• Tidak ada hasil yang ditemukan

BÀN VỂ VẤN ĐỀ HÒA GIẢI TẠI TÒA ÁN

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "BÀN VỂ VẤN ĐỀ HÒA GIẢI TẠI TÒA ÁN"

Copied!
11
0
0

Teks penuh

(1)

BÀN VỂ VẤN ĐỀ HÒA GIẢI TẠI TÒA ÁN

TÀNG THỊ DIỆU PHƯƠNG e)

Tóm tắt: Luật Hòa giải, đô'i thoại tại Tòa án năm 2020, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2021, trong đó có quy định về hòa giải tại Tòa án. Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung phân tích bốì cảnh ra đời và vai trò của chế định hòa giải tại Tòa án. Ngoài ra, bài viết phân tích, đánh giá một số vấn đề cần trao đổi liên quan đến chê định này. Qua đó, tác giả kiến nghị một số nội dung để góp phần cho việc triển khai có hiệu quả chê'định hòa giải tại Tòa án trong thực tiễn.

Từ khóa: Luật Hòa giải; đối thoại tại Tòa án năm 2020; hòa giải tại Tòa án; Hòa giải viên.

Abstract: The 2020 Law on Reconciliation and Dialogue at Court, effective from January 1st 2021, includes provisions on mediation at court. In the scope of this article, the author analyzed the context in which the mediation institution was formed and its role in court judgment. Features of mediation institution were also discussed. Recommendations were proposed towards effective implementation of the mediation institution at the court.

Keywords:The 2020 Law on Reconciliation and Dialogue at Court; mediation in court; mediator.

Ngày nhận bài: 15/3/2021; Ngày sủa bài: 08/4/2021; Ngày duyệt đăng bài: 27/5/2021.

Mở đầu

Trong bất cứ xã hội nào, con người đều gắn kết với nhau bởi những mốì quan hệ rất đa dạng, phức tạp. Mâu thuẫn, tranh chấp, xung đột phát sinh giữa con người vởi con người là hiện tượng mang tính khách quan, là một mặt của đời sốhg xã hội. Để duy trì trật tự và ổn định xã hội, cần phải có cơchế giải quyết xung đột. Có nhiều phương thức giải quyết xung đột xã hội khác nhau, trong đó phổ biến là thương lượng, hòa giải, Trọng tài, Tòa án cũng như thông qua thủ tụchành chính.

Hòa giải tại Tòa án là hoạt động hòa giải do Hòa giải viên tiến hành trước khi Tòa án thụ lý vụviệc dân sự, nhằm hỗ trợ các bên tham gia hòa giải thỏa thuận giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2020. Với tinh chất là một phương thức

giải quyết tranh chấp thay thế, thân thiện, tiên tiếntrên cơ sở tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên, tăng cường khả năng tiếp cận Tòa án của Nhân dân, hòa giải theo Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2020 mangtính chất hỗn hợp, kết nốì cả trong và ngoài Tòa án giữa Các bên tranh chấp - Hòa giải viên - Thẩm phán giúp kéo giảm số lượng án dân sự theo nghĩa rộng tạiTòa án, giảm thời gian, tiền bạc, công sức của chủ thể tố tụng, tăng cường khối đại đoàn kết trong xã hội. Đây cũng là minh chứng của cải cách tư pháp trong tinh thần mới theo di sản tư tưởng của Chủtịch Hồ ChíMinh là “Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư” gắn với phương châm “Gần dân, giúp dân, hiểu dân, học

Lớp A khóa 2 - Học viện Tòa án.

Email: [email protected]

SÔ 6-2021 NHÂN LỰC KHOA HỌC XÃ HỘI

QJ

(2)

BÀN VỀ VẤN ĐỀ HÒAGIẢI TẠITÒA ÁN dân”. Tuy nhiên, do là chế định mới nên thực tiễn áp dụng cần thiết phải trao đổi thêm một sô vấn đề và phải có những hướng dẫn kịp thời đê pháp luật thật sựđi vào cuộc sốhg, tất cả tựu chung lại là xây dựng Tòa án nhân dân xứng đáng là biểu tượng củacông lý, lẽ phảivà niềmtin.

1. Bối cảnh ra đời chế định hòa giải theoLuật Hòa giải, đối thoạitại Tòaán

Năm 1950, trong không khí khẩn trương chuẩn bị cho Chiến dịch Biên giới Thu - Đông, lớp nghiên cứu chính trị, pháp lý cho gần 100 cán bộ tư pháptừliên khu 5 trở ra đã được tổ chức tại một cánh rừng ở chiến khu Việt Bắc. Lớp học vinh dự được Bác Hồ đến thăm và căn dặn nhiều điều quý báu, trong đó Bác căn dặn

