BÙI
CUỒNG
Mở đẩu
Cáchđây nhiều năm, người có một biên khảo nhỏ vềBùi vàcuộc cải cách hải quân.Tuy dựa trên tổng hợp nhiều nguồn tài liệu, bàiviếtchủ yếu vẫn sử dụng những chitiếttrong một tác phẩm không mấy khả tín. Đó mộtcuốn lịch sử danh nhân của Phan TrầnChúc nhan đểBùi với chínhphủ Mỹ'(Đại La, 1945). Cũng vì không đángtin, ngườiviếtloại chi tiếtBùiViện sang Mỹ vìđây mộtviệckhông khả thi trong giai đoạn đó vàchính văn khố Mỹ cũng không cóchitiếtnàođề cập đến việc này nên trong bài chỉ nhắc đến những cải cách mặt bể và Bùi Viện xây dựng lực lượng hải quânnhư thếnào, mặc dầu vẫn đặt câu về cách tổ chức và lương bổng mà Phan Trần Chúc đâ liệt vì đều vượt quá khả năng của triều đình Huế trong giai đoạn đó. Cóthểtác giả dựa trên một số tài liệu mà Bùi Viện tâu lên về tổchức của Bắc Dương, Dương,Đông Dương quân các đội tàu chiến mà Lý Hổng Chương tổ chức theo kiểu Tây phương trong quátrình Dương vận động không phải đãthực hiện ở Việt Nam. Tuy đội Tuần Dương quân của Bùi Viện có mộtvài lần đụng độ với giặc biển nhưng những nhóm cướp nhỏ thường trốntrong khu vực Đầu sơnvùng Phòng màtấu bảntriều Nguyễn còn nhắcđến.
Ngoài những công tác to lớn trong tác phẩm của Phan Trần Chúc cũng khôngchính xác, lắm chỗ vay mượn tiểu sử của một nhàcải cách đương thời như Phạm Phú Thứ, Nguyễn Trường Duy
Trong này,chúng tôi không trở những vấn để cũ hay những giải thích không cần thiết trình bàyvề một tài liệu đã được đăng tải trênNam Phong tạp năm BảoĐại nguyên niên (1926) (quyển XVIII, 17-19).Đó Bùi gia lược truyện
viếtvể anh em ông Bùi Viện và Bùi Lạp doSở Cuồng (tức Lê Dư) soạn.
Tính đến khi nghiên cứu của Sở Cuông được công Bùi Viện (1839 1878) chỉ mới qua đời khoảng hơn40 năm.Sở Cuồng người rất chu đáo khi tìm hiểumột vấn đề,vẫn nổi tiếng vể biên khảo nhiều tài liệu lịch sử có giátrị. Những chi tiết mà ông nêu phùhợp vớithựctế đương thời của triều đình Huế chúng ta cũng cóthểđánh giá những chitiếtvể tổ chứcTuấnDương Quân màPhanTrần Chúc
trongBùi với chínhphủMỹ.
TheoSởCuồng, việc đáng chú ý nhất của Viện ý kiến canh tân muốn học tập theo Tây phương nênông xinđược sang Âu châu để tìm hiểu cách thức cai trị và đường sinh hoạt của Việc nóng lòng muốnthayđổicho mau chóng bắt kịp với bên ngoài không phải Bùi người đề duynhất trước đóPhạm Phú 1882),Đặng Huy Trứ (1825
1874), Nguyễn Trường (1830 cũng điểu trần. Tuy nhiên, đề nghị của ông không được chấp thuận vì phấn các quan trong triểu đình ngả theo khuynh hướng cải cách "gián tiếp" xuyên quahọctập Trung Hoa, có kếsách khảthi và phù hợp vớiquan điểm chung của sĩ phu thời
Dư,dẫu Viện cókhuynh hướng Âu hóa mạnh mẽ nhưngcũngchínhông người được giao cho vai trò tìm hiểu để học tập cáchthứccanh tân vàthực hiện những nghiệm mới theo đường lối Trung Hoa.
Theo Sở Cuồng, Bùi Viện quả có sang Tầu trong năm vàcôngtác chính của ông nghiên cứu về cải cách của Trung Hoa đểthựchiện mởcác cửa biểngiaothương với bên ngoài. trắng đó từ đường "bế quan tỏa chính sách cố hữu nhằm chặn người ngoại quốc xâm nhập Trung đồngthời ngăn những của Trung lọt ngoài.
vàothời đại hôm nay, khi nói đến bếquan tỏa cảngchúng ta thường coi biện pháp đẳng vàthiển cận của triều đình phương Đông nhưng thực đây mộtchính sách màngười Trung áp
Phát triển tệ hội
Da
dụng trong nhiểu ngàn năm. Không phải vô cớ Trung xâymột côngtrình đại Vạn LýTrường Thành ở phương bắc và những hàng khắp dọc theo biên giới. Chính cái nguyên tắc "thiên triều
phiênthuộc"cũng hàm ý các nướcchung quanh một phên dậu (phiên) để phân biệt nội ngoại. Chính sách đócũng bảo vệ và kiểm soát những sản phẩm, bí mật quân kỹthuật, văn hóa mà ngườiTrung
muốngiữkíncho riêng Nhiềuphát minh của Trung phải mất rấtnhiều thời gian trước khi các nước khác học và bắtchước được. Trong hàng ngàn năm, vô số cácthừa phương Tâymuốn vào Trung nguyên truyền đạo nhưng đóng thời cũng muốn tìm hiểu và học hỏivề văn minh của người nhưng không mấythành công.
