Bền vững kinh tế trong du lịch:
Khoảng trống nghiên cứu
Trần Phương Thảo
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội
Tác động của đạidịch COVID-19 đã đặt ra câu hỏi vềsự bền vững của ngànhdu lịch. Để thảo luận về tất cả cáckhíacạnh của phát triểnbền vững trong du lịch đòi hỏi những nghiên cứu kỹ lưỡngvà phức tạp, đòi hỏi khắt khe vànằm ngoàiphạmvi của một bài báo. Mặt khác, mặc dù đã có nhiều nghiên cứu vềdulịch hền vững,nhưng khía cạnhbền vững kinh tế của du lịch vẫn chưa nhận được sựquantâm đầy đủ. Vì vậy, mục tiêu của bài báo nàylà tổng hợp và đánhgiákháiquát vềthực trạng nghiên cứuliênquantới tính bền vững kinh tếtrong phát triển du lịch bền vững.
1. Du lịch và pháttriển bềnvững
Để hiểu du lịch bền vững,trước hết cần quaytrở lai làm rõ khái niệmcơ bảnlà phát triển bềnvững.
Thuật ngữ nàythường được sử dụng để mô tả sự phát triển đáp ứng nhu cầu hiện tại của con người mà không ảnh hưởng đến khảnăng đáp ứng nhu cầu của thế hệ tương lai (Swarbrooke, 1999, trang 3;
World Commission on Environment and Development, 1987). Khái niệm về tính bền vững nhấn mạnh mối quan hệ củamôitrường, con người và hệ thốngkinh tế (Swarbrooke, 1999, trang3), tạo thành ba khía cạnh của phát triển bền vững. Đó là kinh tế, xãhội và môi trường.Sựcânbằnggiữa các khía cạnhnàyphải được thiết lập để đạt đượcphát triển bền vững (UNEP và UNWT0, 2005, trang 9).
Trong những năm gần đây, một khía cạnh thứ tư dãn được chấp nhận trong khái niệm về tính bền vững, đó là thể chế hay quyết định chính trị (Puhakka, Sarkki, Cottrell, & Siikamaki, 2009;
United Nations Environment Programme, 2011;
Cerný,Cerná,& Linda, 2014).
Dựa trên khái niệm chung, nlìiều ngành và lĩnh vụcđã cố gắngphát triển khung lýthuyết riêng về tính bền vững, vídụ nhưkiến trúc, nông nghiệp, v.v.
(Hunter, 2002). Thuật ngữ du lịch bền vững hiện đahg được sử dụng rộng rãi xuất hiện vào những nă n 1990. Theo Chương trình Môi trườngcủa Liên hợp quốcvà Tổ chức Du lịch Thế giới, du lịch bền vữhgcó thể được định nghĩa là "du lịch có tính đến đầy đủ các tác động kinhtế,xã hội vàmôi trường ở hiện tại và tương lai, giải quyết nhu cầu của du khách, ngànhcông nghiệp, môi trườngvà cộng đồng dial
niệ
phương "(2005, trang 12). Tương tự như khái jhi phát triển bền vững, du lịch bền vững được hình thành bởi ba trụ cột phụ thuộc lẫn nhau, bao gồri: (1) môitrườngtự nhiênvànhântạo; (2) cộng đồngvàđiềukiệnkinhtế củacáccông ty; và (3) các
khía cạnh xã hội (tức tác động của du lịch tới nền văn hóa địa phương, khách dulịchvà những người làm việc trong lĩnh vực này) (Swarbrooke, 1999).
Mối liên hệ giữa du lịch vàcáctrụ cột của sự bền vững rất mật thiếtnhưng cũng phứctạp. Một mặt, du lịch có thể tạo ra những tác động tích cực đến nền kinh tế và đời sống của địa phương, chẳng hạn như tăng thu nhập và việc làm ở điểm đến, đồng thời mang lại những táchại đốivới môi trường mà chúng ta phải trả giá đắt mới có thể cảithiện, phục hồiđược. Mặt khác, du lịchcó thểtạo độnglực cho chính phủvà người dânđịa phươngtrong việc bảo vệ môitrường do giátrị kinh tế mà ngành mang lại, đặcbiệt là ởcác nước đang phát triển(Swarbrooke, 1999, trang 53). Mụctiêu của phát triểndu lịch bền vững là giảm thiểu các tác động tiêu cực đến môi trường đồng thời bảo tôn các lợi thếkinh tế và xã hội của sự phát triển đó (Office for National Statistics, 2011). Điều quan trọng là phải nhận ra rằng du lịch bền vững không phải là một trạng thái hữuhạn màlà một quá trìnhcải tiến liên tục (UNEP và UNWT0, 2005, trang 12). Dù vậy, du lịch bền vững cũng ngày một trở nên phức tạp hơn do số lượng cácbên liênquanngày càng tăng và lợi ích họ theo đuổi thường đa dạng và khác nhau (Qiu và cộng sự, 2019).