“Xét xử đúng là tốt, nhưng nếu không phải xét xử thì càng tốt hơn”. Đây được xem là một trong những di sản tư tưởng của Hồ Chí Minh để lại cho tư pháp nói chung, Tòa án nói riêng trong chiến lược cải cách tư pháp. Cùng với đổi mới về kinh tế, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến cải cách tư pháp, cụ thểnhiều Nghị quyết, Chỉ thị về tư pháp đã được ban hành như Chỉ thị số 53-CT/TW ngày 21/3/2000 của Bộ Chính trị về một số công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần được thực hiện trong năm 2000, Nghị quyết số 08- NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một sốnhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 với mục tiêu “Xây dựngnền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bưởc hiện đại, phục vụ nhân dân,

phụng sự Tô quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” và “Khuyên khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài; Tòa án hỗ trợ bằngquyết định côngnhận việc giải quyết đó”. Từ đó, nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã ra đời, đặc biệt là Hiến pháp năm 2013. Trên lĩnhvực tư pháp, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến nước ta đã khẳng định Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Để đáp ứng tốt hơn việc đổi mới trong thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, Tòa án đã hoàn thành các dự án luật, pháp lệnh được phân công chủ trì soạn thảo đảm bảo tiến độ, chất lượng, trong đó có dự án Luật Hòa giải, đôi thoại tại Tòa án được Quốc hội nưốc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày

16 tháng 6 năm 2020, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2021 gồm 4 Chương, 42 Điều.

Từ những bốì cảnh nêu trên, chê định hòa giải tại Tòa án đã ra đời. Điều này, đã thể chế hóa các chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp, cải cách hành chính; theo đó, bảo đảm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý, tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên, khuyến khích việc giải quyết tranhchấp thông qua hòa giải; không làm tăng bộ máy, tô chức, biên chê của Tòa án;

thu hút, huy động nguồn nhân lực chất lượng cao trong xã hội tham gia giải quyết tranh chấp dân sự.

2. Vai trò của chế định hòa giải tại Tòa án

Trong các phương thức giải quyết các tranh chấp dân sự thì giải quyết tranh

[3

NHÂN LỤC KHOA HỌC XÃ HỘI SÔ 6-2021

(3)

TĂNG THỊ DIỆU PHƯƠNG chấp dân sự bằng hòa giải là hiệu quả

nhất,tốt nhất.

Thứ nhất, hòa giải thành sẽ chấm dứt mâu thuẫn, xung đột làm cho việc giải quyếttranh chấp được ổn thỏa.

Nếu giải quyết tranh chấp bằng biện pháp xét xử, khi kết thúc phiên tòa Hội đồng xét xử phải ra bản án tuyên chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu của đương sự; phán quyết của Hội đồng Trọng tài cũng vậy. Hay nói cách khác, việc xét xử của Tòa án, sự phán quyết của Trọng tài sẽ có bên thắng, bên thua, thậm chí có nhiều trường hợp cả hai bên đều thua, các bên đều không hài lòng (như trường hợp Tòa án chỉ chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện thì nguyên đơn và bị đơn đều không mong muốn). Ngược lại, nếu các tranh chấp được giải quyết bằng biện pháp hòa giải, có nghĩa là các bên hoàn toàn tự nguyện thỏa thuận những giải pháp giải quyết tranh chấp. Như vậy, khi hòa giải thành thì các nội dung giải quyết tranh chấp là ý chí của các bên, các chủ thể tranh chấp đều mong muốn, hài lòng, hay nói cách khác khi hòa giải thành sẽ khôngcóbênthắng, bênthua.

Mặt khác, đối với bản án, khi thi hành thường gặp nhiều trở ngại khó khăn vì nhiêu đương sự khi bị bản án tuyên buộc Ìhực hiện nghĩa vụ không tự nguyện thi lành. Ngược lại, đối với những nội dung hỏa thuận khihòa giải thành là ý chí của các bên tranh chấp nên thường là tự giác t|hi hành. Trong thực tế nhiều vụ tranh chấp sau khihòa giải thànhcác bên không yêu cầu Tòa án công nhận mà họ tự nguyện thực hiện các nội dung đã thỏa Ĩuận và thực hiện một cách dễ dàng,

6-2021

nhanh chóng. Thực tiễn cũng đã cho thấy, trường hợp phải thi hành các quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự lúc nào cũng thuận lợi nhanh chóng hơn những bảnán.

Từ những phân tích nói trên đã thể hiện hòa giải là một phương thức giải quyết các tranh chấp dân sự tốt nhất, ổn thỏa nhất.

Thứ hai, hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấptiết kiệm và hiệu quả nhất.

Khi lựa chọn phương thức hòa giải không bắt buộc phải xác minh, thu thập đầy đủ các tài liệu, chứng cứ như phiên tòa xét xử, nhiều trường hợp sau khi thụ lý chỉ cần một thời gian ngắn thì đã giải quyết xong, việc hòa giải chủ yếu do một hòa giải viên, một Thẩm phán tiến hành.

Ngược lại, đối vối những vụ án giải quyết theo được thụ lýtheo tố tụng dân sự, trưốc khi xét xử các đương sự phải cung cấp, giao nộp các tài liệu, chứngcứ; trường hợp cần thiết Thẩm phán phải áp dụng các biện pháp để thu thập chứng cứ làm rõ những tình tiết của vụ án; thòi gian chuẩn bị xét xử thường kéo dài. Khi xét xử phải ít nhất là 03 người (trừ những vụ án giait quyết theo thủ tục rút gọn), nhiều vụ án phải mở phiên tòa nhiều lần mối xét xử xong, thậm chí không ít vụ án phải qua nhiều vòng tố tụng (sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm rồi trở về sơ thẩm, phúc thẩm,...).