Chế độ quân chủ Việt Nam vốndĩ một phó sản nên nhữngthayđổiỞViệt thường xảy ỞTrung trước và được saochép theo một qui mô nhỏ hơn. Chính sáchthayđổicủathời Tự Đứccũng không khác. Cũng vì đó,triểu đình Huế đãchủ trương thayvì đihọc trựctiếp Tây phương thìcứđihọc của vừanhanh vừa tiện nhất cũng trên phương diện "đồng văn" (dùng chung một chữ viết) nên không gửi người sang châu gửingười sang Trung duhọcvề chính sách, vể ngoại giao và vể kỹthuật. Chuyến của BùiViện và em Lạp sang Trung trở vể tổ chức Tuần cũng không ngoài chính sách đó. Tuần Tải của Việt Nam một môhình nhỏ củaChiêu Thương Cuộc nhàThanh.
Chiêu Thương Cuộc một cơ quan việc buôn bán do Lý HồngChương khi đó tổng đốcTrực kiêm Bắc Dương đạithần tâu lênThanhđình lập năm 1872 dưới thời Đổng Trị. Cơ quan này có công tác trọng yếu trong một loạt cải cách người ta đặt tên Dương vậnđộng.Cuối năm 1872, nhàThanh thiếtlậpLuân thuyền vận thâu nghiệp(Ệm^SìĩỆMÍỀ vàđầu năm 1873 thì chính thức mở tổng tại ThiênTân.TheoThanh Sử Cảo thì năm Đổng Trị (1872), Xương Tuấn xin được dùng các thuyền vận tải để chuyên chở và kéoviệc buôn bán, các thương nhân góp vốn thiết lập thương cuộc và chịu trách nhiệm mua chiếc tàu, mỗi năm chở được 20vạn thạch vận chuyển đến Thiên Tân.
Đây hãngtàu vận tải qui mô và to nhất của Trung từ trước đến nay, lúc đầu do triều đình điều động quan coi sóc nhưng sau có nhân tham gia, quan đốc thương biện (quan coi sóc,
Phát triển tế hội
Dà
con buônthực hiện) một dạng hợpdoanh do tổng biện, hội biện đảmtráchviệcđiểu hành.Tiếpđó,việc kinh doanh càng ngày càng được mở rộng và bành trướng những ngành kinh doanh khác như khai thác khoáng sản, than đá, may dệt, ngân hàng, bảo hiểm, điệnthoại,đường
1873, lầnđầutiên thuyềnvận tải của Chiêu Thương Cuộc từThiên Tân Hương Cảng mở đầu cho công việc kinh doanh đường biển cận duyên cũng năm đó,tuyến đường viễn dương được mở Thiên Tân Nhật Bản.
Côngviệccàng ngày càng phát đạt nên Chiêu Thương Cuộc ởThiênTân, họ thêm những chi nhánh ở nhiều nơi khác nhưPhúc Kiến, Quảng Châu và nhiều phân trạm tại các quốc gia mà họ kinh doanh. Sau khi Nha Tuấn Tải của Việt Nam thất bại, Chiêu Thương Cuộc của nhàThanhđứng thầu luôn việc chuyên chở lúa gạo cho triều đình Huế và thương cuộc ởQuảng Châu đầu cầu liên lạc với nước ta.
Nhữngchuyến củaChiêu Thương Cuộc nhà Thanh đếnThuận bêncạnh vấn đề kinh doanh còn công tác con thoi để bí mật thông báo và đưa tin qua giữa haitriềuđình.Cũng vìthếvua Tự Đức cương quyết chốikhông cho họ gặp mặt đểtrình bày chuyển giao tin tức vì sợ người Pháp nghi ngờ.
SởCuồng sinhđi khắp các thương phụ (nơi mở chợ buôn bán)của Trung Quốc Quáng Cháu,Hương Cáng, Hạ Môn, Thượng Thiên mọi vùng,quan ba năm,khi trờ vể lạixin được các thươngcuộc được bổlàm tham biệnthương chínhcuộc [tục gọi ôngtham Trình Phố].
Khiđógiặc biểnhoành hành, sinh lại tâu xin thiếtlập nha tuần tải đi tuần trênmặtbiển,bảo hộ thuyền buôn".
thể nói, ngoại những người đã từng được đặtchân đến Âu châu như PhanThanh Giản, Phạm Phú thathiếtkêu gọi cải tổ,canh tân trực tiếp theo đường của Tâyphương giống nhưXiêm La, Nhật Bảnthì phần sĩ phuViệt Namtuycóđầu óc đổi mớinhưng vẫn chủ trương học tập
vốn dĩ luôn luôn khuôn mẫu cho Việt từnhiềuthế Điều đó cũng dễ hiểu vì hình dáng người nước ta không khác người Tàu bao nhiêu, chỉ cầnthayđổi bểngoài thì cónhiều cơ trà trộn học tập hơn đitrực tiếp với Âu châu. lại,vào thời kỳ đó,Á châuvẫn đố kỵ với Tây phương trên nhiều mặt, ngôn ngữ, tôn giáo,văn Muốnhọc tập theo
Tây phương môitrường trung gian hữu hiệu nhất những thừa sai củađạo Thiên Chúa, sẵn lòngtiếp tayvớitriều đình nhưng mangtheonhiều nghi kỵ sợ giáncho đối phương.