2. Bềnvững kinhtế trong du lịch
Khía cạnh kinh tế của tính bền vững liên quan đến sựthỏa mãncủa con ngườiđối với các nhu cầu và mục tiêu vật chất (Marzo-Navarro, Pedraja- Iglesias, & Vinzon, 2015). Dựa trên thảo luận của Mowforth vàMunt(2003), có thể suy ra rằng để đạt đượctính bền vững vềkinhtế trongdulịch, các lợi íchkinh tế phảiđủ để chi trả cho các chi phí do hoạt động du lịch tạo ra và đền bù cho cộng đồng địa phươngmàkhông viphạmcác trụ cột kháccủa tính Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (Tháng 5/ 2022)
37
NGHIÊN CỨU
RESEARCH
bền vững. Một cách định nghĩa khác cho tính bền vững kinh tế trongdu lịch là kháiniệm này hướng tới tối ưu hóa tốcđộ tăng trưởng pháttriển ở mức cóthể quản lý được với việcxem xét đầy đủ cácgiới hạn của môi trường điểm đến (Choi &Turk, 2011).
Mặcdù có ý nghĩa lớn đốivới du lịch, khía cạnh kinhtế của du lịchbền vững vẫn chưa được nghiên cứu thỏa đáng. Hiện vẫn chưa có phương pháp thống nhất để xác định những điều kiện nào cấu thành nên tínhbền vữngbởi đây là mộttrạng thái liên tục và chỉ thấy được trong tương lai (Qiu và cộng sự, 2019). Dùvậy,vẫn có thểdựa trên một số cơ sởđể từ đó xem xét, đánhgiákhíacạnh bền vững kinh tế trong du lịch.
Để du lịch đạt được sự bềnvữngvề kinh tế, trước hết cầnxem xét cácgiá trịkinh tế của ngành. Trên hết,dulịch bền vững phải mang lại hiệu quả kinhtế vì chủ yếu sự phát triển củadu lịch được thúc đẩy bởi các hoạt động kinh doanh (Choi & Turk, 2011;
Dwyer & Spurr, 2010). Tổ chức du lịch thế giới (UNWT0, 2004) đề xuấtbảy khía cạnh về tính bền vững kinh tế, bao gồm: (i) tính thời vụ của du lịch, (ii) mức độ rò rỉ lợi nhuận, (iii) việc làm, (iv) đóng góp củadu lịch vàobảo tồn thiên nhiên, (v) lợi ích kinh tế cộngđồngvà điểm đến du lịch,(vi) du lịch và xóa đói giảm nghèo, và (vii) khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp du lịch. Hội đồng Du lịch bền vữngtoàn cău (GlobalSustainable Tourism Council) trong bộ tiêu chí đánhgiá du lịch bền vững mới nhất năm 2019 có đưa ra tiêu chí kinh tế - xã hội bền vững. Cụ thể, du lịch bền vững cầnđem lại lợi ích kinh tếcho địa phương,thể hiện ở khíacạnh đóng góp kinh tế của ngành, đóng góp vào việc làm thỏa đáng và cơ hội nghề nghiệp, hỗ trợ những người khởi nghiệpvàthương mại công bằng ở địa phương.
Đâylà những tác động cơ bản của mộtngành đối với nềnkinhtế, thể hiệncác giá trị kinhtếcủa ngành.
Mặt khác, sự hỗ trự của cộng đồng địa phương đối với du lịch cũng là một tiêu chí quan trọng để đánh giá tính bền vững kinh tế. Thứ nhất,cộng đồng địaphương làbên liênquanquan trọng vì pháttriển du lịch chỉ được chấp nhận nếu nó cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân ở điểm đến (Andriotis & Vaughan, 2003; Jurowski & Gursoy, 2004). Thứ hai, du lịch làmột ngành phụ thuộc rất nhiều vàosự tham gia và hỗ trự của người dân địa phương. Cộng đồng địa phương cũng là nguồn lao động vànhà cung cấpdịchvụ chính tại địa điểm du lịch. Vìvậy, du lịchcần được phát triểnphùhợp với nhu cầu và mong đợi của người dân địa phương (Pham, 2012). Để du lịch phát triển bền vững, cần nhận được sự ủng hộ và thái độ thuậnlợicủacộng đồng địa phương.
