• Tidak ada hasil yang ditemukan

XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ở VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH MỚI

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ở VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH MỚI"

Copied!
9
0
0

Teks penuh

(1)

PHÁT TRIẺN NÈN KINH THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH MỚI

Trần Thị Hà,

Viện Chiến lược và Chính sách tài chính (Bộ Tài chính)

Trần Ngân Hà,

Trường Đại học Tài chính - Quản trị kinh doanh

Ngày nhận bài: 15/04/2021 Ngày nhận bài sửa: 20/05/2021 Ngày duyệt đăng: 02/06/2021

Tóm tắt: Kinh tế thị trường (KTTT) là sự phát triển tất yếu trong tiến trình phát triển của xã hội. Nền KTTT ở Việt Nam là nền KTTT phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), tuân thủ các quy luật khách quan của KTTT, đồng thời gắn mục tiêu phát triển kinh tể với mục tiêu phát triển xã hội, phát triển con người. Trong bối cảnh mới, với tác động mạnh mẽ của cách mạng công nghiệp 4.0, nhất là sự biến động khó lường của kinh tế, chỉnh trị thế giới sau đại dịch Covid-19, việc phát triển kinh tế đứng trước những cơ hội lớn và cả những thách thức không nhỏ.

Do vậy, cần tập trung một số giải pháp như: hoàn thiện thể chế, nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước; đẩy mạnh ứng dụng thành quả của cuộc CMCN 4.0, chú trọng phát triên KTS; nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; tăng cường hợp tác quốc tế.

Từ khóa: Kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, cách mạng công nghiệp 4.0

DEVELOPMENT OF THE SOCIALIST ORIENTED MARKET ECONOMY IN VIETNAM IN THE NEW CONTEXT

Abstract: Market economy is an inevitable development in the development of society. The market economy in Vietnam is a market economy developed in the socialist orientation, complying

•with the objective rules of the market economy, and at the same time linking economic development goals with the goals of social development and human development. In the new context, with the strong impact of the industrial revolution 4.0, especially the unpredictable volatility of the world economy and politics after the Covid-19 pandemic, economic development faces great opportunities and the challenges Therefore, it is necessary to focus on a number of solutions such as: completing the institution, improving the management role of the State; promoting the application of the results of Industry 4.0, focus on the development of the digital economy;

enhancing national competitiveness; strengthen international cooperation.

Keyword: Market economy, socialist orientation, industrial revolution 4.0

1. Nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam 1.1 Quá trình hình thành và phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam

KTTT định hướng XHCN đang được xây dựng và phát triển ở Việt Nam là nền kinh tể vận hành dựa trên các quy luật khách quan của thị

trường, đồng thời có sự quản lý của Nhà nước, do vậy nó vừa vừa vận động theo những quy luật của KTTT, được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội.

Mô hình K.TTT định hướng XHCN hiện đang được thực thi chi ở hai nước (Việt Nam - 40 Tạp chí Tài chính - Quản trị kinh doanh

(2)

KTTT định hướng XHCN; và Trung Quốc - KTTT XHCN). Thời gian tồn tại của nó cũng chỉ mới hơn 1/4 thế kỷ. về bản chất, KTTT định hướng XHCN ờ Việt Nam là một nền kinh tế dựa trên cơ sở kết hợp ưu thế của chế độ kinh tế năng động với ưu thế của chế độ chính trị tiên tiến, kết hợp mặt tích cực của cơ chế thị trường với sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước nhằm hạn chế, khắc phục các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội1.

1 Vũ Văn Hóa, Lê Hải Mơ (2006), Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực tài chính ở Việt Nam, trang 14-15

Nền KTTT định hướng XHCN ờ Việt Nam có thể chia thành 03 giai đoạn phát triển, cụ thể:

( i) Giai đoạn trước Đại hội VI (1986) Nền kinh tế vận hành trong khuôn khổ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp. Những cải tiến theo hướng K.TTT chủ yếu ở cấp vi mô, mang tính cục bộ, không triệt để và thiếu đồng bộ, diễn ra trong khuôn khổ cơ chế kế hoạch hóa tập trung và nhằm duy trì, củng cố hệ thống kinh tế công hữu, tập trung, bao cấp và đóng cửa.

Đây là giai đoạn nền kinh tế chịu sự thống trị tuyệt đối của chế độ sở hữu công cộng, vận hành theo cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung với các đặc trưng nổi bật là quan liêu, bao cấp.