Mặt khác, nếu sau khi hòa giải thành, các bên tự nguyện thi hành sẽ không cần đến việc giải quyết của cơ quan thi hành án dân sự. Nhưvậy, sẽ giảm áp lực cho cơ quan này và các bên tranh chấp phải mất một khoản tiền về chi phí tố tụng.

NHÂN Lực KHOA HỌC XÃ HỘI

E

(4)

BÀN VỀ VẤN ĐỂ HÒA GIẢITẠI TÒA ÁN Từ những so sánh trên đã thể hiện giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa giải là hiệu quả nhất, tiết kiệm nhất, ít tốn kémvề thời gian,vềnhân lựcvà chi phí tố tụng của cơ quan nhà nước, của các bên tranh chấp.

Thứ ba, hòa giải đảm bảo được bí mật, ít ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cá nhân, pháp nhân, nhất là ít ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của họ.

Theo Điều 25, Điều 28 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2020 thì thành phần phiên hòa giải bao gồm: Hòa giải viên; Các bên, người đại diện, người phiên dịch; Người được mòi tham gia hòa giải trong trường hợp cần thiết. Các bên có thể trực tiếp hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia hòa giả; đồng thòi phải thông báo bằng văn bản về họ, tên, địa chỉ của người đại diện cho bên kia và Hòa giải viên biết. Đối với hòa giải việc ly hôn, các bên trong quan hệ vợ, chồng phải trực tiếp tham gia hòa giải. Quyên và nghĩa vụ của người đại diện của các bên được xác định theo quy địnhcủa Bộ luật Dân sự. Sau đó, có thể ngay sau phiên hòa giải hoặc vào thời gian phù hợp khác thì sẽ tiến hành phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải.

Thành phần phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải gồm có: Hòa giải viên; Các bên, người đại diện, người phiên dịch; Thẩm phán phụ trách hòa giải hoặc Thẩm phán khác do ChánhánTòa án phân công.

Xuất phát từ thành phần nêu trên đã cho thấy việc hòa giải ít có người biết. Đặc biệt, khi hòa giải tại Tòa án thì các thông tin trong quá trình hòa giải được Hòa giải viên, các bên, cơ quan, tổ chức, cá nhân

khác được mời tham gia hòa giải giữ bí mật, không được tiết lộ thôngtin mà mình biết được trong quá trình hòa giải. Điều này, là một trong những quy định đã được thể hiện tại Điều 4 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2020, nếu vi phạm thì rất có thể sẽ bị xử lý theo quy định pháp luật.

Ngoài ra, tính bí mật còn thể hiện ở việc cơquan, tổ chức, cá nhân không được sử dụng tài liệu, lời trình bày của cácbên trong quá trình hòa giải làm chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ việc theo quy định của pháp luật, trừ các trường hợp sau đây: (i) Bên đã xuấttrình tài liệu, trình bày ý kiến trong quá trình hòa giải đồng ý việc sử dụng tài liệu, lời trình bày của mình trong quá trình hòa giải làm chứng cứ; (ii) Phải sử dụng làm chứng cứ theo quy định của luật.

Như vậy, bằng biện pháp hòa giải các nội dung tranh chấp sẽ được bảo mật, ít ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cá nhân, pháp nhâncó tranh chấp, nhất là ít ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của họ.

Thứ tư, hòa giải đóng vai trò tăng cường sự đoàn kết trong Nhân dân, góp phần giữ gìn an ninh trật tự.

Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quantâm đến công tác hoà giải, đã có những biện pháp phù hợp nhằm duy trì, củng cố và phát triển công tác hoà giải, tạo cơ sở pháp lý cho công tác này không ngừng phát triển và phát huy tác dụng tích cực đối với đời sống. Hòa giải là nét đẹp truyền thống đạo lý của dân tộc Việt Nam, là hoạt động mang tính tự nguyện, tính xã hội và nhân văn sâu sắc. Hoạt

13

NHÂN LỤC KHOA HỌC XÃ HỘI SỐ 6-2021

(5)

TĂNGTHỊ DIỆU PHƯƠNG động hòa giải về bản chất là hưống dẫn,

giúp đỡ thông qua việc thuyết phục, vận động cácbên đi đến thỏathuận, tự nguyện giải quyết với nhau các mâu thuẫn, tranh chấp dựa trên nguyên tắc tôn trọng ý chí, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác;

không xâm phạm lợi ích của Nhà nưốc và lợi ích công cộng. Vì vậy, hòa giải đã khẳng định vai trò to lớn, ý nghĩa quan trọng trong đời sống xã hội, góp phần tăng cường tình đoàn kết trong cộng đồng dân cư, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc, kịp thời ngăn ngừa các hànhvi vi phạm pháp luật, góp phần bảo đảm ổn định, trật tự, an toàn xã hội. Quá trình hòa giải là các bên gặp nhau, trao đổi làm cho các bên hiểu nhau hơn, nếu hòa giải thành thì sự thân thiện của các bên càng cao, sẽlàm triệt tiêu các mâu thuẫn.

