• Tidak ada hasil yang ditemukan

Niên Hiệu Minh Mạng

Dalam dokumen PDF Quốc Triều Chánh Biên Toát Yếu (Halaman 57-125)

Hai tên húy Ngài viết bằng chữ Hán:

1. Bên tả chữ, bên hữu chữ.

2. Bên tả chữ, bên hữu chữ.

Ngài là con thứ tư đức Thế tổ; đức Thuận Thiên Cao Hoàng hậu họ Trần sanh Ngài trong năm Tân Hợi. Khi trước đức Cao Hoàng hậu chiêm bao thấy thần dân cho một cái ấn ngọc, đỏ như mặt trời, rồi sanh ra Ngài. Năm Gia Long thứ 15, đức Thế tổ lập Ngài làm Hoàng thái tử, ở điện Thanh Hòa; đến khi 30 tuổi nối ngôi, trị vì được 21 năm, hưởng thọ được 51 tuổi; lăng Ngài là Hiếu lăng.

Năm Canh Thìn thứ 1 (1820), tháng giêng, Ngài lên nối ngôi ở điện Thái Hòa, đặt niên hiệu Minh Mạng, ra ơn đại xá, ban ân chiếu cả thảy 16 điều.

Cho nước Chân Lạp tờ sắc thơ và hàng lụa; lại khiến chế đồ y phục trắng đem ban cấp tại nhà Nhu Viễn.

Ngài minh thận việc chánh trị: phàm những chương sớ trong ngoài, Ngài đều xem hết, việc thường thời diện dụ cho các nha, nghị chỉ phê phát; còn việc quan trọng thời phần nhiều tự Ngài nghị soạn lời chỉ, hoặc giao bản thảo, hoặc châu phê. Những tờ chỉ dụ Triều đình mới chó châu bản1 từ đây là đầu.

Truyền bộ Hộ làm sách tổng cộng tiền lương, xét sổ tiêu lúa thâu và lúa phát, còn lại được bao nhiêu, làm ra hai bản sổ: một bản dâng lên sở Kinh diên, một bản dâng để Ngài xem rồi ban ra.

Quan Thống quản đồn Oai Viễn Nguyễn Văn Tồn mất, Ngài truyền dụ bộ Lễ rằng: "Nguyễn Văn Tồn tuy là người nước khác, nhưng hết sức làm tôi, thờ đức Tiên đế đã lâu, một lòng trung nghĩa, thiệt nên thương tiếc!". Truyền quan tuyên lời dụ, Ngài cho ân tế một lần; và cho hai cây gấm Tàu, 20 cây vải, 200 quan tiền (sau đến năm Minh Mạng thứ 9, Tồn lại được tặng hàm Thống chế. Đức Thánh tổ bảo bộ Lễ rằng: "ngươi Tồn tánh vốn trung dõng, như người Kim Mật Đê nhà Hán bên Tàu, khi trận đánh ở tỉnh Bình Định bị Tây Sơn bắt, thế mà đem quân về hết, thiệt là mạnh và khôn").

Khiến Bùi Đức Mân qua nước Xiêm báo việc Quốc tang; vua Xiêm hỏi rằng: "Tục nước tôi điếu tang, lấy bố thí làm hậu; nay muốn sai Sứ đem vàng làm phước, có nên không? - Đức Mân tâu rằng:

cũng chẳng hại gì". Khi trở về, Ngài ban quở, giao cho bộ Hình định tội. Trịnh Hoài Đức và Phạm Đăng Hưng tâu xin, Mân mới được tha.

Tháng 2, tha thuế điền, thổ cho lưu dân làng Nga My về huyện Nông Cống tỉnh Thanh Hóa. Từ đó về sau, ruộng đất của lưu dân bỏ hoang, mà quan sở tại làm sớ dâng lên, đều tha thuế cả. Dân làng

1 Châu bản: là bản chữ son, bởi vì Hoàng Đế viết bằng son.

An Vân và làng Đốc Sơ về huyện Hương Trà dinh Quảng Đức (Huế) xin tha việc quan 2 tháng, để đào mương lấy nước tưới ruộng. Ngài khiến quan sở tại khám thiệt sẽ cho.