Việccửmột pháiđoàn "bán chínhthức" nhưphái đoàn Việncũng phải đặt trong khung cảnh ngoại giao thời đó,không phải chỉ riêng nước ta mà của Trung Hoa cũngnhưsự cảnh giác của các cường quốc Tâyphương đang có mặt ở Đông Á. Cũng vì không phải một phái đoàn trong qui chế "thiên triều phiên thuộc", Bùi Viện chỉ có thể bí mật đến Quảng Châu len vào các khu vực tô giới nhường cho ngoại quốc ở Quảng Châu, Môn, PhúcChâu, Ninh Thượng (1842), Ngưu Trang, Hán Khẩu, TrấnGiang, Cửu Giang, Nam (1860) nóichung dọctheobờ biển chủ yếu bằng thuyền buôn và không được quan địa phương đón tiếp như một sứ bộ chính thức. Cũng vì khi giao thiệpvớingườiAnh, người ôngchẳng có để chứng minh thânthếvànhiệm vụ của mình ngõ hấu cóđượcnhững yểm trợ cụthể.
Theo đẳng cấp nhà Nguyễn, tham biện Thương Bạc quan văn, chánh ngũ phẩm nhưng khi Bùi Viện được giaothêm việctrông coi Tuần vànhất
khithành lập đội Tuần Dương quân thì cấp bậc cao hơn.Tuy nhiên đội Tuần Dương này không thực sự đóng vai trò hảiquân của quốc gia mà chỉ một đội
thuyền hộ vệ các tàuchởhàngđể khỏi hảiphỉ (Tàu đánh cướp. trang thô kỹthuậtyếu kém, các độithuyền này không duytrì được lâu vàtan
khi BùiViện qua đời.
TheoĐại Nam thực lục, quyển 58, thực lục về Dực Tông Anh hoàng đế (tức vua Tự Đức) thì Tuần được thành lập vào tháng Tám năm Đinh Sửu(nămTựĐức30, Bắt đẩuđặtNha tải{chánh, quànđốcmỗichức mộtngười, bát, cửu phẩm mỗi chức người, lại người,mộ dõng quyền quàn người, quyềnsuất người, điểnty người)lấy Biên lĩnh Trướctác là Bùi {cửnhân Nam Định) sungchức Chánh quảnđốc.
Theo bản tấu của Binhngày tháng Chín năm Tự Đức 30 (1877):"Ngàytháng năm nay,quan bộ và bộ thândângphiến xin mộtChánh quàn đốc, mộtPhó quản tạinha Kínhchuẩn cho Bùi sung làm Quản nha còn Phóquảnđốcdo ban võ lựachọn. Các viên quan hoặcCaiđội,ai người thông thạo sông nước và đánh trận đường bộ xin sung bổ. Bộ thân tuânsaolục gửichothihành. Sau đó nhậnđược tờ tấucủa ban võ trình rằng đã chọn được viên Caiđội đội vệ doanh Trung Thuỷ Đặng ứng và Chánhđộitrưởngsuấtđội đội vệ Nhịbảo doanh Lâm là NguyễnDũng Lực đều những người có thânthểtráng kiện,đã từng qua đánh dẹp, có thểsung được. Bộ thẩn vâng Nguyễn
Châu Nguyễn về việc Bùi Viện Quản Tuần
(Tài Trung Lưu Quốc HàNội, Trích của
Phát triển tế hội
Dà
-í
Dũng Lực là lính bộ có am hiểu về đường thủy không vàĐặng ứng là quân thủy có am hiểu đánh trận đường bộ không trong tờ không thấy trìnhbày Bộ thầnđã vângtưhỏi,naynhậnđượctờphúctấu trình bày: Nguyễn Dũng Lực am hiểu đánh trận đường bộ, đường thủy củng am hiểu. Đặng ứng từng chuyênchở vậthạng,đánh trận đường bộ khá am hiểu.
Quanban võ làđều cóthểsung được. Trong đó Đặng ứng là người thânthủy quân, biết đánh trậnđường bộ, mà phẩm trật củng cao hơn. Đặng ứng xin nguyên hàm Caiđộicấm binhsung làm Phó quản nha NguyễnDũng Lựcphẩm trật thấp hơn xin nên vấn chức
Quichếnhà Nguyễn, cai tòngtứphẩm nên chức quản đốc quan văn phẩm trật phải cao hơn.