Các quan hệ hàng hoá, tiền tệ, thị trường bị phủ nhận. Tuy nhiên, với sự ra đời của Nghị quyết về lưu thông - phân phối (Hội nghị 6 khoá IV, năm 1979) đã mở đường áp dụng cơ chế “kế hoạch 3 phần” trong các DNNN, cho phép DNNN vươn ra thị trường tự do với phần vượt ra ngoài kế hoạch pháp lệnh. Và Khoán 100 trong nông nghiệp (năm 1981) đã cho phép nông dân nhận khoán sản phẩm và được quyền bán sản phẩm vượt khoán trên thị trường tự do.

Đây là hai điểm đột phá thị trường đầu tiên ở hai lĩnh vực kinh tế chủ chốt, tạo động lực phát triển mạnh mẽ cho doanh nghiệp, tập thể và người lao động.

(ỉi) Giai đoạn từ Đại hội VI (1986) đến trước Đại hội IX (2001)

Đổi mới toàn diện cả cấu trúc và cơ ché vận hành nền kinh tế với nội dung chính là từ bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN.

Đại hội VI đột phá mạnh và căn bản trong tư duy lý luận bằng việc đề ra đường lối đổi mới, trong đó, phê phán và từ bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, coi sản xuất hàng hoá và kinh tế hàng hoá không phải là sản phẩm riêng có của CNTB, thừa nhận sự tồn tại khách quan của

“nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước ” trên con đường đi lên CNXH2.

Trong giai đoạn này, nhận thức của Đảng và Nhà nước đã công nhận nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước theo hướng chủ động, tự chịu trách nhiệm;

tạo điều kiện phát triển đa dạng các loại hình doanh nghiệp; tôn trọng cạnh tranh, bình đẳng...

Tập trung mở cửa kinh tế và từng bước hội nhập kinh tế quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ với thế giới, chủ trương làm bạn với tất cả các nước, biến nền kinh tế Việt Nam thành một bộ phận của nền kinh tế thế giới và khu vực. Đồng thời, mở rộng cơ hội phát triển cho đông đảo nhân dân thuộc tất cả các tầng lớp trên cả nước. Lợi ích do đổi mới mang lại được phân phối rộng khắp và tương đối bình đẳng trong xã hội. Nhân dân ngày càng có nhiều cơ hội việc làm, tiếp thu tri thức mới và nâng cao trình độ văn hoá và năng lực hành động. Quá trình đổi mới giúp nhận thức đầy đủ hơn, đi đến khẳng định quan điểm: "phát triển kinh tế phải đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi

SỐ 22 tháng 6 năm 2021

2 Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH được thông qua tại Hội nghị giữa kỳ Đại hội VII

41 Tạp chí Tài chính - Quản trị kinh doanh

(3)

trường"', thực hiện mục tiêu hành động: "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh".

(Ui) Giai đoạn thực hiện các mục tiêu của Đại hội IX- nay (2001 - nay)

Chuyển từ nhận thức thị trường như một công cụ, một cơ chế quản lý kinh tế sang nhận thức thị trường là một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của xã hội trong giai đoạn tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đặt vấn đề xây dựng nền KTTT định hướng XHCN.

Như vậy, nhận thức về nền KTTT định hướng XHCN đã ngày càng sáng tỏ, đó là nền kinh tế tuân thủ các quy luật khách quan của thị trường và định hướng XHCN. Nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất;

có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt và là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế Nhà nước. Kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển một nền kinh tế độc lập, tự chủ. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh cùng phát triển theo pháp luật. Khuyến khích làm giàu họp pháp. Thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế,

đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.

1 .2 Những thành tựu đạt được của KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam

Nền KTTT định hướng XHCN sau gần 35 năm đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đưa Việt Nam ra khỏi nước có thu nhập thấp, giữ vững ổn định chính trị-xã hội. Điều này được thể hiện trên 02 khía cạnh chính: về kinh tế; về xã hội.

1.2.1 về kinh tế a. Tăng trưởng kỉnh tế

Tổc độ tăng trưởng kinh tể Việt Nam được duy trì ở mức cao, bình quân tăng từ 4,45%/năm trong giai đoạn 1986 - 1990 lên 8,19%/năm giai đoạn 1991 - 1995. Trong những giai đoạn sau, tốc độ tăng trưởng kinh tế tuy có chậm lại, song vẫn ở mức khá trong bối cảnh nền kinh tế liên tục đối mặt với không ít khó khăn và thách thức xuất phát cả từ những yếu tố bên ngoài và bên trong. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 1996 - 2000 đạt 6,96%/năm; giai đoạn 2001 - 2005 đạt 7,33%, giai đoạn 2006 - 2010 đạt 6,32%/năm, giai đoạn 2011 - 2015 là 5,91% và giai đoạn 2016-2020 đạt 5,9%.