Khiến các cửa biển dự chứa tiền gạo để cấp cho kẻ bị nạn gió bão, nhưng phải xét kẻ bị nạn đó đi việc công hay việc tư, mà tùy cấp nhiều hay ít; nếu đi việc công, thời từ Đội trưởng trở lên gia cấp tiền gạo xấp hai.

Khiến quan Thiêm sự Hoàng Quốc Bảo, quan Thị hàn Hoàng Sư Đính và quan Nội hàn Lê Bá Tú đến Quảng Trị phát lúa kho ra bán. Nguyên trước dân Quảng Trị điêu háo lắm, bọn Quốc Bảo phụng phái đi xét hỏi, rồi đem tình dân khổ sở tâu lên, Ngài mới khiến phát lúa kho giảm giá mà bán (mỗi hộc lúa giá 8 tiền; binh dân thời bán cho mỗi tên một hộc, còn kẻ quan, quả, cô độc thời bán cho nửa hộc); và đòi quan Ký lục (tức là quan Án sát bây giờ) Lê Đồng Lý quở rằng: "bọn mầy làm quan trị dân, mà để cho dân đến như thế, là mầy vỗ nuôi trái đạo; nhưng mầy làm việc quan chưa được mấy ngày, nay hãy tha cho, phải về hội đồng với Lưu thủ Bùi Văn Thái phái viên làm cho thỏa đáng, khiến dân được đội ơn cả, để chuộc điều lỗi mầy trước. Còn Cai bộ Nguyễn Cư Toán không tài trị dân, phải giải chức ngay về Kinh chờ chỉ". Lại giao cho Đình thần bàn, phàm những dân trong dinh hạt lưu tán, thời tha việc quan, hoãn nạp thuế, để thư việc gấp cho dân.

Ngày Tân Sửu tế Trời, Đất ở đàn Nam Giao; xong rồi, mưa như đổ nước. Khi trước trong Kinh kỳ ít mưa, Ngài định tế giao rồi thời cầu mưa, mà bây giờ mưa liền, người ta cho là tinh thành Ngài cảm động đến trời.

Mới đúc tiền đồng và tiền kẽm nặng 6 phân, hiệu Minh Mạng thông bửu; khiến đưa kiểu tiền tra cuộc Bửu tuyền ngoài Bắc thành theo kiểu ấy mà đúc và lệ định lệ tiền công thợ với giá vật liệu.

Tháng 3, bãi thuế điểu đình (là theo thuế đánh chim) trong tỉnh Hà Tiên. Ngài dạy rằng: "Tiểu dân theo lợi, chăm nghề đánh bẫy chim, hại sanh vật nhiều, ta thiệt không nỡ, vậy cho bãi thuế ấy".

Định lệ cho kẻ phạm tội cướp ra thú: hạng cho tới cuối tháng 6 năm nay, tên nào xin ra thú thời tha; nếu quá hạn thời cứ luật phân biệt làm hai hạng: 10 nên cho thú; 20 không nên cho thú; để co chúng biết sợ.

Tháng 4, khiến bộ Hộ mỗi tháng cấp tiền gạo cho các thợ; thợ nào chế khí dụng tinh xảo thời thưởng hậu hơn.

Tháng 5, đòi các Hương cống khoa Kỷ Mão tới Kinh, bổ làm Hành tẩu 6 Bộ để học tập việc chánh, mỗi người mỗi tháng cấp tiền 2 quan, gạo 2 lương; khiến Nguyễn Hữu Thận lựa người nào học hạnh thuần cẩn, sung chức Trực học để dạy Hoàng tử; Thận đem Trương Đăng Quế, Doãn Văn Xuân và Ngô Hữu Vĩ cử lên. Ngài cho.

