• Tidak ada hasil yang ditemukan

Niên hiệu Tự Đức

Dalam dokumen PDF Quốc Triều Chánh Biên Toát Yếu (Halaman 147-200)

Tên húy Ngài viết bằng chữ Hán:

Bên tả chữ Bên hữu chữ.

Trên chữ Ngài viết bằng chữ Hán.

Bên tả chữ

Bên hữu chữ mà trên có chữ Hường làm chữ lót.

Ngài là con thứ 2 đức Hiến Tổ Hoàng Đế; đức Từ Dũ Hoàng thái hậu họ Phạm Đăng sanh Ngài trong năm Kỷ Sửu, niên hiệu Minh Mạng thứ 10 (1829). Đến năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), Ngài được phong tước Phước Tuy Công. Khi ấy An Phong Công là Hường Bảo tuổi tuy lớn, nhưng về con giòng thứ, lại ít học ham chơi; còn Ngài thời tánh nhơn hiếu thông mẫn lại ham học; đức Hiến Tổ thương lắm, thường đòi vào chầu, dạy Ngài những đạo học Đế, Vương, đời trước, cho đến việc dân gian cày cấy khó nhọc, lại cho một bộ sách "Thánh chế chỉ thiên đàn thi văn hội tập", và dụ rằng: "bộ sách ấy là ý chỉ của đức Hoàng Tổ ta để lại, phép trị thiên hạ đều ở đó". Đức Hiến Tổ khi ấy đã có ý lập Ngài rồi.

Tháng 9, năm Thiệu Trị thứ 7 (1847), đức Hiến Tổ se, di chiếu lập Ngài nối ngôi. Ngài ở ngôi được 36 năm, thọ 55 tuổi. Lăng Ngài là lăng Khiêm Lăng.

Tháng 10, ngày Kỷ Sửu, Ngài lên ngôi tại điện Thái Hòa; đặt niên hiệu là Tự Đức, kể từ sang năm là năm Mậu Thân làm đầu, ban ân chiếu khắp trong ngoài.

Cho Cố mạng lương thần phụ trách chánh đại thần Trương Đăng Quế thăng Cần chánh điện đại học sĩ, tấn phong Tuy thạnh quận công; Phụ chánh đại thần Võ Văn Giải tấn phong An Viễn Hầu; Nguyễn Tri Phương phong Tráng Liệt Bá; Lâm Duy Thiếp thăng Hiệp tá đại học sĩ.

Truyền các quan địa phương tâu rõ tình trạng khốn khổ ngoài dân gian.

Tháng 12, thự Tả tham tri bộ Công là Trương Quốc Dung dâng sớ tâu 5 điều: 1. Bớt việc chi tiêu, 2. Cẩn việc hình ngục, 3. Chỉnh đốn quan lại, 4. Giảm bớt văn án, 5. Sửa sang phép học. Trong sớ ấy lại nói: "tài lực trong dân, so với năm trước mười phần kém đến năm sáu, mà các quan địa phương thường hay trau giồi tiếng tốt: hỏi số dân thời tâu rằng tăng, hỏi mùa màng thời tâu rằng được, chỉ muốn cho mình được tiếng khen, mà lòng thiệt vì nước vì dân thời ít. Mới rồi đây, mống trên trời thường hiện ra, e khí âm dương hoặc có chưa hòa; vậy xin Hoàng thượng sắc cho các quan, bớt phiền văn, bỏ thói đối mà chăm điều thiện, cho đến việc công dịch, việc thâu thuế, đều nên khoan giảm cho binh dân ít tốn của nhọc công, để cố kết lòng người thời khí hòa ứng mà tai dị khỏi được". Ngài dụ đình thần xét lời sớ ấy phúc tấu thi hành.

Mới lập nhà thờ Hiền Lương để thờ các hiền thần giúp trị, và nhà thờ Trung Nghĩa để thờ các trung thần. Hai nhà thờ ấy lập tại bên tả chùa Thiên Mụ.

Năm Mậu Thân hiệu Tự Đức thứ 1 (1848), tháng giêng, quan Nội các là bọn Nguyễn Bá Nghi thấy khi ấy các quan tâu việc thường dâng mật sớ, bèn tâu rằng: "các quan tâu việc, nếu không phải việc binh nhung, việc đại chánh trong nước và các việc không nên tiết lậu, thời xin không được dâng mật sớ, để cho khỏi tệ lén cáo giác nhau". Ngài chuẩn cho biên để làm lệ thường.