Tăng trưởng Việt Nam so với các khu vực trên thể giới

Nguồn: World Economic Outloo (IMF), Tổng cục Thống kê và tổng hợp các dự báo

Tăng trưởng GDP được đảm bảo đã tạo điều mặc dù nên kinh tê chịu ảnh hưởng nặng nê của kiện mở rộng quy mô nền kinh tế. Năm 2020, đại dịch Covid-19 nhưng quy mô GDP của Việt

Số 22 tháng 6 năm 2021

(4)

Nam đạt hơn 343 tỷ USD3, đứng trong top 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới và đứng thứ 04 trong khu vực ASEAN4. Tiềm lực kinh tế được tăng cường, góp phần nâng cao vị thế Việt Nam trên bản đồ kinh tế thế giới và khu vực.

3 Theo quy mô GDP được đánh giá lại

4 https://nhandan.com.vn/nhan-dinh/vi-the-va-co-do- kinh-te-viẹt-nam-631311/

5 Ban Chấp hành Trung ương, Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 05 năm 2016 — 2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 05 giai đoạn 2021 - 2025.

6 https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong- ke/2020/12/baocao-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-quy-iv-

b. Nâng cao chất lượng tăng trưởng, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế

Chất lượng tăng trưởng kinh tế cũng dần được cải thiện, thể hiện qua sự đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng, ngoài các yếu tố vốn, lao động và khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Tỷ lệ đóng góp của TFP trong tăng trưởng GDP năm 2020 đạt 44,43%, bình quân giai đoạn 2016- 2020 đạt 45,2%, cao hơn nhiều so với mức bình quân 33,6% của giai đoạn 2011-2015 và vượt xa mục tiêu đề ra (30 - 35%)5.

Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn 2016 - 2020 là 5,8%/năm. Hệ số ICOR giảm từ gần 6,3 giai đoạn 2011 - 2015 xuống còn khoảng 6,1 giai đoạn 2016-2019.

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) binh quân giảm từ 18,6% năm 2011 xuống ổn định ở mức khoảng 4%/năm giai đoạn 2016 - 2020. Lạm phát cơ bản giảm từ 13,6% năm 2011 xuống 2,31%

năm 20206.

Theo số liệu từ Báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu 2019 của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF), nền kinh tế Việt Nam đứng thứ 67 trong số 141 quốc gia trong bảng xếp hạng về năng lực cạnh tranh, tăng 10 bậc so với năm 20187, nhờ những cải cách về thể chế, cơ sở hạ tầng, năng lực tiếp cận công nghệ thông tin, kỹ năng, quy mô thị trường, thị trường lao động, năng lực đổi mới sáng tạo, tính năng động của doanh nghiệp...

c. Cơ cấu kinh tể được cải thiện theo hướng phù họp

Cơ cấu ngành và cơ cấu sản phẩm đang có sự thay đổi để phù hợp hơn với nhu cầu của thị trường. Sự thay đổi tích cực đến từ cơ cấu ngành, cơ cấu của từng ngàng. Tỷ trọng trong GDP ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 16,32% năm 2016 xuống còn 14,85% năm 2020. Trong khi ngành công nghiệp và xây dựng tăng từ 32,72% năm 2016 lên mức 33,72%; ngành dịch vụ tăng từ 40,92% năm 2016 lên mức 41,63% năm 2020.

Tăng trưởng kinh tế giảm dần phụ thuộc vào khai thác tài nguyên, mở rộng tín dụng; từng bước dựa vào ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

d. Hội nhập sâu rộng vào kinh tế thể giới Việt Nam đã chủ động hội nhập sâu rộng vào kinh tế thế giới. Hiện nay, đã có 69 nước công nhận Việt Nam có nền KTTT đầy đủ, Việt Nam đã ký kết và đang đàm phám 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương, trong số đó, 14 FTA đã ký kết, có hiệu lực và đang thực thi, 01 Hiệp định chưa được phê chuẩn, sắp có hiệu lực, 02 Hiệp định đang đàm phán8. Nổi bật là các FTA thế hệ mới:

Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA); Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP); Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP).

Tỷ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa tăng từ 19% năm 2010 lên khoảng 50%

năm 2020.

va-nam-

2020/#:~:text=V%E 1 %BB%81 %20c%C6%A 1 %20c

%E 1 %B A%A5u%20n%E 1 %BB%81 n%20kinh,64%

25%3B%209%2C91 %25).