Viện qua đời, ngườithayông Nguyên Thục,phóđề đốc Nam Định làm quản đốc Tuần
(phó đềđốc trật chánh hay tòng nhị phẩm) nên Bùi Viện khi ở vị trí này cũng ở mức tương đương không phải ngũ, lục phẩmnhưnhiều người suy đoán.
chung, Viện người đầutiên được vua Tự Đức giao cho thi hành một số cải tổ canh tân theo mẫu hình của nhà Thanh, từ việc thành lập một Thương Chính Cuộc [tương đương với Chiêu Thương Cuộc]và bắt đẩu chỉ huy Tuần [theo mẫu hình Bắc Dương, Nam Dương quân của nhàThanh trênbiển].Tuynhiên, tuổi đời và uy tín của ông không thể sánh được với những người được giao trọng trách canh tân của Trung nhưLý HồngChương, Tăng Quốc nên công cuộc cải cách chưa đến đâu thì sụp đổ. Thương Chính Cuộc (đổi thành Thương Bạc Viện) sau khi họ Bùi qua chỉ thuần túyđóngvai trò liên lạc với bên ngoài và chuyên chở, cung cấp lương thực. chung, xương sống kinh
củaViệt Nam thời đó bắcvào nam, nam bắc đểugiao cho người Tàu đảm trách. Tuần khôngthành công vìviệcchở mướn không sức trả chi phícho các đội bảo tiêu (Tuần Dương quân) vì cẩn đếnsựliều lĩnh của nên phải hậu đãi hơn binh lính bình thường. Cũngtheo Đại thực lục
quyển 60) thì tháng Chạp năm Mậu Đức (1878), một tháng sau khi Bùi Viện
Cho lĩnhĐề phủ Thừa Thiên là Nguyễn Thụcđổi lĩnh Phóđề tỉnh NamĐịnh,quàn công việc nha Quànđốctrước nha ấy là Bùi thiếu rất nhiều, em viên ấy là Bùi Phùng nhận lĩnh thuê khấu nhưng đều là người mới. Hộ NamĐinh
Nguyễn TrọngHợp tâuxin uỷ người buôn nước Thanh làhiệu BảoPhúc và quyền Hiệp quản là bọn Phan Đễ nhận làm đóng thuyền thu thúc binh dõng, rồi thu báo hiểm".'
Xem nhưthế, trong một năm Bùi Viện làm quản đốc Tuần Tải,tình hình làm ăn khôngthànhcông.
Những cơquan vận tải hoạt động theo bán công, tuydo người củatriểu đình cắt đặt nhưng hoạt động kinhdoanh như nhân [tứcdạng quốc doanh hiện nay] nên phải làm sao tiền thu vào đủ để chi phí, khôngthể hoạt động không tínhchuyện
Thếnhưng Nguyễn Hữu cũng không thành công nênchẳng bao đình chức và giao cho Nguyễn Trọng Hợp: Hợpmới sửa sang bốn chiếc thuyền hiệu (hai chiếc đóng haichiếc thuê làm) chọn các viên lĩnh mộ, chia nhau cai quản luyện tập, quânthủy thủ người nước Thanh (hơn người)ngói các thuyền hiệu, chia làm toán trung, hậu, ra biển luyện tập,lại ủybọn bang biện người nước Thanh đứng rabảo nhận thuêcáchiệu thuyềnnước Thanh đi tải".'
Chiêu Thương Cuộc của Trung nay vươn cánhtayvà cóchi nhánh ở bắc và ngay cạnh kinh đô thường đóng vai thông tin bí mật giữa triều đình.
Nhữngcông tác đó rất nhộn nhịp và càng lúc càng
thêm khi dựa hẳnvàoTrung
đểchống Pháp và nhiều phái đoàn qua trong năm 1882,1883 cho đến khi ông qua
Ngoài NhaTuần Tải, vua Tự Đức cũng muốn áp dụng một mô hìnhkhác của Trung Hoa thành lập một cơ quan chuyên về ngoại giao với bên ngoài.
Trước đây, hệ thống hành chánh cũ của triều đình nhàThanh có bộ và Lý Phiên Việnquản lý các sự vụ liên quan đếnnhững nước chungquanh,chủ yếu việc nghi qua lại.Đến khi phải đối phó với các cườngquốc Âu Tây, công việc ngoại giao và chính naytrở nên phức tạp, không đơn giản chỉ những
"cống sứ nên nhàThanhthành lập Tổng Lýcác quốc vụnha môn, gọitắt Tổng Lýnha môn hay Tổng Thựnăm sau Hiệp ướcThiên Tân (1858) và nghị Bắc Kinh (1860). Nhiệm vụ của nha môn này tương như bộngoại giao ngày nay. Tổng Lý nha mòntrông coiviệc cửcác lãnh sự ở nước khác, giám sátvà cai quản việc ngoạithương, phòng vệ duyên hải, má thương vụ, thiết và khai mỏ, việc đưa các du học sinh nước ngoàihọc tập.
môn được khởi đầu từnăm 1862 do một sốvương công, đạithần trong Quân Cơ Xứ điểu hành và cơ
Phát triển Rinh tế hội
Đà
quan trọng yếu nhất cuối đờiThanh.Chúng ta thấy những cảicách hànhchínhvội vã của nhàThanh các hiệp ước khai phóng mòn và củatriều đình Tự Đứcsaukhi kýhiệp ước (1874) có nhiều nét tương đổng nênviệc cửBùiViệnsang Trung có lý do cụthểcủa
Anh em ông Việnsang Trung tìm hiểu các mô hìnhchínhtrị của họvào khoảng 1874 1877 khivể thành lậpthương cuộctheomẫu nhàThanh nhưngviệcthiếtlập nha môn (dưới tênThương Bạc Viện) thì còn sơ khai vàtuycóliên lạc với bên ngoài
nhưngvẫntrong vòng bí mật. Cuối
Bạc Viện do Nguyễn VănTường trông coi và ông đóng vai trò bộ trưởng ngoại giaothaymặt hoàng đế mật nghị với ĐườngĐìnhCanh, Đường Cảnh Tùng khi ngụytrang làm người của Chiêu Thương Cuộc sang
việcbuôn bán.
