• Tidak ada hasil yang ditemukan

Đánh giá tác động của giãn cách xã hội đến chất lượng nước tại

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "Đánh giá tác động của giãn cách xã hội đến chất lượng nước tại"

Copied!
5
0
0

Teks penuh

(1)

Trích dẫn bài viết: Vietnam J. Chem., 2020, 58(6E12), 206-210 Bài nghiên cứu

Đánh giá tác động của giãn cách xã hội đến chất lượng nước tại sông Nhuệ, sông Đáy, sông Tô Lịch

Nguyễn Quang Trung*, Hoàng Thế Anh

Trung tâm Nghiên cứu và Chuyển giao Công nghệ, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, 18 Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, Hà Nội 10000, Việt Nam

Đến Tòa soạn 15-6-2020; Chấp nhận đăng 20-12-2020

Abstract

Vietnamese government issued a social isolationorder for people across the country from April 1, 2020, to April 15, 2020. This has a great impact on people's lives and on the quality of the environment including the river water environment. To assess the impact of social isolation on the water quality of the inner city, water quality monitoring of 3 main rivers in Hanoi metropolitan area, To Lich, Day and Nhue River, was monitored. The results showed that social isolation greatly affected the basic environmental indicators of water such as BOD5, COD, PO4, NO3, NH4, E. coli, and Coliform. In general, these parameters exceeded the permitted standard values according to QCVN 08-MT/BTNMT for surface water quality. The concentrations of E. coli and Coliform were many times higher than the standard value, indicating the serious pollution of all 3 inner-city rivers. Concentrations of heavy metals were generally similar among the sampling periods, suggesting that social isolation has only a small effect on the metal pollution in the river water.

Keywords. Covid-19, social isolation, Water, River.

1. MỞ ĐẦU

Môi trường [1,2] luôn là một trong những vấn đề nhức nhối trên toàn thế giới. Không chỉ những nước đang phát triển mà ngay cả những nước đã phát triển thì việc ứng phó với biến đổi khí hậu, tìm kiếm các giải pháp nhằm bảo vệ môi trường luôn là nhiệm vụ được ưu tiên hàng đầu. Ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường và các sự cố môi trường vẫn đang xảy ra và có xu hướng ngày một tăng trong những năm gần đây do quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa. Nhằm đáp ứng nhu cầu việc làm và chất lượng cuộc sống cho người dân, nhiều thành phố lớn thế giới cho xây dựng nhiều nhà máy, các khu công nghiệp lớn cùng với hàng loạt các khu dân sinh mọc lên với số lượng lớn dân cư đã và đang gây sức ép lên chất lượng môi trường tại các thành phố lớn. Bên cạnh đó, có đến hàng trăm, hàng triệu tấn rác thải như nước thải công nghiệp, rác thải sinh hoạt từ các khu dân sinh và cả các chất thải nguy hại từ bệnh viện, các ngành công nghiệp nặng được xả thải ra môi trường mỗi ngày, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và cụ thể là môi trường nước theo thống kê của các tổ chức môi trường trên thế giới.

Thành phố Hà Nội là trung tâm kinh tế, chính trị và văn hóa của Việt Nam. Thành phố Hà Nội, trong những năm gần đây đã có sự phát triển đáng kể về kinh tế, xã hội nhưng cùng với đó là vấn đề ô nhiễm

môi trường, đặc biệt là môi trường nước lại tỉ lệ thuận với sự phát triển đó. Hà Nội có nhiều hệ thống sông lớn như sông Tô Lịch, sông Nhuệ và sông Đáy.

Đây là 3 hệ thống sông huyết mạch của thành phố tuy nhiên cả ba con sông này mỗi ngày phải chứa đựng hàng trăm m3 nước thải từ các khu dân sinh sống dọc hai bên bờ sông, nước thải công nghiệp chưa qua xử lý được xả thải trực tiếp vào dòng sông đã khiến cho chất lượng nước tại các con sông này ô nhiễm một cách nặng nề, bốc mùi hôi thối trong những ngày hè nóng bức.