Như vậy, có thể khẳng định, hòa giải sẽ góp phần tăng cường sự đoàn kết trong Nhân dân, góp phần giữ gìn an ninh trật tự.

3. Một sô vấn đề cần trao đổi về hòa giải tạiTòa án

Quá trình triển khai thực hiện Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2020 liên quan đến việc hòa giải cần thiết trao đổi 04 vấn đề sau: (1) về điều kiện bổ nhiệm Hòa giải viên; (2) vềxác định thẩm quyền của Tòa án trong mốì quan hệ giữa

lòa giải tại Tòa án theo LuậtHòa giải, đôi thoại tại Tòa án năm 2020 với quy định của Bộ luật Tô' tụng dân sự năm 2015; (3) Ĩỉ quyết định công nhận kết quả hòa giải

ành tại Tòa án và việc thi hành quyết địnhcông nhận kết quả hòa giải thành; (4) Ihủ tục đề nghị, kiến nghị xem xét lại

quyết định công nhận kết quả hòa giải thành tại Tòa án.

3.1. Về điều kiện bổ nhiệm Hòa giải viên Hòa giải viên tại Tòa án là người có đủ điều kiện, được Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm để tiến hành hòa giải tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn theo quy định của Luật Hòa giải, đốì thoại tại Tòa án năm 2020. Xuất phát từ nhu cầu, đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống, vai trò quan trọng của hòa giải tại Tòa án, việc ban hành Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án là kịp thời, cần thiết. Đặc biệt, trong hòa giải, hòa giải viên đóng vai trò quan trọng, ảnh hưỏng rấtlớn đếnhiệu quảcủa phiên hòa giải, Luật Hòa giải, đốì thoại tại Tòa án cũng nhưThông tư số04/2020/TT- TANDTC ngày 16 tháng 11 năm 2020 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định chi tiết quy trìnhbổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, khen thưởng, xử lý vi phạm; cấp và thu hồi thẻ Hòa giải viên (gọi chung là Thông tư số 04/2020/TT- TANDTC) đã quy định tương đối chi tiết về quyền, nghĩa vụ của Hòa giải viên, thủ tục lựa chọn, chỉ định hòa giải viên,... và vấn đề bổ nhiệm, miễn nhiệm, trong đó có điều kiện bổ nhiệm Hòa giải viên, nhằm mục đích nâng cao trách nhiệm, kỹ năng của Hòa giải viên khi tham gia hòa giải cácvụ việc theo yêu cầu củacác bên tham gia hòa giải.

Theo khoản 1 Điều 10 Luật Hòa giải, đô'i thoại tại Tòa án năm 2020 quy định điều kiện bổ nhiệm Hòa giải viên công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp

NHÂN Lực KHOA HỌC XÃ HỘI

13

SÔ 6-2021

(6)

BÀN VỀ VẤN ĐỂ HÒA GIẢI TẠI TÒA ẤN nưốc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có nănglực hành vi dân sự đầy đủ, có phẩm chất đạo đức tốt, gương mẫu trong việc chấp hành pháp luật và có đủ các điều kiện sau đây thì có thể được bổ nhiệm làm Hòa giải viên: (i) Đã là Thẩm phán, Thẩm tra viên Tòa án, Thư ký Tòa án, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên Viện kiểm sát, Chấp hành viên thi hành án dân sự, Thanh tra viên; luật sư, chuyên gia, nhà chuyên môn khác có ít nhất 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực công tác; người có hiểu biết về phong tục tập quán, có uy tín trong cộng đồng dân cư;

(ii) Có kinh nghiệm, kỹ năng hòa giải, đôì thoại; (iii) Có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao; (iv) Có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ hòa giải, đối thoại do cơ sở đào tạo của Tòa án nhân dân tối cao cấp, trừ người đã là Thẩm phán, Thẩmtra viên Tòa án ngạch Thẩm tra viên chính, Thẩm tra viên cao cấp, Thư ký Tòa án ngạch Thư ký viên chính, Thư ký viên cao cấp, Kiểm sát viên, Chấp hành viên thi hành án dân sự, Thanhtra viên.

So vối tiêu chuẩn hòa giải viên thuộc phạm vi điều chỉnh khác, cụ thể là tiêu chuẩn hòa giải viên thương mại theo khoản 1 Điều 7 Nghị định số’ 22/2017/NĐ-CP ngày 24 tháng 02 năm 2017 của Chính phủ về hòa giải thương mại quy định người có đủ tiêu chuẩn sau đây thi được làm hòa giải viên thương mại: (i) Có đầy đủ năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự; có phẩm chất đạo đức tốt, có uy tín, độc lập, vô tư, khách quan; (ii) Có trình độ đại học trởlên và đã qua thời gian công tác

trong lĩnh vực được đào tạo từ 02 năm trở lên; (iii) Có kỹ năng hòa giải, hiểu biết pháp luật, tập quán kinh doanh, thương mại và các lĩnh vực liên quan.