Sauđây Bùi giơ truyện
flặ)viếtvể anh em ông Bùi Viện và Bùi Lạp do Sở Cuổng soạn. Toàn văn bằngchữHán,chúng tôi dịch sangtiếngViệt vàchỉđăng nguyêntácvà phần phiên âm Hán Việt đối với những thơ xuấthiện trong bàiviếtcủa SởCuổng.
SởCuồng
TRUYỆN HỌBÙI
(NơmPhong tạp chí,BảoĐại nguyên niên, Tây lịch 1926,Quyển tr.
Việc trongthiên có khó khăn thì mới quí.
cũng không phải sau khi xảy thì mới phơi bày bàn luận xem phải trái thế nào, mà phải khi việccòn chưaxảy xem xét chỗ cơ biến, không phải tại lúc sấm sét rungchuyển,lúcấy mới phụ họa, vênh vang ởlúc sóng chưa lên dựđoán được rằnggióđang thổi tới.
Cho nên biết trước được chuyện khó khăn, xưa nayđòng tây đểu coi chuyệnkhónhấtvậy.
thường xem xétviệcđời, đau lòngchuyện cũ, thấyở Bắc Kỳ có hai vị sớm hiểu biết, rất lấy làm hâm mộkhôngthể qua, khôngthểkhông biểu dương trêntrầnthếngõ hấu người đời sau kínhngưỡng.
vịtiên giác ấy ai?Ấy chísĩ Bùi Viện, Bùi Lạp hai vị tiên sinh vậy.
tiên sinh thuộc Bùi người tỉnhThái Bình, phủ KiếnXương, huyện TrựcĐịnh,xã Trình Phố, sinh vào đầu thờiTự Đức cũng anh em cùng một bọc. Bùi Việntiên sinh hiệu Mạnh Dực,thông minh dĩnh ngộ, khẳng khái khác thường.
trẻ lúc còn học ông đãxemxétthời tính toáncơnghiđể mong sau này khi đời gặpthời thì cóchỗdùng. NămTự Đức (1868) ông đỗcửnhân kỳ thi Hương, đến mùaxuânnăm sau lênkinh đô thi hội.Tuykhông được toại nguyện nhưng ông vốn mộtthanhniên thời mẫn thế, trángchíhùng tâm, khiến nhàvua biết đến và được triệu vào điện để về thời cuộc.
Những điểu bình sinh tiên sinh vẫn thường uất bấtbình nay được ở gần ngay trước bệ thổ khí dương mi,chẳng khác gặp nước, rồng gặp mây, sung sướng chẳng nói cũng biết. Một khi tiên sinh được hỏiđến, lậptứctâu cácviệcthông thương, nhìn
cuốithếkỷXIX, gió mưa ầm ầmthổi đến.
Phíađôngthì Nhật Bản, phía tây thì Xiêm đểu khai phóng môn hộ, kết với các điều ước thông thương, đưa nhiều người sang các nước ngoài quan sát để tìm kế sách ứng phó. Nước tachỉ một rẻođấtnhỏ chưa khai hóa, nằm trên đườngthuyền ở biển Nam, phía nam có ẤnĐộ, Tân Gia Ba, phía bắc
Phát triển Xã hội
Da
1< «!<>■
có Hương Cảng, Thượng qua bắtbuộc phải ngang, thì nào cóthểbế quan tỏa cảng khônggiaothiệpvới được sao?
Trong những điều ông tâu lên thì trước hết phải việc mở các cửa biển, không giống phong thái đóng cửa cao đại, vốndĩăn sâuvào đầu óc của người nướcta. Cho nên khi vừa nghe tiên sinh nói,
nấyđểu cảmthấychẳng khác nhìn mặt trời đấtThục,gặptuyết nơiđấtViệt nên thì rằng khôngthể thựchành, thì khôngthấy thích hợp.
Tiên sinh tình nguyện sang bênphương Tây xem xétchínhthể, mua sách vở các nước đem về để giúpchoviệcnghiên cứu. Người nước ta xưa nay vốn không muốnthayđổigì,nay cóngười muốn mở mắttiến bước xông lên trước, cóthểgọi dũng cảm vậynhưng không đượcchấp thuận.
Sauđótiên sinh khắpcácthương phụ (nơi mở chợ buôn bán) của Trung Quốc như Quảng Châu, Hương Cảng, Môn, Thượng Hải, Thiên Tân mọi vùng,quan sát năm, khi trở về xin được mở các thương cuộc được bổ làm tham biện thương chính cuộc [tục gọi ôngthamTrình Phố].