Những ngày cuối tháng 12 năm 2019, ghi nhận là nơi khởi phát của bệnh viêm phổi cấp tính mà tác nhân là virus SARS-Covid-2. Tổ chức y tế thế giới (WHO) đã công bố đây là đại dịch toàn cầu và khuyến cáo các quốc gia nên có những biện pháp phòng chống dịch bệnh một cách quyết liệt. Theo chỉ thị số 16[3] của chính phủ ban hành ngày 31/03/2020, chỉ thi yêu cầu mọi công dân phải thực hiện nghiêm việc cách ly xã hội, bảo đảm giãn cách xã hội, giữ khoảng cách giữa người với người, cộng đồng với cộng đồng, yêu cầu người dân ở nhà, hạn chế tối đa ra ngoài trừ các trường hợp thật sự cần thiết trong vòng 14 ngày (từ ngày 1 đến ngày 15/4 năm 2020). Trong giai đoạn này, Trung tâm Nghiên cứu và Chuyển giao công nghệ, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam thực hiện quan trắc khảo sát chất lượng môi trường nước mặt trong thời

(2)

TCHH, 58(6E12), 2020 Nguyễn Quang Trung và cộng sự điểm mùa dịch Covid-19 khi mà phần lớn mọi người

làm việc và sinh hoạt tại nhà nhằm đánh giá, so sánh chất lượng nước mặt trong và sau giai đoạn thực hiện cách ly xã hội, hướng tới mục tiêu bảo vệ môi trường.

2. THỰC NGHIỆM

2.1. Địa điểm thu thập mẫu

Nước mặt được thu thập tại 3 vị trí tập trung đông dân cư sinh sống của 3 con sông lần lượt là: sông Tô Lịch, sông Nhuệ và sông Đáy. Đây là những khu vực có mật độ dân cư cao, lượng nước thải xả thải trực tiếp ra sông trên một ngày là rất lớn. Mỗi con sông được lấy tại 3 điểm chính đầu nguồn; giữa và cuối nguồn cùng một thời gian trong khoảng thời gian cách ly xã hội và sau cách ly xã hội 1 tuần. Các địa điểm được ký hiệu được đưa ra trong bảng 1.

Bảng 1: Ký hiệu và mô tả vị trí thu thập mẫu phân tích

Ký hiệu mẫu Địa điểm Mô tả vị trí Ghi chú

NM.01

Sông Tô Lịch

Hoàng Quốc Việt-Bưởi Gần cống thải lớn, dòng chảy mạnh, có bờ kè

NM.02 Cầu Khương Hạ

Nhiều bùn đáy Dòng chảy yếu Có bờ kè

NM.03 Đại Kim Gần công thải lớn

Dòng chảy mạnh Có bờ kè

NM.04

Sông Nhuệ

Thụy Phương

Dòng chảy yếu Không có bờ kè

Có nhiều đường dẫn nước thải sinh hoạt chảy thẳng ra sông

NM.05 Mỗ Lao Dòng chảy yếu

Không có bờ kè

NM.06 Khu đô thị Xa La Gần bãi rác

Không có bờ kè NM.07

Sông Đáy

Thôn Ngoại, Đường 32

Có hoạt động dân sinh trên sông (chăn nuôi, câu thả)

Không có bờ kè

NM.08 Thôn Gần, Đường CT08

Nơi tập kết rác thải Dòng chảy yếu Không có bờ kè

NM.09 Đê Tả Đáy Dòng chảy yếu

Có bờ kè 2.2. Hóa chất

Hóa chất phân tích sử dụng chủ yếu của hãng Merck có độ tinh khiết cao. Các hóa chất chuẩn như chuẩn kim loại (Accustandards), KNO3, NH4Cl, KH2PO4,… được pha trong ngày và bảo quản trong tủ lạnh và sử dụng trong vòng 24 h. Các thuốc thử màu cho phân tích quang phổ được pha trong ngày như thuốc thử amoni molipdat; thuốc thử cho nitrat:

Sunfosalixylic; thuốc thử màu của amoni,… các loại này sau khi sử dụng được bỏ đi theo quy trình để tránh nhiễm chéo cho các mẫu phân tích. Hóa chất, chất chuẩn được pha loãng bằng được cất siêu sạch có độ dẫn điện 18 MΩ đảm bảo độ chính xác cao.