7

http://thutuchanhchinh.vn/noidung/tintuc/lists/tintuc/v iew_detail.aspx?itemid=2281

8 https://trungtamwto.vn/thong-ke/12065-tong-hop- cac-fta-cua-viet-nam-tinh-den-thang-112018

SỐ 22 tháng 6 năm 2021 43 Tạp chí Tài chính - Quản trị kinh doanh

(5)

1.2.2 Phát triển xã hội

a. Phát triển con người, cải thiện đời sống người dân

Kinh tế tăng trưởng cũng tạo điều kiện thuận lợi để phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Chỉ số phát triển con người (HDI), theo UNDP, đã tăng liên tục: từ mức 0,439 năm 1990; 0,534 năm 2000; 0,573 năm 2005; 0,611 năm 2010 và 0,704 năm 2019, đưa Việt Nam vào nhóm phát triển con người cao và xếp thứ 117 trong số 189 quốc gia và vùng lãnh thổ9. Trong giai đoạn 1990-2019, giá trị HDI của Việt Nam đã tăng gần 46%, nằm trong số các nước có tốc độ tăng HDI cao nhất trên thế giới, trong khi vẫn còn là nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp10...

9 https://nhandan.com.vn/tin-tuc-xa-hoi/viet-nam-vao- nhom-cac-nuoc-co-chi-so-phat-trien-con-nguoi-o- muc-cao-628385/

Đời sống người dân tiếp tục được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm theo từng năm. Năm 2020, cả nước có 16,5 nghìn lượt hộ thiếu đói, giảm 75,9% so với năm trước, tương ứng với 66,5 nghìn lượt nhân khẩu thiếu đói, giảm 76,1%. Tỷ lệ nghèo tiếp cận đa chiều năm 2020 ước khoảng 4,7%, giảm 1 điểm phần trăm so với năm 2019, đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia đầu tiên về đích trước mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc về giảm nghèo.

b. Thu nhập bình quân đầu người tăng, môi trường sống được cải thiện

Theo WB, từ năm 2010 đến năm 2020, Chi số vốn nhân lực của Việt Nam tăng từ 0,66 lên 0,69. Chỉ số vốn nhân lực của Việt Nam tiếp tục cao hơn mức trung bình của các nước có cùng mức thu nhập mặc dù mức chi tiêu công cho y tế, giáo dục và bảo trợ xã hội thấp hơn.

Năm 2020, Việt Nam là quốc gia Đông Nam Á duy nhất đạt được năm mục tiêu hành động của Liên hợp quốc, trong đó có các biện pháp giảm khí thải CO2, thúc đẩy năng lượng tái tạo và nâng cao khả năng chổng chịu với biến đổi khí hậu.

1.3 Một số tồn tại, hạn chế

Tuy đã đạt nhiều thành tựu ấn tượng, nhưng phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam vẫn còn một số tồn tại, hạn chế cả trên khía cạnh kinh tế và tài chính.

về kinh tế. Tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam vẫn còn thiếu bền vừng, chủ yếu tăng trưởng dựa trên đầu tư vốn và tăng trưởng tín dụng, trong khi chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu, dựa trên năng suất các yếu tố tống hợp mà căn bản là khoa học công nghệ và tri thức. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (ICOR) và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn hạn chế;

kinh tế Việt Nam vẫn ở trình độ gia công; cơ cấu kinh tế Việt Nam thay đổi đáng kể với đóng góp lớn của công nghiệp, nhưng cho đến nay, lợi thế của Việt Nam vẫn là lao động giá rẻ (Phạm Đức Minh, Phạm Thị Ngân Hà, 2019).

Mức độ tham gia của các doanh nghiệp trong nước vào các chuỗi giá trị toàn cầu còn thấp.

Xuất khẩu dựa vào lợi thế về giá nhân công; cơ cấu hàng xuất khẩu dưới hình thức gia công cho các tập đoàn, công ty nước ngoài là chủ yếu.

Hàm lượng giá trị gia tăng của sản phẩm xuất khẩu còn thấp.

về xã hội. Khoảng cách giữa Việt Nam và thế giới có xu hướng ngày càng bị nới rộng, cách đây 30 năm, GDP bình quân đầu người bình quân của thế giới hơn Việt Nam 3.900 USD, đến nay khoảng cách đã là hơn 8.000 USD và khoảng tiếp tục tăng qua các năm (Phạm Tiến Đạt, 2020).

Bên cạnh đó, chênh lệch về mức sống giữa các bộ phân dàn cư, giữa các vùng miền ngày càng có xu hướng nới rộng. Xoá đói, giảm nghèo chưa bền vững, chất lượng công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ còn thấp, hệ thống y tế và chất lượng dịch vụ y tế chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu khám chữa bệnh của nhân dân.

10 https://nhandan.com.vn/nhan-dinh/vi-the-va-co-do- kinh-te-viet-nam-631311/

44 Tạp chí Tài chính - Quản trị kinh doanh

(6)

2. Bối cảnh mới tác động đến phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam

Thứnhẩt, cuộc CMCN 4.0 với đặc trưng của công nghệ vật lý, công nghệ số, công nghệ sinh học, trí tuệ nhân tạo... hình thành nên những công nghệ mới giúp nâng cao năng suất lao động, hiệu quả hoạt động của con người tăng nhanh, tạo nền tảng cho sự vận động và phát triển các quan hệ kinh tế, quan hệ xã hội, quan hệ quốc tế... theo hướng thông minh, tốc độ cao, năng suất lao động cao.