Khi đógiặc biển hoành hành, tiên sinh tâu xin thiếtlậpnhatuần tải để tuần trên mặt biển, bảo thuyểnbuôn. Nhữngviệcôngtâu lên thì rất nhiểu đều nhữngviệcchưa từng nhưng tiên sinh đến 29(1876)thì bệnh mất ở kinhđô.
tiênsinh người có tài anh dinh bạttục, chí khítrước nay chưa từng có nhưng trờixanh khiến cho mệnh đoản,thực tạo vậtghétngười tài mà con ngườicũng ghét lây hay sao. Không phải thế. Sao đời ngườiđược gọi tuấnkiệtthứcthời, ấy Nguyễn Trường tiên sinh và tiên sinh vậy. Tiên sinh khithi đậu nămthì Nguyễn Trường tiên sinh qua đời, tuổi mới (1871).Tiên sinh ở kinh cũngtám,chín năm thì cũng ôm hận mất.Chúng tangày nay luậnchuyệnngười xưathường khôngthể khôngtiếccho đất nước của ông cha vậy.
tiên sinh ở kinh đô vẫn mong được gặp quen biết có ông Nguyễn Tư Giản người Bắc Ninh, mọi việc đểu được tâu tiếncửđề đạt, được ông TrầnTiễnThànhgiớithiệu với Nguyễn Trường tiên sinh. Tuy các tờtriệp của ôngTrấn, Nguyễn tâu lên, sau các cơn sóng gió nay khôngthấycòntruyền lạihậuthếnhưngviệcđểcửthì nhiều người biết chứng minh hai ông Trần, Nguyễn biết ông người cókiếnthứcrộng,khôngthểđồng luận với những
Phát triển hội
Dà
tầmthường, kém hiểu biết lúc đó được.
KhiMạnh Dựctiên sinh ở kinh đô đã từng thăm tất những tỉnh gần bên, quan sát thời cuộc.
đến Quảng Nam, lúc lâmbiệt NguyễnTưGiản đã gửi đểcho đường thêm phấn khởi.Theo nhưThạch Nông thi tập còn chépthì có hai thơtiên Mạnh Dực điQuảng Nam như sau:
Hà giơ cửu Cư nhiên bão
Trácthân thiênđịakhoát Lịchhuyếtquỉthần mưu Đàm tiếu tời nan tận Đắngkhiên vi Phong vânkhaitáibắc
nhạn Dichnghĩa:
việc màphảixa nhà Áy cũng vì ôm mối việcđời Nghiêngmìnhthấytrờiđất
Trích máu để mưutính việc quỷthần cười tài khóthi hành cho hết Nghểnh đầuchồm lên chưaxong
giómây mở tung đất bắc
Cánh nhạn nào giữlại mãihay sao?
Bài
Phong vũ tương mộ Phiêunhiên cánhhướng nam Thiênnhai vạn lý
Đăng hạ bán đàm Hoàng thạch dotại Nguyênlongkhííchhàm Hội liênmã thủ Quanhảiđáobổ cam Dichnghĩa:
Gió mưa khi năm đã sắp tàn Thổi nhẹvềhướng nam Góc biển vạn dặm
Dướiđèn chuyện một nửa đêm Sách của HoàngThạchCôngnay còn đây Cáikhí nguyênlong vẫn còn đấy rẫy Phảisaocho đầu ngựa liêntiếpnhau
Quan Âm trên biển cấm bìnhnước cam đến Lại có ngày cùng Mạnh Dực ban đêm ở trên thuyền uống rượu, cóthơrằng:
Hàndạ vi dương vũ tác tình
Giangquan tịch mịch chuhoành niênhảingoại sươngkhổ Bán túyđăng phủkhuynh
Thuđáo kỳ bình quan cục Khí kêlặc tiếu ngô sinh Hứng lạn nhiênhoàn quikhứ Chính thị lâu thanh Dịchnghía:
Đêm lạnh hơi hừng sáng thì trời mưa bỗng tạnh Chốn cửa sông tịch mịch có một chiếc thuyền ngang
năm ở hải ngoạichịu nhiều khổ phong sương saytrước ngọn đèn tỏ hết gan ruột mình Thu tất vào bàn cờ để xemthếcuộc
Bỏ đimiếngxươnggà màcười đời mình Tiệc hết hứng nênđành quay về Trên chòi caotiếng trống báo canh
Lạicảmtác cóthơrằng:
Bắccựcphongyên cửu khai Giang namtácphú tửsơn ai Hảitương hựucập thiên niên thiển Nhân thịtằng kinhbách chiết lai
Tuyệt tẩnphiền kim mã Trung thiên cựu lượng ưng đài Thùynăng lãng tích càn khôn ngoại Chước thủquai long hạ tửu bôi Dichnghĩa:
Chiến tranh ở phương bắc lâu chưa dứt Phía nam bờ sông thuế má khiến sông núi phải buồn
Nghìnnămnay biển cũng đến lúc nông
Phát triển tế hội 51
Đà
Con người thì trải qua một trận trăm điểu thách
xa xôimấy lấn phải ngựa đisứ Giữa trời đài LượngƯng thìcũngvẫn nhưxưa
người cóthể dấu bên ngoài càn khôn Chém được giống rổng hung ác để nâng chén uống rượu
Ấy vìđồng cảm với Mạnh Dực tiên sinh mà làm vậy.