Cấp cho thuyền buôn nước Tàu bị gió xiêu, mỗi người một phương gạo. Ngài truyền chỉ từ nay về sau có thuyền bị tai nạn, đều chiếu lệ ấy chẩn cấp.

Vua Cao Man là Sá Ong Run sai sứ đệ đồ phẩm nghi làm lễ dâng hương, lễ khánh hạ và lễ tuế cống.

Ban sắc thơ, hàng lụa cho nước Thủy xá và Hỏa Xá. Hai nước ấy đều xin sai sứ đến làm lê dâng hương và lễ khánh hạ. Ngài cho.

Tháng 2, Tuần phủ Ninh Bình là Ngô Kim Liên dâng sách Đại học diễn nghĩa bổ.

Quan tỉnh Bình Thuận dâng tập sổ "khẩn ruộng đất hoang". Ngài truyền dụ quan tỉnh phải gia tâm chuyên đốc khẩn trị, làm cho đất không bỏ hoang, dân được giàu có.

Tháng 3, tỉnh Hà Tĩnh gạo mắt lắm, Ngài truyền phát lúa gạo kho, giảm giá bán cho dân; lại truyền dụ khiến nghiêm trấp người giữ kho không được kiếm điều lôi thôi, tổng lý hương hào không được mão lãnh bao lợi, để cho dân nghèo được nhờ ơn.

Đông các đại học sĩ là Võ Xuân Cẩn dâng sớ xin ban ơn cho con cháu ông Anh Duệ thái tử (ông là con đức Thừa Thiên cao hoàng hậu, khi ông mới 4 tuổi, vâng mạng quan Tây, đến 6 năm mới về, đức Cao hoàng phong ông làm Nguyên soái và lập làm Đông Cung. Oâng có công giữ thành Gia Định, trấn thành Diên Khánh, lấy tỉnh Bình Thuận, thâu phục Phú Yên, công nghiệp rực rỡ, chẳng may mất sớm;

con là Mỹ Đàng đã bị tội, Mỹ Thùy lại bị bệnh mất, chỉ còn một mình Lệ Chung là con Mỹ Đàng được phong Cảm Hóa Hầu để làm thừa tự. Xuân Cẩn thấy vậy nên mới tâu xin). Ngài chuẩn cho bộ Lễ phải ghi tên Lệ Chung, rồi sẽ nghĩ. Xuân Cẩn lại xin lục dụng những con cháu Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt và Lê Chất. Trong lời sớ đại lược rằng: "bọn Văn Thành đều là gặp hội gió mây, xông trường tên đạn, mình làm đại tướng, tước đến quận công; trong năm Gia Long, Văn Thành vì cớ chẳng hay cấm ước người con, tức giận tự tử, sau con cháu lại mắc án làm giặc, đều bị giết cả; còn Văn Duyệt, Lê Chất đều chết rồi mới phát ra án nặng, truy cách chức quan, từ đó về sau chưa đặng nhờ ơn nghĩa tới. v.v". Ngài thấy tâu vậy, cũng cảm động lắm, khiến hỏi con cháu bọn Văn Thành còn ai thời phải tâu lên. Được ít lâu Lệ Chung tấn phong quận công; con cháu bọn Văn Thành cũng đều bổ chánh đội. Đó là theo lời Võ Xuân Cẩn tâu xin.

Hiệp tá đại học sĩ Lê Đăng Dinh mất; truy tặng Thiếu sư Văn minh đại diện đại học sĩ. Đăng Dinh là cử nhân tỉnh Quảng Trị, trải thờ 4 triều, tuổi cao đức dày, từng giúp Ngài học nhiều điều bổ ích, vậy nên Ngài lễ trọng hơn.

Tháng 4, Thị lang, sung Nội các Nguyễn Văn Trường dâng sớ tâu 3 việc: 1. Xin chuẩn tiền công phí cho lính; 2. Xin tha việc hòa mãi cho dân; 3. Xin tăng giá thuê cho các thuyền chở, tờ sớ ấy thi hành cũng nhiều.

Tháng 5, Thự hiệp tá Nguyễn Đăng Giai (con quan Hiệp tá Nguyễn Đăng Tuân) điều trần 10 khoản về việc hình án: 1. Tội làm giặc; 2. Tội ăn cướp; 3. Tội đánh chết người; 4. Nghiêm sức các sở tra án; 5. Lệ tra xét án kiện; 6. Phép đoán định tội danh; 7. Nghiêm nghĩ tội các quan viên; 8. Các án ban ra xét; 9. Quan viên bị kiện; 10. Quan viên can nghĩ. Ngài đều y cả.