Các loại axit HNO3, H2SO4, H3PO4,… (Merck) được sử dụng ngay sau khi mở chai.

2.3. Thiết bị, dụng cụ

Hệ thống phân tích kim loại bằng thiết bị iCap-TQ (Thermo) được hiệu chuẩn bằng dung dịch tune trước mỗi đợt phân tích mẫu kim loại. Các dụng cụ, thiết bị phân tích hàm lượng kim loại được tráng sạch bằng axit HNO3 1 %. Hệ thống thiết bị đo quang EMC Lab Model EMC-61PC-UV được hiệu chuẩn định kỳ 1 năm 1 lần phân tích các chỉ tiêu quang phổ hấp phụ phân tử. Dụng cụ thiết bị thủy tinh cơ bản của phòng thí nghiệm như bình định mức; pipet; cốc đun;… được sử dụng riêng cho mỗi chỉ tiêu để tránh nhiễm bẩn và các chất cản trở từ các phương pháp khác. Hệ thống phòng sạch theo đúng tiêu chuẩn áp dụng cho phân tích chỉ tiêu vi sinh, dụng cụ được khử trùng bằng nồi hấp và sát

(3)

TCHH, 58(6E12), 2020 Đánh giá tác động của giãn cách…

khuẩn bằng cồn 90o và một số dụng cụ phụ trợ cho việc xử lý mẫu khác.

3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

3.1. Kết quả phân tích các chỉ tiêu cơ bản

Kết quả phân tích các chỉ tiêu pH; BOD5; COD; DO;

NH4 +, NO3

-, PO4

3-, Ecoli, Colifom trung bình trong vòng 15 ngày trong thời gian cách lý xã hội và 7 ngày sau thời gian cách ly xã hội được trình bày trong bảng 2.

Bảng 2: Kết quả phân tích chỉ tiêu cơ bản Ký hiệu

mẫu

Chỉ tiêu phân tích pH BOD5

(mg/L)

COD (mg/L)

DO (mg/L)

NH4 +

(mg/L) NO3

-

(mg/L) PO4

3-

(mg/L)

E. coli 103 (MPN/100 mL)

Coliform 107 (MPN/100 mL) 01/4/2020-15/4/2020

NM.01 7,12 22,4 93,12 0,1 21,015 0,153 4,25 4000 1200 NM.02 7,24 58,24 71,56 0,1 14,010 0,184 3,14 400 23 NM.03 7,03 64,96 83,12 0,2 18,413 0,505 3,56 400 9 NM.04 7,23 8,96 46,14 0,5 21,56 0,283 1,42 430 7,5 NM.05 7,36 24,48 50,43 0,4 7,00 2,231 1,56 7500 240 NM.06 6,91 79,2 98,12 0,5 14,81 0,216 0,81 7000 430 NM.07 7,23 20,16 60,38 0,3 28,02 0,276 2,21 900 7,5 NM.08 7,12 31,36 43,17 0,2 16,14 0,174 2,01 4300 46 NM.09 7,08 40,32 58,56 0,2 11,85 3,878 1,45 1100 93

1/5/2020-07/5/2020

NM.01 7,23 43,17 101,36 0,1 17,23 0,103 4,05 4200 1500 NM.02 6,89 42,21 86,23 0,2 10,41 0,121 3,56 600 26 NM.03 7,36 63,78 74,78 0,5 12,74 0,402 3,12 630 15 NM.04 7,61 27,89 72,45 0,3 9,46 0,187 1,69 750 10 NM.05 7,43 73,25 76,78 0,4 5,14 1,19 1,52 8500 430 NM.06 7,23 53,41 70,47 0,5 8,63 0,206 2,01 8000 580 NM.07 7,47 25,78 80,12 0,3 11,98 0,254 3,45 1100 23 NM.08 6,98 38,17 60,87 0,2 13,25 0,157 3,02 4500 75 NM.09 7,06 39,23 53,25 0,2 11,45 1,478 3,41 1510 110 Giá trị pH