Xuống chiếu cầu sách cũ. Trịnh Hoài Đức dâng 3 quyển Gia Định thông chí và Bột di ngư văn thảo của nhà Minh; Hoàng Công Quảng Đức là Cung Văn Hy dâng 7 quyển Khai quốc công nghiệp diễn chí; người trấn Thanh Hóa là Nguyễn Đình Chính dâng 34 quyển Minh lương khải cáo lục; người dinh Quảng Nghĩa là Võ Văn Biều dâng 1 quyển Cố sự biên lục. Ngài tùy bậc thưởng cho bạc và lụa.

Mới định lệ thuế đinh trấn Thanh Hóa, Nghệ An và Thanh Bình (là Ninh Bình). Khi trước 3 trấn ấy chỉ cứ số người trong sổ thường hành mà nạp thuế; đến đây sổ đinh xong rồi, mới định lệ thuế cũng như các trấn ngoài Bắc thành (thiệt nạp dân hạng tráng từ 20 tuổi trở lên, mỗi năm nạp tiền dung 1 quan tiền, tiền mân 1 tiền, cước mễ 2 bát; còn 18 tuổi thời một năm nạp tiền dung 5 tiền 30 đồng, tiền mân 30 đồng, cước mễ 1 bát, còn dân biệt nạp cũng thế; con các quan viên từ chánh tứ đến lục phẩm và các hạng người lâu nay được nạp thuế nhẹ, thời bây giờ cũng nạp như tráng hạng vậy; chức sắc, con các quan từ tùng tam phẩm trở lên, Hương cống, Sanh đồ, Cai hạp, Thủ hạp, tại gia nhiêu thân, nhiêu ấm, tấn thân khoa mục nhà Lê, lính giản các quân, dinh, vệ, đội, lính giáo phường các quân cơ vệ đội, nội gián, lính kho, lính trạm, đều là hạng tiêu sai cho tha thuế).

Bộ Hộ tâu các án lậu đinh điền ngoài Bắc thành, xin thôi thâu thuế lệ. Ngài giao cho Đình thần bàn, phàm tứ sáng mồng một tháng giêng năm thứ 1 hiệu Minh Mạng về trước mà phát giác ra thời không kể; còn từ tháng giêng về sau phát giác ra mới cho thôi thâu; lưu dân và tù phạm tha về, đem vào sổ đinh, thời tha thuế thân năm ấy.

Tháng 6, lập Quốc sử quán.

Tha thuế điền, thổ bị lở cho làng An Lãng về huyện Nam Xang trấn Sơn Nam (là tỉnh Nam Hà).

Về sau hễ địa phương nào có tâu ruộng đất bị lở, thời tha thuế cả.

Cấm những người coi quân không được xâm khắc quân sĩ, phàm mỗi tháng cấp lương lính và khi được ơn vua cho mà giám khắc giảm đi, với lại nhơn việc để dùng dằng, đều phải tội nặng.

Tháng 7, lập miếu Khai quốc công thần và miếu Trung tiết công thần bên tả miếu Trung hưng công thần.

Các trấn phía Nam và phía Bắc đều tâu có bệnh dịch. Ngài xuống chiếu cầu lời nói trực, quan Thiêm sự bộ Lễ là Nguyễn Đăng Tuân tâu 6 điều: (10 lập viện ngự sử, 20 đặt quan Thái phỏng sứ; 30 bớt những quan dư; 40 lập nhà học các châu, huyện; 50 mở ân khoa; 60 ban ân lập đàn tế cô hồn).

Lại định điều cấm thuốc nha phiến.

Nước Chân Lạp có thầy tu tên là Kế làm loạn, xâm cướp đạo Quang Hóa, Quang Phong và Thuận Thành (thuộc trấn Phiên An). Quan trấn Phiên An là Đào Quang Lý đánh không được, giặc càng hung dữ, cướp phá khắp nơi; khi Lê Văn Duyệt đến, sai Hoàng Công Lý đem quân đi đánh và tư cho nước Chân Lạp thêm binh giúp sức, giặc thua chạy, Lý đem quân về.