Tháng 6, lập lại trường thi Thanh Hóa (năm Minh Mạng, tỉnh Thanh Hóa đặt riêng một trường thi chung với tỉnh Nghệ; đến đây quan tỉnh xin thi riêng, nên cho lập trường lại).

Ngài truyền dụ các quan rằng: "quan vui thời dân khổ, trên ích thời dưới tổn, chẳng qua vì quan lại võ văn lộng pháp, tạ sự hại dân; hoặc nhơn đoán ngục xét hình dụng tâm làm nặng nhẹ, mà sách người lấy của; hoặc nhơn bắt lính đòi thuế, giả đốc sức để kiếm miếng chia nhau; hoặc đem đồ thỉnh

thác quan trên, để nhờ nâng đỡ; hoặc sanh việc góp lướm người dưới, để lấy tiền riêng; tình tệ còn nhiều, ta thiệt lấy làm buồn lắm ! Người xưa có nói: "bày một điều lợi không bằng trừ một điều hại, sanh ra một việc không bằng giảm đi một việc". Bây giờ việc nên làm trước chi hơn hình thời khoan, chánh thời giảm, quan thời thanh, lại thời liêm. Các ngươi phải nghĩ thế nào cho quan lớn giữ phép, quan nhỏ thanh liêm, đều bỏ hết thói tệ; thức khuya dậy sớm, lòng lo cẩn thận siêng năng; trên giúp ta những điều nghĩ chưa tới, dưới khiến cho trăm họ đều được yên vui; ấy là ta trông lắm mà thiên hạ càng may lắm !!!".

Cho thêm ngạch cử nhơn các trường thi.

Bọn Nguyễn Đăng Giai tâu 13 việc, như là định lệ duyệt tuyển dân đinh, báo khẩn ruộng đất hoang, vỗ yên dân điêu háo, bắt điền lính thiếu ngạch, v.vẦ Ngài đều theo cả.

Tháng 7, Tri huyện Duy Xuyên là Hà Học Hải (cử nhân Hà Tĩnh) được thăng Trước tác sung Biên tu Sử quán. Dân huyện ấy đến kinh kêu xin lưu lại; Ngài liền đòi Học Hải vào chầu, ban hỏi phép "trị dân". Học Hải tâu lên, Ngài bằng lòng lắm, khen là hết lòn làm việc quan, có chánh trị hay, nên dân tín ái; liền cho thăng Thừa chỉ, nhưng lãnh huyện Duy Xuyên. Sau Học Hải mấy tại lỵ, dân huyện ấy lập nhà thờ; ít lâu lại cho truy thọ Thị độc.

Tháng 9, lập lại trường Đốc học tỉnh Phú Yên. (Tỉnh ấy trước đặt Đốc học, sau đổi đặt Giáo thọ;

năm ấy quan tỉnh xin đặt Đốc học và làm nhà trường lại).

Tháng 10, khiến các quan tỉnh trong kinh và ngoài các tỉnh, mỗi ông đều phải cử tri một người.

Mới lập viện Tập Hiền (vì năm sau sẽ mở Kinh Diên, nên lập viện ấy, chức hàm mấy ông quan Khởi cư chú phải để ba chữ "Tập Hiền Viện" lên trên).

Tháng 11, định chương trình dạy lính Tuyển phong (trước dạy phép bắn súng trường thương và điểu thương, sau dạy phép tàu bắn súng).

Năm ấy đến kỳ thu thẩm1 Ngài dạy rằng: "ta mới nối ngôi, ban ơn khắp cả thiên hạ, mà đến việc hình, lại thương xót hơn". Ngài cho khoan giảm và hoãn tội phần nhiều.

Năm Kỷ Dậu thứ II (1849), tháng giêng, giảm thuế vàng mỏ Tịnh Đà tỉnh Cao Bằng.

Mới định lệ "Aám thọ con các quan Tôn Thất" (phàm Tôn Thất người nào có công lao, đã được phong tước, thời con cháu cho tập phong; còn văn tứ phẩm, võ tam phẩm trở lên, đều chiếu hàm cho một người con ấm thọ: chánh nhứt con được ấm thọ chánh ngũ; tùng nhứt con ấm thọ tùng ngũ; nhị, tam, tứ phẩm cứ thứ giảm lần).