Kinh tế số (KTS) đang được nhiều quốc gia tập trung phát triển. Nền KTS thế giới hiện có trị giá hơn 3.000 tỷ USD (Trần Thị Hằng và Nguyễn Thị Minh Hiền, 2019) trong khi KTS của Việt Nam trị giá 12 tỷ USD, đóng góp 5%

GDP quốc gia trong năm 2019 (Google, Temasek và Bain, 2019). Năm 2020, tổng giá trị hàng hóa giao dịch của nền KTS đã tăng lên 14 tỉ USD, và được dự báo sẽ tăng lên mức 52 tỉ USD vào năm 2025 (Báo cáo của Google, Temasek và Bain công bố tháng 10/2020).Tác động của CMCM 4.0 và sự phát triển KTS dẫn đến sự thay đổi về đối tượng quản lý, khách thể quản lý, phạm vi quản lý đòi hỏi quản lý nhà nước cần phải thực sự thích ứng, thậm chí đi trước một bước trong các hoạt động (Đặng Xuân Hoan, 2020).

Trong cuộc CMCN 4.0, nguy cơ bị “bỏ rơi”,

“bỏ lại phía sau” đối với các đối tượng yếu thế trong xã hội, chênh lệch giữa các khu vực, vùng miền có xu hướng gia tăng với mức độ và tốc độ ngày càng cao. Điều này sẽ tạo ra khó khăn lớn hơn cho việc xây dựng định hướng XHCN ở Việt Nam, khi phát triển kinh tế kết hợp với đảm bảo công bằng xã hội. Bên cạnh đó, CMCN 4.0 còn đặt ra những vấn đề mới về an ninh, quốc phòng, đặc biệt những vấn đề an ninh phi truyền thống.

Thứ hai, đại dịch Covid-19 gây ra những sự thay đổi trật tự kinh tế thế giới theo xu thế đa cực, đa trung tâm; dòng chảy thương mại, đầu

tư cũng có những biến động mạnh mẽ, khó lường. Nhiều tổ chức quốc tế đã so sánh đại dịch Covid - 19 với tác động của cuộc đại suy thoái kinh tế trong giai đoạn 1929 - 1933. Theo Quỳ tiền tệ quốc tế - IMF (tháng 4/2021), kinh tế thế giới tăng trưởng -3,3% trong năm 2020, trong đó tại các quốc gia phát triển là -4,7%;

một số nền kinh tế lớn đều sụt giảm nghiêm trọng (Mỹ là -9,9%, EU là -6,6%, Nhật Bản là - 4,8%...); tại các nước mới nổi và đang phát triển, tăng trưởng cũng ghi nhận mức tăng trưởng -2,2% trong năm 202011.

11 IMF (4/2021), World Economics Outlook.

Dưới tác động của đại dịch Covid-19, chủ nghĩa dân tộc sẽ ngày càng phát triển, thúc đẩy xu hướng dịch chuyển các lĩnh vực sản xuất cốt lõi của các doanh nghiệp đa quốc gia về bản địa (như xu hướng đã và đang diễn ra tại Mỹ). Xu hướng này sẽ làm hạn ché thương mại toàn càu và tác động trực tiếp đến các nền kinh tế có độ mở cao như Việt Nam. Với việc tổng kim ngạch xuất nhập khẩu xấp xỉ 2 lần GDP, Việt Nam chắc chắn sẽ cần nhiều giải pháp hiệu quả để ứng phó.

Thứ ba, xu hướng đan xen giữa tự do hóa thương mại với bảo hộ mậu dịch tiếp tục kéo dài; vai trò của các thể chế kinh tế quốc tế bị suy yếu. Các hiệp định thương mại tự do (FTA) sẽ giúp thúc đẩy tự do hóa thương mại đi liền với việc gia tăng các hàng rào bảo hộ thương mại phi thuế quan. Xu hướng ký kết các FTA song phương đang và sẽ tiếp tục trong giai đoạn tới. Phạm vi điều chỉnh của các FTA cũng rộng hơn, không chi là cắt giảm thuế quan và thuận lợi hóa thương mại mà còn các lĩnh vực liên quan đến cách thức sản xuất hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, sở hữu tri tuệ, chính sách cạnh tranh, mua sắm công; mức độ tự do hóa cao và hình thành trên cơ sở liên kết giữa các đối tác thuộc các khu vực địa lý khác nhau, đặc biệt là giữa các nước phát triển và đang phát triển.