Tháng 9, giặc Kế nước Chân Lạp tức bức thành Nam Vang (thành Chân Lạp), nước ấy đưa thơ cáo cấp. Lê Văn Duyệt sai quân Thống chế là Nguyễn Văn Trí đem quân cứu viện.

Định lệ quan viên được thuyên thăng phải có người dẫn vào yết kiến.

Tháng 10, Nguyễn Văn Trí đánh giết giặc Kế ở đất Ba Tầm Lai (về phủ Thần Thu); báo tiệp, Ngài mừng, bảo các quan rằng: "thầy tu làm loạn gần đến thành Nam Vang, may có Lê Văn Duyệt vừa đến, sai tướng phá tan; không thế thời thành Nam Vang mất, như làm hư hại rào dậu taa, thời thành Gia Định e có sự nguy hiểm". Lê Chất tâu rằng: "thầy tu ấy cũng là giặc mạnh, khi trước Lê Văn Duyệt sợ phiền lượng Thánh nghĩ, nên không dám nói sự giặc to lớn đó thôi".

Vua Chân Lạp là Nặc Chân lấy vì cớ tên Kế làm loạn, tự đến thành Gia Định tạ tội. Ngài sai sứ đem tờ chiếu ủy dụ rằng: "Nước nhà ngươi mới yên, lòng ngườo còn đang trông mong, không nài sao được, ta cũng xét tình cho, không trách gì; trong các quan nước nhà người, trừ ra những tên: Tham, Đích, Tây, Kế, Luyện, Na, và Côn (mấy tên ấy theo giặc) phén không nên tha, còn đều là tôi con thuộc quốc của Triều đình cả, nên dung cho, đừng ngờ sợ gì, phải thêm dốc lòng kính thuận, vỗ yên nhân dân, sửa chức cống của nhà ngươi cho thỏa ý ta thương yêu bảo hộ".

Tháng 11, quanTrấn thủ Phiên An là Đào Quang Lý làm quan trái phép, quan Tổng trấn Gia Định tra ra tình trạng tâu lên; Ngài nghĩ Lý là tôi cũ theo ở thành Vọng Các, tha khỏi chết, nhưng phải giam cấm truy tang; rồi sau lại bị giết và tịch biên gia sản trả lại cho binh dân; lại truyền dụ cho các Võ ban đều biết để mà kiêng sợ.

Tháng 12, bộ Binh tâu rằng: "trong khoảng mùa hạ, thu, khí trời không hòa, Hoàng thượng suốt biết tình dân, khoan đòi lính thiếu; nay lệ đã yên rồi, xin y như cũ đòi mà điền vào cho đủ ngạch lính".

Ngài dụ rằng: "tật bệnh mới khỏi, kẻ đi trốn chưa về hết, nếu đòi gấp, thế e làm rối dân chăng". Không cho.

Xuống chiếu mở Ân khoa thi Hương, thi Hội, định mùa thu năm nay Tân Tỵ thi Hương, mùa xuân năm Nhâm Ngọ thi Hội.

Bọn giặc nước Chân Lạp bình cả rồi, khiến triệt binh ở thành Gia Định về.

Lê Văn Duyệt xin tâu triệt lính, nhưng để Nguyễn VănThụy đem 700 quân ở lại bảo hộ Chân Lạp, chờ nước ấy hơi yên, sẽ trở về Châu Đốc, kiêm giữ Hà Tiên, để bớt lính thú. Ngài cho.

Bắc thành tâu: bệnh dịch đã bớt. Năm ấy bệnh dịch từ mùa Thu qua mùa Đông, khởi đầu từ Hà Tiên suốt đến Bắc thành, số dân chết đến 206.835 người, đó là không kể trai, gái, già, trẻ ở ngoại tịch;

trước sau những tiêu chẩn cấp tất cả là hơn 730.000 quan (đồn rằng bệnh dịch ấy từ bên Thái tây lây qua).