Tháng 2, mới mở sở Kinh Diên. Mỗi ngày giảng sách, Ngài cùng các quan bàn sách nghĩa, Ngài đều cắt nghĩa rõ ràng; nhơn bàn chánh sự thi chương, thiệt là thạnh điển xưa nay chưa có.

Tháng 6, dựng bia "An Tây võ công". (Võ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn, Đoàn Văn Sách, Nguyễn Hoàng, Tôn Thất NGhị, cả thảy 6 người đều có công đánh giặc tại thành Trấn Tây; nên Ngài cho khắc bia ghi công.

Tháng 7, Sứ Tàu là Lao Sùng Quang đến Kinh làm lễ Tuyên phong. Lễ ấy giao tiếp rất thành, thể thống ra tôn, lâu nay chưa từng có. (Từ Thiệu Trị về trước, đều là lễ Tuyên phong tại thành Hà Nội; đến đây xin mời Sứ tới Kinh, vua Tàu nghe theo, tháng ấy Sứ bộ qua tới).

Tháng 8, Tham tri bộ Binh là Hoàng Tế Mỹ (hoàng giáp Hà Nội) mất. Tế Mỹ là văn thần chầu sở Kinh Diên, một lòng siêng năng cẩn thận. Ngài tiếc lắm, tặng hàm Thượng thơ.

Tháng 10, Tổng đốc An Hà là Doãn Uẩn (cử nhơn Nam Định) mất. Ngài nghĩ Doãn Uẩn vì nước chịu khó nhọc, có tiếng liêm năng, cho tặng hàm Hiệp tá, cấp tuất và tứ tế rất hậu lại cho tiền gạo về đưa đám và nuôi vợ con, để khuyến kẻ thanh liêm, tỏ người tài giỏi.

1 Thu thẩm nghĩa là mùa thu khí trời nghiêm thẩm, nên vua theo lệnh trời đến mùa ấy thời xét việc hình.

Tháng 12, định lệ "quan viên cách trừ", (người nào khoa mục, ấm sanh xuất thân, nhơn việc công bị cách chức quan nhưng đều cho đứng vào hạng khoa mục, ấm sanh, khỏi phải chịu thuế).

Năm Canh Tuất thứ III (1850), tháng giêng, Ngài chăm việc chánh trị; cách một ngày lại ngự triều bàn việc chánh thi hành. Aáy là muốn cho trên dưới tình thông mà không việc gì cản trở.

Nước Ma-li-căn (Amétique) sai Ba-ly-rì chạy tàu đến cửa Đà Nẵng, (thuộc tỉnh Quảng Nam) nói rằng đệ tờ quốc thơ tạ lỗi (vì năm trước lỗi phép giết người) và xin thông thương. Quan Hậu quân lãnh Tổng đốc là Tôn Thất Bật xin quyền nhận tờ thơ, tùy cơ bẻ bác, Ngài không cho Ba-ly-rì xin lên chơi núi Ngũ Hành, rồi chạy tàu đi.

Tả Hữu trực kỳ và Nam Kỳ lục tỉnh lâu nay dân nhiễm bệnh dịch hơi nặng; (bộ Hộ thông tính cả Nam, Bắc các hạng bị bệnh hơn 589.460 người), lại bị mất mùa, Ngài thương lắm.

Cho Thượng thơ bộ Công là Nguyễn Tri Phương sung Kinh lược đại sứ Nam Kỳ, lãnh Tổng đốc Định - Biên, kiêm Tổng đốc Long - An; cho Thượng thơ bộ Hình là Nguyễn Đăng Giai sung kinh lược đại sứ Hữu Kỳ, lãnh Tổng đốc An - Tịnh, kiêm Thanh Hóa; cho Thượng thơ bộ Lại là Phan Thanh Giản sung kinh lược đại sứ Tả Kỳ, lãnh Tổng đốc Bình - Phú, kiêm Thuận - Khánh; đều lãnh cờ tiết mao tới lỵ, cốt để bày điều lợi, trừ điều tệ, cấm trấp quan lại, chiêu yên nhơn dân. Ngài lại khiến quan Phủ doãn và quan tỉnh Nam, Nghĩa phải xét trong dân đều chi lợi hại, quan lại người nào hay dở, tâu lên.

Tháng 2, lại mở mỏ vàng Gia Hưng. (Thuộc Hưng Hóa).