Việt Nam đã tham gia ngày càng sâu vào thị trường thế giới, việc tham gia vào các FTA này

Số 22 tháng 6 năm 2021 45 Tạp chí Tài chính - Quản trị kinh doanh

(7)

mang lại nhiều cơ hội cho việc phát triến thị trường tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ cũng như cơ hội để tiếp thu những thành tựu khoa học và công nghệ (KH&CN), quản lý, vốn từ thế giới nhưng cũng mang lại không ít thách thức. Bên cạnh đó, việc ký kết các FTA đồng nghĩa với việc Việt Nam phải tiến hành mở cửa hơn nữa thị trường, cơ chế, chính sách quản lý cũng cần thực hiện theo các quy định, chuẩn mực của thế giới. Hội nhập sâu rộng hơn, đòi hỏi các chính sách của Việt Nam cần linh hoạt hơn, mở hơn và tương thích nhiều hơn với thế giới. Điều này cũng đặt ra nhiều thách thức với công tác quản lýnhằm giữ vững được định hướng XHCN.

3. Giải pháp phát triển nền KTTT định hướng XHCN trong bối cảnh mói

Trong bối cảnh kinh tế quốc tế nhiều biến động, để duy trì ổn định vĩ mô và phát triển kinh tế theo hướng bền vững, Việt Nam cần tiếp tục quản lý nền kinh tế, vừa đảm bảo mục tiêu đạt hiệu quả kinh tế, đồng thời giữ vững được định hướng XHCN.

Hoàn thiện thể chế, nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước trong nền KTTT định hướng XHCN

Việt Nam cần tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh theo hướng thông thoáng, hỗ trợ doanh nghiệp và phù họp với thông lệ quốc tế.

Đây được coi là giải pháp quan trọng, nền tảng để nâng cao hiệu quả sản xuất trong nước đồng thời củng cố thêm niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài nhằm thu hút nhiều hơn nguồn von FDI nhất là trong bối cảnh vốn này đang có xu hướng dịch chuyển mạnh mẽ khỏi Trung Quốc. Theo đó, Nhà nước hoàn thiện khung khổ pháp lý, hoạch định các chế định bảo đảm tôn trọng và củng cố các nền tảng cơ bản pháp lý và kinh tế của KTTT (quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh, cạnh ưanh bình đẳng, lành mạnh... của các thành phần và khu vực kinh tế ), hệ thống chính sách đòn bẩy và các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô khác.

Kinh tế nhà nước với vai trò dẫn dắt nền kinh tế cần phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò của mình. Tiếp tục đầu tư vào những lĩnh vực,

ngành nghề mà tư nhân không làm được hoặc làm không hiệu quả, chú trọng việc sản xuất các sản phẩm thiết yếu như y tế, giáo dục, KH&CN nhằm tăng cường tính chủ động và khả năng chống chịu trước các cú sốc từ bên ngoài. Nhằm đối phó với tác động của đại dịch Covid-19, trong khi các gói hỗ trợ của Chính phủ (tín dụng; miễn, giảm, giãn thuế; trợ cấp an sinh xã hội) đối với doanh nghiệp, người dân cần thời gian để phát huy hiệu quả thì giải pháp cấp bách trong lúc này là tăng cường khả năng giải ngân các khoản đầu tư công có giá trị hơn 30 tỷ USD (khoảng 700.000 tỷ đồng) trong năm 2020 thông qua các dự án lớn như: đường lăn sân bay Nội Bài và Tân Sơn Nhất, dự án cao tốc Bắc - Nam. Việc giải ngân, thực hiện hiệu quả các dự án trên sẽ giúp nền kinh tế lấy lại niềm tin, đồng thời tạo lực đỡ cho tăng trưởng thời gian tới.

Đẩy mạnh ứng dụng thành quả của cuộc CMCN 4.0 trong quản lý nhà nước, chú trọng phát triển KTS.

ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong quản lý nhà nước, nâng cao hiệu quả cải cách thủ tục hành chính, thực hiện chính quyền, Chính phủ điện tử. Cải cách thủ tục hành chính qua Chính phủ điện tử, giảm tải thời gian, thủ tục tạo môi trường thuận lợi thu hút những nhà đầu tư nước ngoài là nhiệm vụ trọng tâm của Nhà nước.

Từng bước hiện thực hóa quyết tâm xây dựng Chính phủ kiến tạo, phát triển, liêm chính, hành động, phục vụ người dân, doanh nghiệp nhất là trong bối cảnh CMCN 4.0. Tiếp tục hoàn thiện nền tảng cho phát triển Chính phủ điện tử hướng tới nền KTS, xã hội số và nâng cao năng lực, hiệu quả của tổ chức bộ máy Chính phủ. Đồng thời cần bảo đảm an toàn, an ninh thông tin, an ninh mạng đóng góp vào việc gia tăng các chỉ số cạnh tranh và chỉ số phát triển của quốc gia trong thời kỳ hội nhập.