Năm TânTỵ thứ II (1821) trấn Biên Hòa bị lụt, dân đói; Ngài khiến đem tiền gạo chẩn cấp.

Lính Thị trung đào được 10.000 cân đồng, dâng lên; Ngài khiến đem đúc 3 cái súng lớn, đều đặt tên là: "Bảo quốc an dân Đại tướng quân". Ngài ngự chế bài văn khắc vào súng.

Quan Giám thành Đỗ Phúc Thạnh dâng địa đồ núi sông dinh Quảng Đức (từ sông Lương Điền đến nửa núi Hải Vân, dài 24.000 trượng, thành ra 170 dặm; từ cửa biển Thuận An đến xứ Mọi thấp ở đầu rừng, bề ngang 10.000 trượng, thành ra 74 dặm dư 10 trượng). Ngài xem địa đồ ấy rồi nhơn bàn đến địa thế ở trấn Nghệ An rằng: "khi trước đức Tiên đế vẫn muốn đóng đô ở Nghệ An, nhưng thành Phú Xuân là chánh giữ nước, trong Nam ngoài Bắc, đàng đất cân nhau; còn Nghệ An nên lựa kẻ trọng thần giữ đó".

Tháng 2, đặt tên sông An Cựu là sông Lợi Nông, phía trên phía dưới đều dựng đá mốc ghi lấy;

sông bốn phía Kinh thành thời đặt tên sông là sông Hộ thành, cầu Bạch Yến đổi tên là cầu Kim Long.

Xóa tên Nguyễn Xuân Hải trong sổ Hương cống. Hải là người làng Đông Ngạc, tỉnh Sơn Tây, mạo vào sổ dinh Quảng Nam, thi đậu Hương cống, Hàn lâm biên tu Hoàng Quýnh phát giác, vì thế phải xóa tên trong sổ Hương cống.

Lê Văn Duyệt trấn Gia Định, ủy quan Thiêm sự Trần Nhật Vĩnh vào chầu. Ngài hỏi: "nước Chân Lạp có sợ oai mến đức không? - Vĩnh tâu rằng: nó có sợ oai, còn mến đức e chưa dám chắc".

Khiến quan văn quan võ xét trong thuộc viên mình ai có tài nghệ gì thời cho cử lên.

Tháng 3, nước Vạn Tượng khiến Sứ qua cống, Ngài ủy lạo hậu thưởng mà cho về. Nó lại nói đàng Nghệ An ngạng trở, Ngài dụ cho quan trấn ấy đem quân đưa về.

Lại khiến quan đem ấn qua bảo hộ Chân Lạp. Vì Nặc Chân có dâng biểu tâu: "nước tôi nhỏ yếu, khi trước nhờ ơn đức Thái tổ cao hoàng đế tài bồi, sai quan bảo hộ, nước tôi nhờ mà yên được; vì tôi trẻ thơ chưa biết gì, tin lời nói dèm, nên quan binh bảo hộ rút về Gia Định; trong nước lại có nghịch Kế, nghịch Tây làm loạn, nhờ quan binh tới đánh, bình được cả; vậy thời tôi giữ được nhà nước tôi, đều là ơn Triều đình gầy dựng lại; nay xin đặt quan bảo hộ như trước". Ngài thương tình, mới khiến Nguyễn Văn Thụy giữ thành Châu Đốc, lại cho ấn bảo hộ nước Chân Lạp, kiêm coi việc Hà Tiên. Ngài dụ rằng: "thành Châu Đốc là nơi xung yếu, ngươi nên khéo trị, mộ dân buôn, lập thôn ấp, cho số hộ ngày càng thêm, ruộng vườn ngày càng mở, mà việc phòng bị nơi biên thùy càng thêm cẩn thận; phàm tờ biểu văn, công văn Chân Lạp, thời xem xét trước rối sẽ phát đệ; còn công việc trong nước nó, đều giao cho vua và quan phiên cứ theo tục nước nó mà làm; lại nên nghiêm trấp quân sĩ không được mưu lợi riêng, để cho trong thể thống nước mình".