Quy định này cho thấy, xét về tổng thể thì yêu cầu để được bổ nhiệm Hòa giải viên tại Tòa án có phần cao hơn so với hòa giải viên thương mại.

Xét về các trường hợp tại khoản 2 Điều 10 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2020 quy định các trường hợp không được bổ nhiệm làm Hòa giải viên thì chỉ quy định 02 trường hợp là:

(i) Không đáp ứng điều kiện quy định nêu trên; (ii) Đang là cán bộ, công chức, viên chức; sĩ quan, hạ sĩ quan Quân đội nhân dân, quân nhânchuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng; sĩ quan, hạ sĩ quan Công an nhân dân, công nhân công an.

Như vậy, pháp luật cũng đang bỏ ngõ đối với trường hợp người đang là bị can, bị cáo, người đang chấp hành án hình sự hoặc đã chấp hành xong bản án nhưng chưa được xóa án tích; người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc thì có được bổ nhiệm làm Hòa giải viên hay không. Có quan điểm cho rằng, do pháp luật không quy định cụ thể nên các đối tượng này rất có thể sẽ được bổ nhiệm làm Hòa giải viên.

Tác giả cho rằng, Hòa giải viên phải là người gương mẫu trong việc chấp hành pháp luật, do đó nếu rơi vào trường hợp này thì cũng không được bổ nhiệm làm Hòa giải viên. Tuy nhiên, pháp luật chưa quy định cụ thể nên quan điểm còn chưa thống nhất cần có hướng dẫn kịp thòi.

13

NHÂN Lực KHOA HỌC XÃ HỘI SỐ 6-2021

(7)

TĂNG THỊ DIỆUPHƯƠNG 3.2. Về xấc định thẩm quyền của Tòa

án trong môĩ quan hệ giữa hòagiải tại Tòa án theo Luật Hòa giải, đô'i thoại tại Tòaán năm 2020 với quy định của Bộ luật tụng dân sự năm 2015

Theo quy định tại khoản 2 Điều 1 Luật Hòa giải, đốì thoại tại Tòa án năm 2020 hòa giải theo quy định của Luật này được thực hiện trước khi Tòaánthụ lývụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn;

thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy địnhcủa Bộ luậtTô tụng dân sự.

Như vậy, khi Tòa án tiếp nhận đơn khỏi kiện vẫn phải xác định tranh chấp mà người khởi kiện thực hiện có thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án hay không.

Tuy nhiên, vấn đề này hiện tại có các quan điểm khác nhau.

Có quan điểm cho rằng, việc xác định thẩm quyền của Tòa án để tiến hành hòa giải theo Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án cần tách bạch với thẩm quyền của Tòa án theo quy định của Bộ luật Tô' tụng Dân sự. Bởi lẽ, bản chất của hai quy trình trên là khác nhau. Đôi với quy trình hòa giải tại Tòa án, mục đích các bên hướng đến là việc thương lượng thỏa thuận với nhau để giải quyết vụ án còn đối vói quy trình tô' tụng, điều mà các bên mong muôn là việc phân định đúng sai, thắng thua. Việc quy định tách bạch về thẩm quyền giải quyết của hai quy trình sẽ tạo sự linh hoạt và thống nhấttrong pháp luật.

Quan điểm khác lại cho rằng, việc xác định thẩm quyền các tranh chấp để tiến lành hòa giải theo Luật Hòa giải, đối

;hoại tại Tòa án vẫn phải tuân theo quy

SÔ 6-2021

định về thẩm quyền của Bộ luật Tô' tụng Dân sự. Bởi lẽ, theo quy định tại khoản 2 Điều 16 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án “Tòa án nhận đơn, vào sổ nhận đơn, xác nhận việc nhận đơn theo quy định tại khoản 1 Điều 191 của Bộ luật Tô' tụng dân sự”. Điều này có nghĩa rằng quy định của Luật Hòa giải, đô'i thoại tại Tòa án đã xác định rõ việc xác định thẩm quyền của Tòa án giải quyết tranh chấp vẫn phải tuân thủ quy định của pháp luật tô' tụng dân sự hiện hành. Việc người khởi kiện nộp đơn khởi kiện đến Tòa, Tòa án nhận đơn, vào sổ nhận đơn và xác nhận việc nhận đơn đã làm phát sinh đồng thời hai quan hệ pháp luật là (i) quan hệ hòa giải do Luật Hòa giải, đô'i thoại tại Tòa án điều chỉnh và (ii) quan hệtô'tụng dân sự do Bộ luật Tô' tụng Dânsự điềuchỉnh.

Tác giả cho rằng, hoạt động hòa giải theo Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án cũng là hòa giải tại Tòa án. Do đó, việc xem xét thẩm quyền giải quyết có thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án là rất cần thiết và quan trọng. Bởi lẽ, nếu như không xác định được thẩm quyền thì rất có thể khi Tòa án ban hành quyết định công nhận kết quả hòa giải thành tại Tòa án sẽ trái luật.