Dựa vào bảng kết quả hàm lượng cho thấy giá trị pH của các mẫu phân tích trước và sau thời gian cách ly xã hội gần như tương đương nhau dao động trong khoảng 6,89 đến 7,63. Sau thời gian cách ly xã hội chỉ số này có tăng nhẹ ở các điểm nghiên cứu điều này cho thấy pH phụ thuộc chủ yếu vào nguồn nước thải sinh hoạt của người dân. Sau thời điểm cách ly các khu vực nhà dân pH tăng nhẹ ngược lại khu vực có các công ty thì pH lại giảm như mẫu NM.02.

Giá trị BOD5, COD và DO

Trong thời gian cách ly xã hội chỉ số BOD và COD của toàn bộ các mẫu nghiên cứu đều vượt tiêu chuẩn cho phép về chất lượng nước mặt theo theo QCVN 08-MT: 2015/BTNMT[4] cho phép. Giá trị BOD5

trong thời gian cách ly xã hội dao động từ 8,96 đến 64,96 mg/L và COD dao động từ 46,14 đến 98,12 mg/L. Sau thời gian cách ly xã hội nhìn chung giá trị

BOD5 tăng nhẹ dao động trong khoảng (25,78- 73,25 mg/L). Tương tự tại các điểm nghiên cứu giá trị COD được ghi nhận cao hơn giá trị tại cùng vị trí nghiên cứu dao động (53,25-101,36 mg/L). Giá trị BOD5 thể hiện cho hàm lượng ô nhiễm hữu cơ và COD chỉ thỉ cho tổng hàm lượng ô nhiễm. Điều này cho thấy sau thời gian cách ly xã hội hàm lượng các hợp chất ô nhiễm hữu cơ và vô cơ tăng nhẹ. Đối với giá trị DO ở toàn bộ mẫu nghiên cứu đều có giá trị không đạt yêu cầu theo quy chuẩn về nươc mặt giá trị này dao động trong khoảng 0,1 đến 0,5 mg/L được cho là giá trị cực kỳ thấp đối với mẫu nước mặt ảnh hưởng lớn đến môi trường thủy sinh của động vật.

Giá trị NH4 +, NO3

- và PO4 3-

Dựa vào kết quả phân tích hàm lượng trung bình của giá trị NH4 và NO3 trong các mẫu nước sông cho thấy trong thời gian cách ly xã hội giá trị này cao

(4)

TCHH, 58(6E12), 2020 Nguyễn Quang Trung và cộng sự hơn hẳn so với trung bình hàm lượng sau thời gian

cách ly xã hội. Lượng chất nitơ có trong nước có nguồn chủ yếu từ nước thải sinh hoạt và nông nghiệp điều này cho thấy nguồn ô nhiễm các hợp chất Nitơ trong nước sông nội đô đến chủ yếu từ hoạt động sinh hoạt. Trong thời gian cách ly xã hội hoạt động sinh hoạt tăng do người dân ở nhà nên lượng nước thải cao hơn hẳn và ngược lại sau thời gian đó hoạt động nông nghiệp được tiếp tục thì giá trị này không tăng mà còn giảm. Điều này còn thể hiện qua giá trị NH4

+(5,14-21,015 mg/L) của các mẫu nghiên cứu đều vượt tiêu chuẩn cho phép về nước mặt (< 0,9 mg/L). Hàm lượng NO3

- dao động trong khoảng (0,103 đến 3,878 mg/L) vẫn trong khoảng cho phép theo QCVN 08 -MT:

2015/BTNMT.[4]

Hàm lượng PO4

3- trong các mẫu nghiên cứu trước và sau thời gian cách ly xã hội của cả 3 con sông chính đều vượt ngưỡng cho phép. Giá trị này dao động trong khoảng 0,81 đến 4,25 mg/L cao hơn rất nhiều với tiêu chuẩn cho phép là 0,5 mg/L. Hàm lượng PO4 biến thiên không đồng đều ở các điểm nghiên cứu trong cả hai khoảng thời gian.