Tháng 3, Thự Tri phủ Tuy Biên (thuộc An Giang) là Võ Văn Hiệu (Tấn sĩ), Tri huyện An Xuyên là Nguyễn Duy Quang (Cử nhơn) đều hết lòng về việc trị dân. Người nào bệnh cho thuốc, người nào chết lo chôn, đứng bảo lãnh mượn của nhà giàu giúp cho nhà nghèo, thám bắt trộm cướp cho yên dân, dân đều tin và thương; Tổng đốc là Cao Hữu Bằng đem sự trạng tâu lên. Ngài ban khen, cho Văn Hiệu thiệt thọ tri phủ; Duy Quang gia hàm Tri phủ, đều thưởng bạc và lụa khác nhau; Ngài khen Hữu Bằng có lòng tiến cử người giỏi, thưởng cho 3 cây sa.

Định lệ "quan lại về đinh gian". (Văn võ quan viên, gặp tang cha mẹ, người nào chức trách long trọng và đương sai phái đánh giặc, nên đoạt tình1 đòi ra làm việc quan, thời phải có lời đặc chỉ2; còn từ Cửu phẩm trở lên và Hậu bổ, Cử Nhơn, Aám sanh, Giám sanh, đều cấp hạn 12 tháng về nhà chịu tang).

Tháng 5, ngài mới ngự cày ruộng Tịch Điền.

Tháng 6, dồn bớt các phủ, huyện, châu ở tỉnh Nghệ, Thanh và Quảng Yên. (Thuộc tỉnh Nghệ An:

đem huyện Yên Thành giao về phủ Diễn Châu kiêm lý; huyện Nghĩa Đàn, Quế Phong, Túy Vân đều giao về phủ Quỳ Châu kiêm lý; 4 huyện Tương Dương, Kỳ Sơn, Hội Nguyên, Vĩnh Hòa đều giao về phủ Tương Dương kiêm lý. Thuộc tỉnh Thanh Hóa; đem huyện Hậu Lộc giao về phủ Hà Trung kiêm lý; hai huyện Quảng Tế, Thạch Thành giao về phủ Quảng Hóa kiêm lý; hai châu Lương Chánh, Thường Xuân giao về phủ Thọ Xuân kiêm lý; hai huyện Hoằng Hóa, Mỹ Hóa hiệp làm huyện Hoằng Hóa, nhưng thuộc phủ Hà Trung huyện Cẩm Thủy và châu Quan Hóa hiệp làm huyện Cẩm Thủy, nhưng thuộc về phủ Quảng Hóa.

Thuộc tỉnh Quảng Yên: đem châu Vạn Ninh đặt làm phủ Hải Ninh, nhưng trích châu Tiên An, nguyên thuộc phủ Sơn Định, bây giờ đổi thuộc phủ Hải Ninh; còn huyện Nghiêu Phong, An Hưng và Hoành Bồ, nguyên thuộc phủ Hải Ninh, bây giờ đổi thuộc phủ Sơn Định, nhưng cho quan huyện Hoành Bồ kiêm lý cả ba huyện).

Tháng 7, định lệ: các địa phương phàm bắt linh, phải nghiêm hạn cho sở tại dải đến, không được sai lính về các làng.

Tháng 12, giảm viên dịch các Bộ, nha ở Kinh và ở các phủ Hoàng thân.

Năm Tân Hợi thứ IV (1851), giáng giêng, mới định lệ "mỗi năm đến tháng 2, quan trên xét cử người thuộc viên". (Mỗi năn đến tháng 2, văn võ các quan trên đều phải xét ty thuộc, văn từ tứ phẩm

1 Đoạt tình là đương ở chịu tang mà đòi ra làm việc quan.

2 Đặc chỉ là vua phán ra một cách riêng.

đến lục phẩm, người nào có học hành, làm việc thanh liêm siêng giỏi; võ từ Quản vệ đến Suất đội, người nào võ nghệ am luyện, sai phái được việc, mà đều tại chức lâu năm, không tội lỗi gì, quan trên xét thiệt, làm tập tấu bảo cử).

Ngài ngự sông Lợi Nông xem ruộng lúa.

Tháng 2, đổi Phan Thanh Giản làm Kinh lược phó sứ Nam Kỳ, nhưng lãnh Tổng đốc Gia Định, kiêm Biên Hòa, Vĩnh Long, Định Tường, An Giang, Hà Tiên.

Định lệ "thuế các cửa ải, bến tàu ở các tỉnh Bắc Kỳ".