Cuối cùng, mức độ ô nhiễm của môi trường địa phươnglà một tiêu chí quan trọng khác để đánh giá tính bền vững kinh tế trong du lịch. Không giống như cácngành khác, du lịch có mối quan hệtrực tiếp với môi trường. Du lịch tận dụng lợi thế của môi trường và trong phần lớn trường hợp, tài nguyên thiên nhiên của điểm đến là nguồnthu hút mạnh mẽ khách du lịch (Swarbrooke, 1999). Nói cách khác, nếu không có môi trường thuận lợi (cả tự nhiênvà nhân tạo) thìhoạtđộngdu lịch khôngkhả thi. Đâycũng là lý do chính khiến du lịch phải bảo vệ môi trường địa phương. Tuy nhiên, một số nghiên cứu lại cho rằng để tối đa hóa lợi nhuận nhanh chóng, cần phải hy sinh tính bền vững của môi trường, với ví dụ điển hình là phát triển dulịch ven biển mang lại những tác độngtiêu cực đến điểm du lịch khi chỉ hướng tới mục tiêu lợi ích ngắn hạn (Cater, 1995). Mặc dù vậy, phải khẳng định rằng kinh tễkhông thểtách rời các vấn đề môi trường (Crabbé, 1998) và du lịch phải bảo vệ môi trường.
Suy thoái môi trường làm giảm phát triển du lịch, ảnh hưởngđến các điều kiện kinh tếvà xã hội của cộng đồng địa phương (Creaco & Querini, 2003).
Điều này sẽlàm mất đi sự quan tâmvà động cơ để bảo tồn và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường (Creaco & Querini, 2003; Swarbrooke, 1999), gây trở ngại lớn cho việc phụchồiphát triển dulịch. Cuốicùng, ngành dulịch ở những điểmđến như vậy sẽ phảiđối mặtvới những hậuquảtiêu cực cả về kinh tế và môi trường, và chắc chắn làsự phát triển khôngbền vững.
3. Khoảngtrống nghiên cứu
Theo đánh giácủa Qiu vàcộngsự(2019), cóbốn vấn đề chính trong nghiên cứu về dulịch bền vững và tính bền vững kinh tế củadulịch. Thứ nhất,hiện nay vẫncònrấtít nghiên cứu tập trung vàocác khía cạnh kinhtếcủa du lịch bền vững, dođó chưa có sự thốngnhất về bảnchấtkhái niệm cũng như các yểu tố chính tác động lên nó. Thứ hai, nghiên cứu hiện nay chủ yếu tập trung vào các chỉ tiêu kháchquan ở cấpvĩmô đểđo lường tính bền vữngkinhtế trong du lịch. Các tiêu chí cấp vi mô chủ quan khác liên quan tới nhận thức của các bên liên quan ở địa phương như lợi ích kinh tế của các cá nhân và kiểm soát phát triển du lịch có xu hướng bị bỏ qua. Thứ ba, mặc dùđã có nhiều nghiên cứu được thực hiện vềthái độ của người dân đốivớidu lịch, nhưng chỉ một sốítđứng từgóc độ phát triển bền vững để hiểu được thái độ của ngườidân đối với du lịch.Thứ tư, mặc dù các khái niệm tươngứng về tác động kinh tế vàtính bền vững kinh tế có liên quan chặt chẽ với nhau, nhưng rất ít nghiên cứucóthểlồng ghépkết quả của các tácđộng kinh tế vào việc đánh giátính
38
Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (Tháng 5/ 2022)bềnvữngkinh tế.
Bêncạnh đó, phải thừanhận rằng do tính chấtđa chiều và phức tạp của khái niệm du lịch bền vững nói chung và bền vững kinh tế nói riêng, việc xây dựng một hệ thống chỉ tiêu để đánh giá khía cạnh bền vững kinhtếtồn tại nhiều tháchthức. Chìa khóa ở đây là phải duy trì sự cân bằng giữa nhucàu tạo ra các chỉ tiêu đại diện cho các hiện tượng liên quan đến tính bền vữngvớiviệcđảm bảo các chỉ tiêu phải đơn giản và dễ áp dụng (Heidak & Raszka, 2013).
Hơn thế,không dễ đểxác định cáctiêu chí đánh giá Ỉh bền vững kinh tế một cách riêng biệt do mối rỉ quanmật thiết của tất cảcác trụ cột của tính bền ngvà bản chất phứctạp củakhái niệm bền vững, iđồng Du lịch bền vững toàn cầu đã xây dựng và a tục cập nhật bộ tiêu chí đánh giá du lịch bền vựng trong nhiều năm qua. Đến nay, đây có thể coi là bênđưa ra bộ tiêu chí đánhgiá trọn vẹn nhất,khi đưa ratiêu chuẩn quốc tế cho du lịch bền vữngcho sáu nhóm đối tượng, từ phía khách sạn, tổ chức tour, người du lịch, tới địađiểm đến.