Khẩn trương chuẩn bị các phương án triển khai hạ tầng kỹ thuật cho sự phát triển của KTS, phát triển dịch vụ 5G, để có thể theo kịp xu hướng thế giới. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng 46 Tạp chí Tài chính - Quản trị kinh doanh

(8)

nguồn nhân lực công nghệ thông tin gắn với các xu thế công nghệ mới như Internet kết nối vạn vật (loTs), trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ robot, đẩy mạnh liên kết đào tạo và thực hành giữa các trường và khu vực doanh nghiệp trong ứng dụng công nghệ thông tin.

Đẩy mạnh các chương trình đào tạo nhân lực, nhất là nhân lực ngành CNTT, cần hướng đên đây nhanh xã hội hóa giáo dục CNTT, đặc biệt là cập nhật giáo trình đào tạo CNTT gắn với các xu thế công nghệ mới như loTs, AI, công nghệ robot, tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên tiếp cận lĩnh vực này càng sớm càng tôt. Đây mạnh liên kêt đào tạo và thực hành giữa các trường và khu vực doanh nghiệp trong ứng dụng CNTT.

Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, tiêm lực của các doanh nghiệp trong nước trên các phương diện tài chỉnh; KH&CN; trình độ quản lý; khả năng tiếp cận thị trường...

Với xu thế hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam ngày càng tham gia nhiều hơn vào chuồi cung ứng toàn cầu thì đây là giải pháp căn bản giúp các doanh nghiệp Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu, đồng thời giữ được thị trường trong nước trước sự tấn công từ các doanh nghiệp nước ngoài.

Chính phủ cần có cơ chế hỗ trợ các doanh nghiệp mờ rộng khả năng huy động nguồn lực tài chính thông qua việc phát triển đồng bộ các thị trường vốn, thị trường tiền tệ. Có cơ chế phân bổ nguồn lực đầu tư cho phát triển thực sự hiệu quả, khắc phục sự đầu tư dàn trải, đầu tư mà cơ sở xác định hiệu quả chưa thực sự rõ ràng. Cải thiện khả năng tiếp cận tín dụng của khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa, tiếp cận vốn cùa nông dân, của các nhóm thiểu số trong xã hội.

Tăng cường đầu tư cho nghiên cứu, ứng dụng KH&CN, đảm bảo duy trì mức đầu tư 2%

tổng chi ngân sách, đồng thời có thêm giải pháp huy động nguồn lực tài chính ngoài ngân sách cho phát triển KH&CN. Tiếp tục đầu tư cho giáo dục, đào tạo nghề, nâng cao kỹ năng làm việc của người lao động, coi đây là “quốc sách”, chiến lược lâu dài phát triển kinh tế - xã hội.

Thực hiện hiệu quả các chỉnh sách hỗ trợ doanh nghiệp và an sinh xã hội

Nhiều giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp đã được Chính phủ đưa ra nhằm hồ trợ doanh nghiệp và người dân gặp khó khăn do tác động từ các cú sôc, nhât là với sự xuât hiện của đại dịch Covid- 19. Các giải pháp tập trung vào hỗ trợ tài chính như: gói hỗ trợ tín dụng có giá trị 300.000 tỷ đông giảm lãi suât cho vay đối với doanh nghiệp; gói miễn, giảm, giãn thuế với 98% các doanh nghiệp có thể tiếp cận với giá trị 180.000 tỷ đồng; hay gói hỗ trợ an sinh xã hội cho các đối tượng yếu thế với giá trị 62.000 tỷ đồng (Mai Khanh, 2020). Để các gói hỗ trợ hiệu quả cao nhât cần đảm bảo tính công khai, minh bạch, cũng như xác định đúng đối tượng, đúng tiêu chí và mức độ hỗ trợ phù hợp, điều quan trọng là đảm bảo thời gian nhanh nhất đến được với doanh nghiệp và người dân.

Bên cạnh hỗ trợ về tài chính, Nhà nước cần có các giải pháp hỗ trợ về thị trường tiêu thụ thông qua xúc tiến đầu tư trong và ngoài nước, theo đó Nhà nước cần mở rộng các hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư với các nước, chú trọng các thị trường lớn và nhiều tiềm năng:

Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, EU... Đồng thời xây dựng chiến lược phát triển thương hiệu quốc gia đối với các hàng hóa, dịch vụ có thế mạnh của Việt Nam (nông, thủy sản, giày dép, hàng may mặc). Nâng cao uy tín, thương hiệu sản phẩm

“made in Viet Nam ” trên thị trường quốc tế.