Tháng 4, lập nhà Tôn học (sau nhơn học trò nhác học, triệt đi; đến năm thứ 19 lập lại).

Định lệ "Tôn sanh, Ấm sanh khiêu bổ". (6 năm hạch khiêu một lần).

Định lệ thuấ ruộng công phủ Thừa Thiên, trong 10 phần tha 3 phần, kể từ năm nay làm đầu. (Là theo quan phủ Thừa Thiên Võ Trọng Bình xin).

Tháng 5, mới mở thi Chế khoa, (trường nhứt: 9 đề kinh nghĩa; trường nhì: 1 đề phú, 1 đề thi ngũ ngôn và 1 đề thi thất ngôn; trường ba: chiếu, biểu, luận, mỗi món 1 đề; trường tư: 1 đề văn sách; 4 trường đều ngự đề), Lấy đậu 7 người cho vào Đình, Ngài ngự ra đề văn đình. Đến khi ngự duyệt xong rồi, sắc cho Võ Duy Thanh Bác học hoành tài, cát sĩ cập đệ1 nhị danh, Võ Huy Dực đệ tam danh2; còn mấy người kia, Ngài đều cho Xuất thân3 và Đồng xuất thân4 có thứ tự.

Tháng 6, định lệ "Quan viên phụ": văn lục phẩm, võ ngũ phẩm trở lên, cha được Quan viên phụ, tha khỏi đi lính, làm xâu và nạp thuế thân cước mể các hạng; văn thất phẩm, võ lục phẩm, cha cũng được Quan viên phụ, nhưng chỉ tha khỏi đi lính và làm xâu, còn các hạng thuế cũng nạp như dân tráng.

Tháng 7, đổi tên núi Tá Ly làm núi Tá Linh, đem vào lệ quốc tế (núi ấy thuộc huyện Hướng Hóa tỉnh Quảng Trị, cao lắm, mạch núi nguồn sông trong hạt đều từ núi ấy mà ra).

Truyền quan bộ Hộ xét rõ sổ chi tiêu tấn lãm. Ngài bảo rằng: "tiền của là cội gốc trong thiên hạ, dân nhờ đó mà sống, nước nhờ đó mà đủ dùng, rất làhệ trọng, những người coi việc ấy, phải nghĩ cho xa, tính cho kỹ, nếu làm thinh không biết lo liệu, thời phụ chức trách nhiều lắm".

Năm ấy chuẩn cho phủ Thừa Thiên cùng các tỉnh những ruộng đất hoặc bị lở, hoặc bị bỏ rậm, hoặc bị nước mặn hoặc đất sỏi, hoặc cát bồi bỏ hoang mà còn biên trong sổ thuế, tổng cộng là 104.016 mẫu, đều cho xóa sổ mà đem vào hạng khỏi thuế.

Truyền dụ thưởng Nguyễn Đăng Giai đồng quân công gia một cấp và ngọc đeo, tiền vàng, đoạn, sa, dâm, quế các hạng. Vì Đăng Giai từ khi lãnh cờ tiết mao tới lỵ sở, xét hỏi tình dân, sửa sang việc châu quận, cử người liên giỏi, truất người tham nhũng, tha thuế thiếu, vỗ yên chỗ điêu háo; bây giờ dân được đủ ăn, khỏi bị trộm cướp. Ngài cho là không kém với bực Tuần lương5 đời xưa, nên ban lời dụ khen tốt lắm.

Ngài nghĩ sứ Hữu Kỳ dân đã bớt khổ, đổi Nguyễn Đăng Giai lãnh Tổng đốc Hà Ninh, nhưng sung Kinh lược các tỉnh Hà Nội, Ninh Bình, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng. Ngài truyền dụ phải chăm việc điều tể binh dân và sửa trị bờ cõi.

Đổi phép thi Hương, thi Hội. (Thi Hương đậu 3 trường là Tú tài, 4 trường là Cử nhơn, thi Hội 4 trường đều đậu mà thông kể được được 8 phân trở lên là trúng cách, hoặc 3 trường kể được 9 phân trở lên, mới cho vào thi Đình).

1 Cập đệ nhị danh là Bảng nhãn.

2 Đệ tam danh là Thám hoa.

3 Xuất thân là Hoàng giáp.

4 Đồng xuất thân là Tấn sĩ.

5 Tuần lương là ông quan địa phương giỏi.

Dalam dokumen PDF Quốc Triều Chánh Biên Toát Yếu (Halaman 147-200)

Dokumen terkait