Hiện nay, ở ViệtNam vẫnchưacó một bộtiêu chí chính thốngđểđánh giá tính bềnvữngtrong du lịch nói chung và bền vữngkinh tế của ngànhnói riêng.
Theo UNWT0 (2004), các chỉ số, tiêuchí là cácthước đo| về sự tồntại hoặc mứcđộnghiêm trọng của các vấn đề hiện tại,cáctínhiệu về các tình huống hoặc vấn đề sắp xảy ra, thướcđovề rủi rovà nhucầu hành động, vàcácphương tiện để xác định vàđo lường kết quậ của các hành độngcủa chúng ta. Việc xây dựng và áp dụng bộ tiêu chí sẽ giúp chính phủ cập nhật tình hình và kịpthời điều chỉnh chiến lượccho phát triểnbền vững. Bộtiêu chícũng cungcấp thôngtin có giátrị đểraquyết địnhtốt hơnvàgiảmnhữngsai lầm trong việc lập kế hoạch. Hơn nữa, khu vực tư nhân cũng cần được khuyến khích sửdụng chỉ báo để giám sátcác hoạt động củahọ. Điều này sẽ giúp họ theo dõicác vấn đề của họvà xác định các hành động cần thiếtđểtuân theo các chính sách phát triểnbền vữrig của cơ quan có thẩm quyền. Do đó, Việt Nam cầncân nhắc sớm đưa ra bộ tiêu chíchuẩn cho vấn đề du lịch bền vững và bền vững kinh tế để định hướng và chỉ dẫn các bên liên quan trongviệc xây dựng và đồng bộ hóa các hoạtđộng du lịch và hỗ trợ du lịchởcả cấp vĩmô và vi mô.
4. Kếtluận
Du lịch bền vững nói chung và tính bền vững kinh tếcủangành nói riênglàchủ đề rấtđược quan tâm do ý nghĩacủa du lịch đối với kinhtế một quốc gia. Tuy nhiên, cho tới nay, vẫn còn nhiều khoảng trống trong nghiên cứu những khái niệm này. Các nghiên cứu sau cóthể dựavàogợiý này để củngcố và bộ sung thêm cho cơ sởlý thuyết của khái niệm
du lịch bền vững vàbền vững kinh tế trong du lịch.
Là một ngànhcó tính liênkết cao,tối đa hóa giá trị du lịch nhưng vẫn đảm bảo tính bền vững của ngành là một nhiệm vụ khókhăn, đòihỏi chúng ta phải có cácchương trình chính sách đồng bộ và toàn diện. Sau hai nămbị ảnhhưởngcủa dịchCOVID-19, ngành du lịch của Việt Nam nói riêngvà của thếgiới nói chung đã bị ảnh hưởngnặngnề. Hiện nay,tình hình dịch bệnh đã có dấu hiệu ổn định,mọi ngành nghề đang trênđàphục hồi trở lại. Du lịch cũngbắt đầu có những dấu hiệu khởi sắc. Đểdu lịchtiếp tục mang lại giá trị kinh tế sau đại dịch, cần đảm bảo hoạt động của ngành phải bền vững trong bối cảnh mới.Điều này đặtra cho chính phủ,địa phương và các bên liên quan củangành du lịch áp lực phảiliên tục cải thiện môi trường kinh doanhvà hoạt động của ngành du lịch. Việc xây dựng bộ tiêu chí đánh giá, định hướng cho du lịch bền vững là vấn đề cấp thiếthiện nay đối với Việt Nam./.
Tàiliệu tham khảo
Andriotis, K., and R. D. Vaughan. "Urban resi dents’ attitudes towardtourism development: The caseofCrete ." Journal of Travel Research42, no. 2 (2003): 172-185.
Cater, E. "Environmental contradictions in sus
tainable tourism ." Geographical Journal 16, no. 1 (1995): 21-28.
Creaco, Salvo, and Giulio Querini. "The role of tourism in sustainable economic development."
ERSA conference. European Regional Science Association, 2003.
Mai Anh Vũ, Hà Thị BíchHạnh.Xây dựng bộ tiêu chí đánh giá phát triển bền vững du lịch. Tạp chí Công Thương, Số 1, tháng 1 năm 2022.
Pham, H.L. "Tourism Impacts and Support for Tourism Development in Ha LongBay, Vietnam: An Examination of Residents’ Perceptions." Asian SocialScience 8, no. 8 (2012).
Puhakka, R., s. Sarkki, s.p. Cottrell, and p.
Siikamaki. "Local discourses and international ini tiatives: Sociocultural sustainability of tourism in Oulanka National Park, Finland." Journal of Sustainable Tourism 17, no. 5 (2009): 529-549.
The United Nations World Tourism Organization.
(2004). Indicators of sustainable development for tourism destinations. Madrid,Spain: Author.
Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (Tháng 5/ 2022)