Nâng cao chất lượng, hiệu quả hội nhập quốc tế

Rà soát, điều chỉnh bổ sung hệ thống pháp luật và các thiết chế, cơ ché liên quan đáp ứng yêu cầu thực hiện các cam kết quốc tế. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế phối hợp điều hành giữa các bộ, ngành, địa phương trong thực thi các cam kết hội nhập và tiếp cận thị trường. Đổi mới công tác xúc tiến thương mại và đầu tư, cung cấp thông tin hỗ trợ doanh nghiệp, phát triển thị trường, nhất là thị trường xuất khẩu.

Nâng cao năng lực phòng ngừa, giải quyết tranh chấp thương mại, đầu tư quốc tế./.

Số 22 tháng 6 năm 2021 47 Tạp chí Tài chính - Quản trị kinh doanh

(9)

Tài liệu tham khảo

1. Phạm Tiến Đạt (2020), Vai trò của Nhà nước trong việc xây dựng, tổ chức và quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đê tài nghiên cứu khoa học và công nghệ câp cơ sở, Viện Chiến lược và Chính sách tài chính;

2. Trần Thị Hằng và Nguyễn Thị Minh Hiền (2019), Quản lý nhà nước trong nền KTS;

.html;

https://moha.gov.vn/danh-muc/quan-ly-nha-nuoc-trong-nen-kinh-te-so-41241

3. Đặng Xuân Hoan (2020), Yêu cầu đổi mới quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí cộng sản điện tử ngày 12/1/2020;

. vn/web/guest/kinh-te/-/2018/815789/yeu-cau-doi-moi-quan-ly-nha- nuoc-doi-voi-nen-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-o-viet-nam-hien-nay.aspx;

http://tapchicongsan.org

4. Mai Khanh (2020), Đầu tư công, liều thuốc cho nền kinh tế trong đại dịch? Thời báo kinh tế Sài Gòn, ngày 16/4/2020, trang 17;

5. Tổng cục Thống kê, website: http://gso.gov.vn.

6. Thế Lâm (2020), KTS Việt Nam: Du lịch "gãy", còn lại tăng trưởng khả quan, Tạp chí Lao động ngày 12/11/2020;

772. Ido;

https://laodong.vn/kinh-te/kinh-te-so-viet-nam-du-lich-gay-con-lai- tang-truong-kha-quan-853

7. Phạm Đức Minh, Phạm Thị Ngân Hà (2019), Tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, sô 9 — 2019;

8. Nguyễn Minh Phong, Nguyễn Trần Minh Trí (2021), Vị thế và cơ đồ kinh tế Việt Nam, truy cập: https://nhandan.com.vn/nhan-dinh/vi-the-va-co-do-kinh-te-viet-nam-631311/;

9. Google, Temasek và Bain (2019), E-Economy SEA 20219;

10. IMF (2020, 2021), World Economic Outlook (10/2020; 4/2021).

So 22 tháng 6 năm 2021 48 Tạp chí Tài chính - Quản trị kinh doanh

Referensi

Dokumen terkait

Khu vực kinh tế nông nghiệp, kinh tế cá thể và hộ gia đình thay cho kinh tế hợp tác xã, quan hệ kinh tế thị trường thay cho cơ chế kế hoạch hóa tập trung, kết quả lao động dựa trên vốn

Trong thời đại ngày nay, do phương thức sản xuất tư bản có bước phát triển mới và đạt được nhiều thành tựu mới về kinh tế, khoa học và kỹ thuật, cho nên một số nhà mác xít mới cho rằng

Đây là điểm mới trong việc nhận thức về mâu thuẫn xã hội chủ yếu trong bối cảnh lịch sử mới; Xác định rõ Bố cục tổng thể của chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới là

Chỉ lúc đó, chế độ dân chủ mới bắt đầu tiêu vong vì lý do đơn giản là một khi thoát khỏi chế độ nô lệ tư bản chủ nghĩa, thoát khỏi những sự khủng khiếp, những sự dã man, những sự phi

Với cách tiếp cận đa ngành, từ quan hệ quốc tế, liên kết vùng và hợp tác phát triển kinh tế theo khuôn khổ hợp tác xuyên biên giới, 4 chương sách cung cấp cho độc giả những kiến thức cơ

Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do

Mục IV trong Văn kiện Đại hội XIII với tiêu đề là Hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế, phát triền kinh tê thị trường định hướng XHCN, yêu cầu, trước hết chúng ta phải thống nhất và

Định vị DN kinh doanh khách sạn ở Việt Nam trong việc thực hiệnCSR về bản chất, CSR kinh doanh khách sạn chính là sự kết hợp hài hòa giữa việc thực hiện các quy định của luật pháp về