Dùng Hàn lâm tu soạn Nguyễn Đăng Sở làm Đốc học Gia Định, người học trò trấn Nghệ An là Nguyễn Trọng Võ làm Phó đốc học, đó là theo đình thần cử lên. Ngài thường bảo quan thượng thơ bộ Hộ Nguyễn Hữu Thận rằng: "người Gia Định tánh vốn trung nghĩa, nhưng ít học, nên hay ưa khích khí, nếu được kẻ học giỏi làm thầy, đem lễ nhượng mà dạy, thời dễ hóa là thiện, mà thành tài được nhiều".

Đúc ấn Quan phòng bằng đồng phát cho ty Thương thuyền, ty Tào chánh và Tào Hộ, Binh, Hình, Công ở Gia Định, Bắc thành; đúc ấn đồng phát cho các dinh, trấn, đạo, phủ, huyện.

Tha thuế thân cho thợ mộc, thợ cưa, thợ đóng thuyền các làng ở Bắc thành và Nghệ An.

Tháng 4, Ngài duyệt xem Kinh thành, thấy tên lính đâu nằm bờ hồ, hỏi ra mới biết lính Ban trực tiền vệ, mới bắt tội, quản vệ bị đánh 40 roi, Chánh đội bị đánh 80 trượng. Ngài dụ bộ Binh rằng: "nay về sau cứ theo lệ ấy mà định tội. Còn trong Kinh thành thời cứ giám thành, ngoại thành thời cứ dinh Quảng Đức phải giữ địa phận mà tuần xét, phàm ở đàng sá có kẻ đau yếu, như lính thời giao cho quản suất, dân thời giao cho Lý trưởng hay là thân nhơn nuôi, nếu trái phép ấy thời coi số người đau nhiều hay ít, ngày tháng lâu hay mới mà định tội".

Định lệ thuế sâm núi Sa Kỳ ở Quảng Nghĩa (số hộ lấy sâm là 30 người, mỗi năm một người nạp 3 cân sâm, không có thời theo lệ biệt nạp mà thế nạp tiền 8 quan).

Nguyễn Văn Thắng từ bên Thái tây qua dâng Hàn thử xích, Ngài hỏi: "muốn về nước không?- tâu rằng: tuổi đã già, xin ở trọn đời làm tôi". Lúc ấy có người qua với Thắng một lần, dâng Quốc thơ và đồ thổ sản, xin thông thương; Ngài hậu đãi phẩm vật cho về.

Tháng 5, Ngài nghĩ trong trấn Nghệ An dân biệt nạp gỗ lim lưu tán mới về, dụ cho quan trấn xét thuế gỗ nạp đó như không nhằm thức và có tỳ, đều cho thâu cả; có thiếu thời hoãn cho.

Quan thành Gia Định tâu: "học trò các trấn ngoài, ở đây học tập, có kẻ đã đậu nhất nhị trường, tới trú ngụ đã lâu ngày, bây giờ thành ra người trong xứ, xin cho chúng nó phụ thí". Ngài cho. Lại dụ rằng: "nay về sau từ Phú Yên trở về Nam cho tùy tiện phụ thí, từ Bình Định trở về Bắc phải theo nguyên tịch, như lời Bộ nghị". Quan trấn lại tư Bộ rằng: "bệnh dịch mới rồi, nhiều có trọng tang, phép trường không được đi thi; nên số học trò thi không được mấy, xin Bộ tâu lên". Ngài ban rằng: "đem hiếu làm trung, là bản lĩnh người ta lập thân, quên tang cha mẹ mà gấp đàng vinh tấn, không phải là hiếu, đã bất hiếu còn thờ vua sao đặng; chờ đến khoa sau cũng chẳng muộn gì".