Lạilàm khi thuyềnởvịnh ThuậnAnnhưsau:
—
ThơiDương cung điện tỏa yên ba Nhất trạo Thiên miếungoạiqua Sathị hôn triềuthượng cấp Hông lâu vân nguyệtminh đa Ỷbổngviễn thiênsơn sắc Ychẩm lân thuyền bándạ Hào nguyênlong hôbấtkhởi Thương minh kích tiếp hận hà Dichnghía:
Cungđiện Thai Dương khói sóngche Một máichèo vượt qua miếuThiên phi
Gió làm mùmịt phố cát sóngdâng lèn gấp mây tan trăng càng sáng khi chiếuvàolầu Tựavào sắccủahàng nghìn ngọn núi Tiếng hát lúc nửa đêm thuyềnsan bên Hàokhínguyên long gọi nhưng không vùng lên được
Chốn biển khơi mù mịt quẫy mái chèo hận như nào.
thơcó chúthích
(Mạnh Dực trướcđây cùng với hẹn nhau đến Thuận An xem biển nhưng không toại nguyện. Nay Mạnh Dực quađời đãba năm, nghĩđếnthuởxưa,thốtnhiên thương nhớ).
Xem nhưthếđủbiết lúc đương thời Nguyễn công vàtiên sinh tương tri rất sâu đậm, một thời kỳ nồng thắm. lòng áiquốc đau xót cho thờithếcùng mang một mối khổtâm nên người đềuthương cảm.
việcNguyễncông đểu tiếncửlên nhưng đến sau vẫn không được để bạt đến Mạnh Dực phải ôm hận màchết.Quảthậtthương đến chừng nào.
Emtrai của Mạnh Dựctiênsinh Bùi Lạp tiên sinh cũng mộtchí sĩ quốc đương thời. Khi MạnhDựctiên sinh khắp các nơi đất Trung Quốc, đâu đâucũng có ông cùng, anh emtha hương nơigóc bể chân trời gió mưacayđắng. Lúc thì cùng nhau lênthápQuan Âm ở Dương, nhìn vể nam nước cũ nhỏ bâu. Cũng có khi lên núiThái Bình ở Hương Cảngtrôngxuốngbiển mà khóc, cùng cảnh ngộ mà phẫn.
Ôi,nước tavào thờiTự Đức nhàvua thì trọng từ chương, bầy tôi thì mong được an toàn, dân chúng thì sợ chuyênchế, nướcchẳng khác nhưmênhư
nhưđiếcnhưkhờ,hoặcvùiđầuchốn khoa danh, hoặc đắmmình nơi ấm, chẳng ai nói đếnviệcyêu nước,cũng chẳng đếnchuyện thời, không
chuyện bấtbình, không chuyệnliêm Vậy mà haianh em ông phiêu bạt hảingoại, gắng sứcvì tổquốc. Cái cao kiến viễn thức và nghị lực hùng tâm kia khiến cho chúng ta ngày hòm nay mỏi khi nghĩ đến thì khôngthểkhông sùng bái ngưỡng
Sau khiMạnh Dựctiên sinh qua đời, Bùi Lạp tiên sinhcũng bện tóc mặc đổ Trung để sống ẩn giấu hải ngoại thường thường cùng những người Anh, người Mỹ đàm luậnviệcthiên hạ. Cũng vì Lạp tiên sinh rất giỏi tiếng Trung nên ông NguyễnTư Giảnthường nhận được tin tức bên ngoài và sách vở,báochí cũng đềunhờvào ôngcả.
Bùi Lạp tiên sinh vì có việc phải Châu Trường, huyện Hợp Phố chưa về được, ông Nguyễn
cólàm một thơcảm hoài
Phát triển tế hội
Đà
CHÚTHÍCH
Bách ưu lợnthảo Liênnhậtvũthanh trung Hoạnhảiđầu tương bạch Thanh sơnmộng không Song tiêu thẩn lục Lôhỏa huyếtquang hổng Hốt ứcchâutrườngkhách Thiênnhai ngọa nhấtbổng Dichnghĩa:
Trăm mối chẳng khác mục Nhiềungày liêntiếpởtrong tiếng mưa Trongchốn quan trường nay đầu sắp bạc
xanhkiagiấc mộng vẫn còn trống không Cây chuối ngoài cửa sổ buổi sáng màuxanhmướt Lửatrong màu đỏ tươinhưmáu
Chợt nhớ đến người khách ở nơi xa
Đang nằm trong mộtchiếc thuyềnnào ở góc trời Ấy cũng vì đau lòng nhớ đến lúc biệt lỵ mà làm
vậy.
Tiên sinh mỗi khi về nước thì liền búi tóc đổi sang y phục nước để tránh tai mắt người đời.