Vấn đề đặt ra, sau khi Tòa án nhận đơn, vào sổ nhận đơn, xác nhận việc nhận đơn theo quy định tại khoản 1 Điều 191 của Bộ luật Tô' tụng dân sự và đã tiến hành lập Biên bản ghi nhận kết quả hòa giải nhưng phát hiện vụ án không thuộc thẩm quyền của Tòa án thì hiện nay Luật Hòa giải, đô'i thoại tại Tòa án cũng như Thông tư sô' 03/2020/TT-TANDTCngày 16 tháng 11 năm 2020 của Chánh án Tòa án NHÂN Lực KHOA HỌC XÃ HỘI Q

(8)

BÀN VỀ VẤN ĐỂ HÒA GIẢI TẠI TÒA ÁN nhân dân tối cao quy định chi tiết về trình tự nhận, xử lý đơn khởi kiện, đơn yêu cầu tại Tòa án và chỉ định Hòa giải viên vẫn chưa có quy định cụ thể về vấn đề này.

Trong tô' tụng dân sự, nếu vụ án không thuộc thẩm thì Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện theo điểm đ khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tô' tụng dân sự năm 2015, nếu vụ án đã được thụlý mối phát hiện vụ ánkhông thuộc thẩm quyền của Tòa án thì sẽ đình chỉ giải quyết vụ án theo điểm g khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tô' tụng dân sự năm 2015. Do đó, đối với sau khi Tòa án nhận đơn, vào sổ nhận đơn, xác nhận việc nhận đơn theo quy định tại khoản 1 Điều 191 của Bộ luật Tô tụng dân sự và đã tiến hành lập Biên bản ghi nhận kết quả hòa giải nhưng phát hiện vụ án không thuộc thẩm quyền của Tòa án thì cần có hướng dẫn cụthể.

3.3. Về quyết định công nhận kết quả hòa giải thành tại Tòa án và việc thi hành quyết định công nhận kết quả hòa giải thành

Theo quy định của Luật Hòa giải, đốì thoại tại Tòa án năm 2020, sau khi lập biên bản ghi nhận kết quả hòa giải, Hòa giải viên chuyển biên bản cùng tài liệu kèm theo cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự để ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành trong trường hợp các bên có yêu cầu. Đồng thòi, quyết định công nhận kết quả hòa giải thành có hiệu lực pháp luật và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm theo quy định của Bộ luật Tô'tụng dân sự. Như vậy, sau khi tiến hành hòa giải theo Luật Hòa giải, đôì thoại tại Tòa mà kết quả hòa giải thành công, các bên

thỏa thuận được với nhau thì các bên có thể chủ động thực hiện theo nội dung đã hòa giải được mà không cần Tòa án phải ban hành quyết định công nhận hòa giải thành tại Tòa án. Tuy nhiên, trên thực tế khả năng cao là các bên vẫn tiếp tục lựa chọn để yêu cầu Tòa án ban hành quyết địnhcông nhận kết quả hòa giải thành tại Tòa án nhằm đảm bảo tính pháp lý cũng như giá trị thi hành của những thỏa thuận này. Do vậy, quan trọng và ý nghĩa nhất của việc xem xét và ban hành quyết định công nhận kết quả hòa giải thành tại Tòa án chính là giá trị thi hành của nó.

Song song đó, theo Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2020 thì quyết định công nhận kết quả hòa giải thành được thi hành theo quy định của pháp luật vê thi hành án dân sự. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 1 và Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm2008 (sửa đổi, bổ sung năm2014) và theo quy định Điều 482 Bộ luật Tô' tụng dân sự năm 2015 thì không có loại quyết định nào là quyết định công nhận kết quả hòa giải thành theo Luật Hòa giải, đốì thoạitại Tòa án. Điều này sẽ gây ra sự khó khăn trong thực tiễn áp dụng pháp luật.

Ngoài ra, cơ quan có thẩm quyền cũng chưa ban hành biểu mẫu quyết định công nhận kết quả hòa giải thành. Hiện nay, Thông tư số 02/2020/TT-TANDTC ngày 16 tháng 11 năm 2020 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định chi tiết về trách nhiệm của Tòa án nhân dân trong hoạt động hòa giải, đối thoại tại Tòa án chỉ dừng lại ở việc ban hành biểu mẫu Biên bản ghi nhận kết quả hòa giải. Do đó, vấn đề này cần có hướng dẫn kịp thòi để luật

Q NHÂN Lực KHOA HỌC XÃ HỘI SÔ 6-2021

(9)

TÀNG THỊ DIỆUPHƯƠNG này đi vào cuộc sống và phát huy ảnh

hưởng tích cực và thay đổi cơ bản tư duy, cách thức giải quyết tranh chấp bằng con đường hòa bình.