Quan thành Gia Định tâu: "quân Thần sách ở Thanh, Nghệ, và lính thú các dinh ở Bắc thành lệ có tiền phụ dưỡng quần áo, mỗi năm cứ địa phương đòi quan sở tại vận cấp". Ngài dụ rằng: "thuế chánh cung1 nhà nước, dân còn chưa sẵn, tiền chi phí nuôi lính, bắt nữa sao đành; phàm lính giữ thành, trừ lương hướng ngoại, cứ mỗi tên cấp thêm cho 5 quan tiền; còn quần áo thời quan phải cấp, mà tha tiền phụ dưỡng cho dân".

Tháng 6, sông Ngưu Chữ ở Gia Định nước trong hơn 50 dặm, từ ngày Canh Thìn đến ngày Tân Mão cả thảy 12 ngày.

Trong hạt Gia Định nhiều trộm cướp. Ngài bảo Thị thần rằng: "Đất Gia Định vốn sợ Lê Văn Duyệt, sao mà trộm cướp ngày càng nhiều thế?, quan Hữu quân Nguyễn Văn Nhơn tâu rằng: "đất ấy nhiều nơi bụi rậm, đầm lầy, trộm cướp dễ nhóm họp; huống chi dân ấy không biết chứa để, ngoài việc cấy lúa, không trồng trỉa gì, ngộ năm mất mùa, thời không giữ lòng thường được".

Tháng 7, nước sông Ngưu Chữ lại trong 6 ngày. Khiến quan trấn Phiên Yên đem lễ kinh tế, để đáp phúc tốt quỷ thần.

Trấn Thanh Hóa và Thanh Bình bị gió bão mưa to, lúa ruộng ngâm nước mất, Ngài khiến quan địa phương tới khám rồi tâu lên.

Ngài định tháng 9 ngự giá Bắc tuần. Khi trước Sứ ta là bọn Trần Bá Kiên tháng 4 đến Yên Kinh, vua Thanh2 sai quan Án sát tỉnh Quảng Tây là Phan Cung Thần sung chức Khâm sứ. Ngài khiến Chưởng thủy quân Tống Phúc Lương lãnh thuyền binh đi trước; khiến Thanh, Nghệ và Bắc thành dự chỉnh thuyền binh rước ngự giá.

Truyền phàm nơi phát tích miếu Lịch Đại Đế Vương mà gần đàng đi, thời khiến các quan kính tế;

còn thần Sơn, Xuyên thời cứ địa phương mỗi trấn lập một đàn hiệp tế.

Ngày Nhâm Tuất ngự giá từ Kinh sư ra đi, ngày Mậu Thìn đến Hành cung Quảng Bình, Ngài lên thành xem lũy xưa, lại ngự xem cửa Nhật Lệ một hồi lâu.

Cho lập hai đàn tế các tướng sĩ Nam, Bắc tử trận (nhưng tế nam tướng sĩ thời hễ phẩm trọng hơn). Ngày Canh Ngọ qua sông Gianh; ngày Tân Vị qua núi Hoàng Sơn; ngày Bính Tý đến Hành cung Nghệ An, tha thuế điền năm ấy. Ngài thấy Hành cung làm rộng lớn quá, quở các quan trấn; liền khiến gia thưởng cho quân dân 6.000 quan tiền.

Tháng 10, ngày Nhâm Ngọ, đến Hành cung Thanh Hóa, các phụ lão chiêm bái, Ngài thưởng 300 lạng bạc, tha cho nửa thuế ruộng mùa đông và nửa thuế thân năm ấy; Ngài thấy Hành cung giản tiện

1 Thuế chánh cung là thuế đinh điền.

2 Vua Dạo Quang nhà Thanh.

Dalam dokumen PDF Quốc Triều Chánh Biên Toát Yếu (Halaman 57-125)

Dokumen terkait