Sau nhiểu năm lao khổ,tậntụyvì nước nên bệnh không khỏi được,chílớnkhôngthực hành, thậtđáng buỗnthay.
chép lịch sử của hai anh em họ Bùi, cũng không được ràng lắm, đợingày sau dò tra cứu sẽtườngthuật naychỉ dùng nhữngviệcđãbiết và lòngthành quốc mà thôi. Biết chỗ người khác chưa biết, làm chỗ người khác chưa làm được ấy chỗ cần phải biểu chương cái mọnđể an hào kiệt bìnhsinh ta sùng bái vậy.
(NguyễnDuy Chínhdịchsangtiếng Tháng 8.2021)
sách này được lẩn, dưới
cái hơi khác.
vàgia bài này, Gia Bùi(1967) con cháu Bùi cư Nam soạn, được ấn
Mậu Thân (1968) ở Gòn.
gia Nguyễn, Tự
Đức, 290, 27.
Năm 1875, Tự Đức sách của Tây
vì cao sách
hiểu, Ty
Hành Nhơn) sao được,
người vua
Đức sách kho, người
sang Tây vé lại lẩn nữa.
lục, 53,6
Những sách đều khéo
đọc, Pháp,
lễ còn kỹ kỹ xảo, đều có
về nước
lên,còn các sách dương
được.Nếu
cao, (dịch 5
quan, quan, 2quan. dịch
7 xong). Vậy sách
cho giữ, sang về
dịch. Vua theo".Trích SunLaichen, "Việc
và lưu Khảo sát Binh lược
(A.476)của Trần Tuấn (Bản
của Chính).
Thường được Luân Thuyền Chiêu Thương Cuộc hay Chiêu Thương Cuộc.
Hoa cục, 3598-3599.
Tríchbài Bùi lượctruyện(NDC)
Việc (qua Trấn Nam
lên Tây Kinh) sang
Hóa Châurói Châu Tân,
lên Kinh) rắc rối vua Hòa lên
nước vẫn mà
bàn cãi chưa được Xem về
với Thanh TựĐức(Bản sắp bản
của Chính).
lục, (bản Viện học) (Hà Nội: Giáo Dục, 2018), 252, 323, 324.
Phát triển tê hội
Da
gia Châubản Nguyễn,
Đức, 286, (bản Hải
lại, BùiViện trước dương làm
ở Thương cơ nằm
Thương Viện (cơ với nước
Bộ Giao), sau về Chánh
Quản hay văn ban) Nha Tuần
Tuần Dương củaThương
Ty vàThương Việnnên người sau đã lẫn hai chứcvụ,
hai này.Thương Viện có
cứu, có
làm ở có
ngữ. này, đượcvua Đức
sang Hoa cứuvề cải cách.
cáo của Trương Lưỡng
gửi lên Chương 23 Hai
Nhâm Ngọ, Đức 35), [tức 1882] nhà
đã gửi Thương Cuộc Châu
Đường Canh với đại Mã Phục Bôn
Hóa lấy coi chở
lúa
vua Đức và sắp
với người Pháp âm mưu
Xem với Thanh
Đức(Bản sắp của Chính).
Xuyên, mây
được tức nước ta, hậu
bao Thục Việt
xảy Chi này BùiViện
Mậu Dẩn (1878), 31.
lâo và ban
Trương Lương sách,
thứ) vể và cổ của
Hoa. Khi đá ẩn
này Công.
Nguyên hay dương chữ Giáo
cái ban ám chí.
Nói vể "kê cân" Quốc,ý vương tội".
Đời Hán vua Trương
mã ngựa ở Tây Vực mã có
khăn.
Lượng Ưngđài có lànơi của
ưng. sauám nơi săn
bắn của Kinh.
Thai Dương ThaiDương nhân,
với ra của
làng Thai Dương hưng, sau, Thai
Dương ba Thai Dương Thượng, Thai Dương
Hạ vàThai Dương Hạ
Thai Dương được các
thần". Thai Dương
có ThaiDương miếu, lạc Thai
Dương hạ hạ cách ThuậnAn (xây
dưới TựĐức, nơi của vua
khi vua về cửa An) 50 m.
này vẫn và được địa
Di cấp
LàngThaiDương Hạ
An, nay An, Phú Vang.
01.7.2021, An được sáp
Huế, sau đượcmở địa lên
4 lần, số 1264/NQ-UBTVQH14
27.4.2021 của ban Thường nước CHXHCN Nam
có lẽ cát",ám vực của
làng Thai Dương nơinày
nơisầmuất, Thuận An cung,Thai Dương miếu, Âm
và cơ các
An của các vua Cách
này Trấn sau
vệ An vua Gia (1802 - 1820) xây
dựng, vua cấp
cố với lớn,
Thiên bà ở ám ThaiDương
được Thai Dương.
phả Bùi BùiLạp cướp
BùiViện mộ) sang của
sang Tàu bị lại được
nên Bùi Lạp lưu lại Châu Gia
họ Bùi(1967), 45.Tuy BùiLạpcòn
qua lại Hoa lấnnên lẽ
Cuối Đức, nướcta
có lạc ở Châu, hẳn
có số và
lưu
nước kỷ XIX liên
này.
Việc vàcác sáchkỹ
của
Triéu người sang các nước tập.
phả Bùi BùiLạp 27
ở TưGiản(Thượng
Lại), hài về Trình Phố an Gia họ