3.4. Thủ tục đề nghị, kiến nghị xem xét lại quyết định công nhận kết quả hòa giải thành tại Tòa án

Theo quy định tại Điều 36 Luật Hòa giải, đốì thoại tại Tòa án năm 2020 thì quyết định công nhận kết quả hòa giải thành có thể bị xem xét lại theo đề nghị của các bên, người đại diện hoặc người có quyển lợi, nghĩa vụ liên quan đến quyết định của Tòa án, kiến nghị của Viện kiểm sát nếu có căn cứ cho rằng nội dung thỏa thuận, thống nhất của các bên vi phạm một trong các điều kiện quy định tại Điều 33 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2020. Đồng thời, các bên, người đại diện hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến quyết định của Tòa án có quyền đề nghị xem xét lại quyết định công nhận kết quả hòa giải thành trong thòi hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định. Trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác mà họ không thực hiện được quyền đề nghị theo đúng thời hạn thì thời gian đó không tính vào thời hạn đề nghị. Đốì vối Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kiến nghị xem xét lại quyết định công nhận kết quả hòa giải thành trong thòi hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được quyết định củaTòa án.

Như vậy, Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2020 đã quy định thời hạn cụ thể để đề nghị, kiến nghị xem xét lại quyết định công nhận kết quả hòa giải Í hành. Tuy nhiên, pháp luật cũng không [uy định cụ thể, nếu hết thời hạn này các

SÔ 6-2021

bên, người đại diện hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đếnquyết địnhcủa Tòa án, Viện kiểm sát mới phát hiện nội dung thỏa thuận, thống nhất của các bên vi phạm một trong các điều kiện quy định tại Điều 33 của Luật Hòa giải, đốì thoại tại Tòa án năm 2020 thì xử lý như thê nào. Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2020 cũng không quy định thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm như trong tố tụng dân sự. Đây là vấn đề cần được trao đổi và hưống dẫn để việc triển khai, áp dụng Luật Hòa giải, đốì thoại tại Tòa án năm 2020 liên quan đến thủ tục đề nghị, kiến nghị xem xét lại quyết định công nhận kết quả hòa giải thành tại Tòa án.

Thực tế, thời gian qua cho thấy, mặc dù Thẩm phán đã ban hành quyết định công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự theo tố tụng dân sự nhưng quyết định này vẫn bị cấp giám đốc thẩm xem xét lại, thậm chí đã hủy quyết định này của Thẩm phán.

Song song đó, theo Điều 38 Luật Hòa giải, đốỉ thoại tại Tòa án năm 2020, trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn đề nghị hoặc văn bản kiến nghịxem xét lại quyết định công nhận kết quả hòa giải thành Tòa án cấp trên trực tiếp yêu cầu Tòa án đã ra quyết định chuyển hồ sơ, tài liệu. Trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu, Tòa án đã ra quyết định phải chuyển hồ sơ, tài liệu cho Tòa án cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, tài liệu, Tòa án cấp trên trực tiếp phải thụ lý và phân công Thẩm phán xem xét, giải quyết; đồng thòi thông báo cho người đề nghị, Viện NHÂN LỤC KHOA HỌC XÃ HỘI

13

(10)

BÀN VỀ VẤN ĐỂ HÒAGIẢI TẠI TÒA ẤN kiểm sát kiến nghị và Viện kiểm sát cùng cấp. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày được phân công, Thẩm phán thực hiện việc xác minh, thu thập chứng cứ, nghiên cứu hồ sơ, tài liệu. Tuy nhiên, Luật Hòa giải, đốì thoại tại Tòa án năm 2020 không quy định các biện pháp cụ thể xác minh, thu thập chứng cứ như trong tô'tụng dân sự.

Theo quy định tại Điều 93 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 “Chứngcứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuấttrình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp”. Như vậy, chứng cứ phải đảm bảo 03 yếu tố: (i) Tính khách quan, tức phải tồn tại ngoàiýchí chủquan củacon người;

(ii) Tính liên quan, nghĩa là mối quan hệ hữu cơ giữa chứng cứ và tình tiết phải chứng minh của vụ án; (iii) Tính hợp pháp, được thu thập, cung cấp, bảo quản, sử dụng theo qui địnhcủa Bộ luật Tô' tụng dân sựnăm 2015.

Do đó, khi Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2020 không quy định các biện pháp cụ thể xác minh, thu thập chứng cứ nên rất khó để đảm bảo các yếu tô' để một tài liệu, kết luận, vãn bản,...

nào đó trở thành chứng cứ. Vì vậy, thực tiễn áp dụng pháp luật cần có sự hướng dẫn kịp thời.

4. Kiến nghị

Một là, kiến nghị Tòa án nhân dân tô'i

cao hưống dẫn đối vối trường hợp người đang là bị can, bị cáo, người đang chấp hành án hình sự hoặc đã chấp hành xong bản án nhưng chưa được xóa án tích;

người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc thì không được bổ nhiệm làm Hòa giải viên vì không đảm bảo yếu tô' gương mẫu trong việc chấp hành pháp luật.

Hai là, kiến nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết hướng dẫn đôì với trường hợp sau khi Tòa án nhận đơn, vào sổ nhận đơn, xác nhận việc nhận đơn theo quy định tại khoản 1 Điều 191 của Bộ luật Tô' tụng dân sự và đã tiến hành lập Biên bản ghi nhận kết quả hòa giải nhưng phát hiệnvụ án không thuộc thẩm quyền của Tòa án thì có hướng xử lý cụ thể.