Giá trị vi sinh

Chất lượng nước mặt biểu hiện qua chỉ số vi sinh được nghiên cứu qua chỉ số của E. coliColifom.

Theo tiêu chuẩn cho phép về nước mặt hàm lượng Coliform cao nhất phải nhỏ hơn 10000 và E. coli cao nhất phải nhỏ hơn 200 MPN/100 mL ứng với cột B2

của quy chuẩn. Tuy nhiên phân tích các mẫu nước tại các con sông nhận thấy giá trị này cao hơn rất nhiều lần so với tiêu chuẩn. Giá trị Ecoli dao động trong khoảng (4103-8,5106 MPN/100 mL) cao hơn cực kỳ lớn so với tiêu chuẩn. Tương tự giá trị Coliform cũng cao hơn rất nhiều lần dao động trong khoảng (9107-1,5108 MPN/100mL). Điều này cho thấy mức độ ô nhiễm của các con sông ở nội đô đang ở mực báo động mạnh. Xét trong thời gian cách ly xã hội hàm lượng vi sinh vật nhỏ hơn tương ứng tại các địa điểm sau khi hết lệnh cách ly. Điều này có thể do quá trình sinh hoạt lượng nước thải ra nhiều hơn nên hàm lượng vi sinh vật nhỏ hơn trong khi hết lệnh cách ly lượng nước giảm dẫn đến hàm lượng của các loài này tăng mạnh. Hơn nữa giá trị COD trong thời kỳ này cũng tăng cũng chính là nguyên nhân khiến các loại vi khuẩn này phát triển.

Các giá trị nghiên cứu đều phù hợp với một số nghiên cứu trước đó[1,5] về hàm lượng các chỉ số cơ bản trên các con sông nội đô.

3.2. Kết quả phân tích hàm lượng kim loại

Theo theo QCVN 08-MT: 2015/BTNMT[4] quy định tiến hành phân tích hàm lượng các kim loại As, Cd, Pb, Cu, Zn, Ni, Mn, Hg trong các mẫu nước mặt nghiên cứu. Mỗi mẫu phân tích được lặp lại 2 lần để đảm bảo độ chính xác. Kết quả phân tích được đưa ra trong bảng 3.

Bảng 3: Kết quả phân tích hàm lượng kim loại trong các mẫu nghiên cứu

Ký hiệu mẫu Chỉ tiêu phân tích (mg/L)

Mn Ni Cu Zn As Cd Hg Pb

01/4/2020-15/4/2020

NM.01 262,62 123,12 7,56 50,12 6,03 <1,00 <0,10 13,25 NM.02 126,17 101,56 4,36 435,56 5,12 <1,00 <0,10 86,17 NM.03 159,41 94,12 5,12 160,23 2,23 <1,00 <0,10 52,21 NM.04 243,25 56,14 8,01 142,12 2,01 <1,00 <0,10 5,12 NM.05 743,87 50,43 6,25 82,17 1,95 <1,00 <0,10 8,17 NM.06 354,93 48,12 7,87 89,36 1,91 <1,00 <0,10 7,25 NM.07 207,62 60,38 3,36 139,25 1,23 <1,00 <0,10 3,12 NM.08 237,48 43,17 3,25 119,36 1,36 <1,00 <0,10 1,93 NM.09 161,28 40,56 3,18 66,83 1,48 <1,00 <0,10 2,78

