntất cảtiềntrong tài khoản này sang tài khoản khác đểchiếm đoạt...
Như vậy, các dạng hành vi trên đều sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông để đưa ra thông tin saisự thật nhằm chiếm đoạttài sản của bị hại, tuy nhiênkhông phải hành vi nào cũng cấu thành tội danh quy định tại Điều 290 BLHS năm 2015. Thực tiễn vẫn có quan điểm xác định rằng nếu việc lừa đảo có sử dụng mạng máy tính,
mạng viễn thônghoặc phương tiện điện tử để thông qua đó chiếm đoạt tài sản đều là hành vi cấu thành Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phươngtiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Đây là quan điểm không chính xác, gây nhầm lẫntrong việc định tội. Bởi theo Điều 290 BLHS năm 2015, có 05 dạng hành vi cấu thành tội danh này như sau: (1) Sử dụng thông tin về tài khoản,thẻ ngân hàng của cơ quan,tổ chức, cánhân để chiếmđoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ; (2) Làm, tàng trữ, mua bán, sử dụng, lưu hành thẻ ngân hàng giả nhằm chiếm đoạttài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịchvụ;
(3) Truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của cơ quan,tổ chức, cánhân nhằm chiếm đoạt tài sản; (4)Lừa đảo trongthương mại điện tử, thanh toán điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn, kinh doanh đa cấp hoặc giao dịch chứng khoán qua mạng nhằm chiếm đoạt tài sản; (5) Thiết lập, cung cấp trái phép dịchvụviễnthông, internet nhằm chiếm đoạt tài sản.
Do đó, đối với các trường hợp lừa đảo bằngcách thông qua phương tiện làmạng internet hoặc mạng viễn thông như gọi điện giả danh, sử dụng facebook giả... để yêu cầu bị hại chuyển tiền rồi chiếm đoạt vẫnphải định tội theo Điều 174 BLHS năm 2015 là Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.n
Tạp chí _________
KIẾM SAT số 14/2022
30