Ba là, kiến nghị Quốc hội sửa đổi Luật Thihành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm2014) theo hướng quy định thêm trườnghợp thi hành quyết định công nhận kết quả hòa giải thành theo Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Đồng thời, ban hành các biểu mẫu có liên quan đến quyết định này.

Bốn là, kiến nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tô'i cao ban hành Nghị quyết hướng dẫn xử lý đôì với trường hợp hết thời hạn quy định các bên, người đại diệnhoặc người có quyềnlợi, nghĩa vụliên quan đến quyết định của Tòa án, Viện kiếm sát mới phát hiện nội dung thỏa thuận, thông nhất của các bên vi phạm một trong các điều kiện quy định tại Điều 33 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án nám 2020. Đồng thời, hướng dẫn các biện

NHÂN LỰC KHOA HỌC XÃ HỘI SÔ 6-2021

(11)

TÀNG THỊ DIỆU PHƯƠNG pháp cụ thể xác minh, thu thập chứng cứ

trong thủ tục đề nghị, kiến nghị xem xét lại quyết định công nhận kết quả hòa giải thành tại Tòa án.

Kết luận

Xuất phát từ nhu cầu, đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống; từ vai trò, tầm quan trọng của hòa giải tại Tòa án; thực hiện đúng chủ trương, đường lối của Đảng về đa dạng hóa các phương thức giải quyết tranh chấp dân sự thông qua việc xây dựng cơ chế pháp lý mới về hòa giải tại Tòa án, Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án đã được Quốc hội thông qua. Mặc dù, đã có hiệu lực pháp luật cũng như đã có một số văn bản hướng dẫn thi hành nhưng vẫn còn phát sinh những vấn đề chưa thống nhất còn tranh cãi. Chính vì vậy, chủ thể có thẩm quyền cầntiếp tục kịp thời có văn bản hướng dẫn cụ thế để tránh các quan điểm khác nhau, áp dụng pháp luật không thống nhất, có như vậy mối góp phần cho việc thực thi có hiệu lực, hiệu quả Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án trong mối tương quan với Bộ luật Tô' tụng dân sự trên thực tế được thuận lợi, thành công góp phần xây dựng Tòa án nhân dân xứng đáng là biểu tượng của cônglý, lẽ phải và niềm tin.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nghị quyết sô 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

2. Hiến pháp năm 2013.

3. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

4. Luật Thi hành án dân sự năm2008 (sửa đổi, bổ sung năm2014).

SÔ 6-2021

5. Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2020.

6. Nghị định số 22/2017/NĐ-CP ngày 24 tháng 02 năm 2017 của Chính phủ về hòa giải thương mại.

7. Thông tư số 02/2020/TT-TANDTC ngày 16 tháng 11 năm 2020 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định chi tiết về trách nhiệm của Tòa án nhân dân trong hoạt động hòa giải, đôì thoại tại Tòa án.

8. Thông tư số 03/2020/TT-TANDTC ngày 16 tháng 11 năm 2020 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định chi tiết vềtrình tự nhận, xửlý đơn khởi kiện, đơn yêu cầu tại Tòa án và chỉ định Hòa giải viên.

9. Thông tư số 04/2020/TT-TANDTC ngày 16 tháng 11 năm 2020 của Chánhán Tòa án nhân dân tốĩ cao quy định chi tiết quy trình bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, khen thưởng, xử lý vi phạm; cấp và thuhồi thẻ Hòa giải viên.

10. Học viện Tòa án (2020), Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế pháp luật Việt Nam và Hàn Quốc về hòa giải tại Tòa án, Hà Nội.

11. Tạp chí điện tử Tòa án nhân dân tối cao,

nghien-cuu/mot-so-van-de-ve-luat-hoa- giai-doi-thoai-tai-toa-an (truy cập ngày 08/5/2021).

https://tapchitoaan.vn/bai-viet/

12. Úy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam

tỉnh Hòa Bình, .

hoabinh.gov.vn/gi-i-thi-u-chung/1093- cong-tac-hoa-giai-o-co-so-co-vai-tro- quan-trong-dam-bao-an-ninh-trat-tu-an- toan-xa-hoi-va-phat-huy-khoi-dai-doan- ket-toan-dan (truycập ngày 09/5/2021).

http://mattrantoquoc

NHÂN LỰC KHOA HỌC XÃ HỘI gỊ

Referensi

Dokumen terkait

Cấu trúc NL GQVĐ NL GQVĐ Phát hiện và hiểu vấn đề Phát hiện tình huống có vấn đề Xác định, tìm hiểu và giải thích các thông tin Trình bày sự am hiểu vấn đề Thiết lập không gian

Trong hoàn cảnh đó, cơ hội thành công của nước Đức thứ ba trong quá trình giải quyết vấn đề nước Đức thế kỷ XIX là gần như không có, vì thực tế chính các nhà nước này cũng không tự đặt