01/5/2020-07/5/2020

NM.01 253,18 101,36 7,05 48,36 6,12 <1,00 <0,10 12,24 NM.02 121,56 58,23 5,17 403,65 5,03 <1,00 <0,10 73,25 NM.03 152,41 64,78 5,02 151,63 2,56 <1,00 <0,10 70,56 NM.04 240,35 23,45 7,86 149,25 2,18 <1,00 <0,10 5,36 NM.05 700,36 26,78 6,47 85,48 2,02 <1,00 <0,10 8,12 NM.06 330,17 20,47 7,51 93,25 1,89 <1,00 <0,10 6,47 NM.07 198,36 50,12 3,09 143,58 1,31 <1,00 <0,10 2,56 NM.08 189,36 40,87 3,19 118,25 1,31 <1,00 <0,10 2,69 NM.09 158,17 23,25 3,04 66,23 1,50 <1,00 <0,10 1,83

(5)

TCHH, 58(6E12), 2020 Đánh giá tác động của giãn cách…

Kết quả cho thấy các điểm nghiên cứu trên các sông nội đô về hàm lượng các kim loại đều đạt tiêu chuẩn cho phép về chất lượng nước mặt theo cột B2 trong QCVN 08-MT:2015/BTNMT.[4] Trong đó hàm lượng lớn nhất được tìm thấy là kim loại Mn với giá trị cao nhất ghi nhận là 743,87 µg/L. Các kim loại còn lại không phát hiện hoặc khá nhỏ. Các con sông tại nội đô có nguồn chủ yếu từ nước thải sinh hoạt và nước mưa vì vậy lượng kim loại nhỏ là điều có thể hiểu được. Nhìn chung hàm lượng kim loại ở các sông được sắp xếp theo thứ tự là sông Tô lịch >

Sông Nhuệ > Sông Đáy điều này phản ảnh mức độ ô nhiễm hiện tại tại các con sông lớn trên địa bàn thành phố Hà Nội. Kết quả này cũng đã được nhiều nghiên cứu trước đây khẳng định.[5,6,7] Hàm lượng As, Pb vẫn tìm thấy trong các mẫu nước mặt dao động lần lượt trong khoảng 1,23-6,03; 1,83-86,17 µg/L. Xét về tình trạng hàm lượng theo thời gian lệnh cách ly xã hội được thi hành cho thấy hàm lượng kim loại ở các sông biến động không đều hoặc không biến động gì quá nhiều.Tiến hành phương pháp so sánh hai giá trị trung bình với các kết quả thu được nhận thấy chỉ có một số kim loại như Ni;

Pb và một số điểm như NM.09 và NM.02 có giá trị Pvalue > 0,05 thể hiện sự khác nhau có ý nghĩa thống kê với mức tin cậy 95 % còn lại chủ yếu hai giá trị trung bình của các điểm nghiên cứu đều không có sự khác nhau có ý nghĩa. Kết quả này chứng minh quá trình cách ly xã hội không gây ảnh hưởng lớn đến mức độ ô nhiễm về hàm lượng kim loại nặng trong mẫu nước mặt tại các con sông nội đô nghiên cứu.

4. KẾT LUẬN

Nghiên cứu đã tiến hành xác định hàm lượng một số chỉ tiêu cơ bản như pH, BOD5, COD, DO, NH4

+, NO3

-, PO4

3-, chỉ tiêu vi sinh như E. coli, Coliform và chỉ tiêu kim loại như As, Cd, Pb, Hg, Cu, Mn, Ni, Zn để đánh giá sự ảnh hưởng của quá trình cách ly xã hội tới chất lượng nước lại 3 con sông trong nội đô Hà Nội. Kết quả cho thấy các chỉ số cơ bản của nước sông hầu hết đều vượt mức cho phép theo QCVN 08-MT:2015/BTNMT[4] về chất lượng nước

mặt tại cột B2, hàm lượng kim loại vẫn trong giới hạn cho phép. Lệnh cách ly xã hội chủ yếu ảnh hưởng tới các giá trị chất lượng nước cơ bản và ảnh hưởng ít thậm chí không ảnh hưởng tới hàm lượng kim loại trong nước sông nội đô.

Lời cảm ơn. Nghiên cứu này được tài trợ của đề tài

“Hỗ trợ chuyển giao hệ thống quản lý chất lượng và đề xuất chính sách kiểm soát ô nhiễm không khí tại một số địa phương tại Việt Nam”, mã số QTAT01.01/19-20.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyen Huu Huan, Nguyen Xuan Hai, Tran Yem, Nguyen Nhan Tuan. Factors effect to the sulfide generation rate in the To Lich river, Viet Nam, Journal of Engineering and Applied Sciences, 2013, 8(3), 190-199.

2. Nguyen Thi Bich Ngoc, Le Thi Phuong Quynh, Nguyen Thi Mai huong, Nguyen Bich Thuy, Vu Duy An, Duong Thi Thuy, Ho Tu Cuong, Tran Thi Bich Nga. First step on determination of heavy metals in Red river water, Journal of Science and Technology, 2015, 53(1), 64-74.

3. Prime Minister. Implementation on urgent measures to prevent Covid 19 pandemic, Viet Nam Government, , No 16/CT-TTg, 2020.

4. QCVN 08-MT:2015/BTNMT: Natural regulation about the quality of surface wate, 2015.

5. Tran Van Quy, Tran Van Son. A study of waste water impacts of main factories on water quality of To Lich river, Hanoi, VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, 2010, 26(3).

6. Tetsuro Kikuchi, Takuma Furuichi, Huynh Trung Hai, Shuzo Tanaka. Assessment of Heavy Metal Pollution in River Water of Hanoi,Vietnam Using Multivariate Analyses, Bulletin of Environmental Contamination and Toxicology, 2009, 83(4), 575-82.

7. Nguyen Thi Thuong, Minoru Yoneda, Yoko Shimada, Yasuto Matsui. Assessment of trace metal contamination and exchange between water and sediment systems in the To Lich River in inner Hanoi, Vietnam, Environmental Earth Sciences, 2014, 73(7), 3925-3936.

Liên hệ: Nguyễn Quang Trung

Trung tâm Nghiên cứu và Chuyển giao Công nghệ Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam

Số 18, Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, Hà Nội 10000, Việt Nam E-mail: [email protected]

Điện thoại: +84- 912141580.

Referensi

Dokumen terkait

28 9 Thời gian thất nghiệp Tháng Khoảng thời gian các hộ có lao động chính không có việc làm trong năm 10 Chỉ số đa dạng sinh kế nông nghiệp trung bình 1/số loại sinh kế Tỷ lệ

Nếu có, các nghiên cứu đó lại chỉ đánh giá cảm nhận của năm giác quan trên sản phẩm được cung cấp tác động tới hành vi tiêu dùng, ý định quay trở lại,… chứ không đánh giá cảm nhận của

Trong nghiên cứu này, tập trung phân tích các thông số lí hóa của chất lượng nước dưới đất từ số liệu quan trắc các tầng chứa nước Pleistocen bằng cách sử dụng các kỹ thuật đa biến PCA,

Tác động của bộ ba bất khả thi ở một số nước Đông Nam Á Quốc gia Ổn định tỷ giá Độc lập tiền tệ Hội nhập tài chính Cambodia Giảm biến động sản lượng Giảm biến động sản lượng

Lối sống ít vận động IVĐ và ngồi nhiều là đại biểu cho các hành vi có mức tiêu hao năng lượng thấp trong thời gian TG dài và được chứng minh là có ảnh hưởng trực tiếp đến SK, tỉ lệ mắc

Các khía cạnh tiêu chí đánh giá tác động của CMCN4.0 đến NDGVN: Các tác động của CMCN4.0 đến DN và NDGVN được quan tâm phân tích đánh giá là tác động đến người LĐ, tăng năng suất LĐ;

KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH Trong bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu tác động của vốn xã hội biến đại diện là số người trong hộ tham gia các tổ chức, hội và nhóm đến khả năng

Áp dụng phương pháp chỉ số để đánh giá tác động tiềm ẩn và tính dễ bị tổn thương DBTT đối với biến đổi khí hậu theo quy trình như sau [1–2]: Bước 1: Xác định bộ chỉ thị BCT BCT và