• Tidak ada hasil yang ditemukan

cải cách hành chính theo mô hình quản trị công mói

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "cải cách hành chính theo mô hình quản trị công mói"

Copied!
5
0
0

Teks penuh

(1)

RATHE

CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH THEO MÔ HÌNH

QUẢN TRỊ CÔNG MÓI Ờ MỘT số QUỐC GIA CHÂU Á

NGUYỄN HOÀNG ANH (

*

)

(*) PGS. TS; Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội

Tóm tắt: Các quốc gia phát triểnchâu Á đang triển khai cải cách hành chính theo hình quản trị công mới nhằm đạt được hiệuquả cao hơn trong cải cách hành chính công. Kinh nghiệm của các quốc gia này thể những gợi mở hữu ích đốivới Việt Nam trong bối cảnh triểnkhai thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giaiđoạn 2021-2030 theo Nghị quyếtsố 76/NQ-CP.

Từ khóa: Cải cách hành chỉnh; châu Ả; hình; quản trị công mới.

Abstract: Developed countries in Asia are implementing administrative reforms under new public governance models to achieve greater efficiency in public administration reform.

The experiences of these countries can be useful implications for Vietnam in the context of implementing the Master Program on StateAdministration Reform for 2021-2030 periodunder Resolution No. 76/NQ-CP.

Keywords: Administrative reform;Asia;model; new public administration.

Ngàynhận bài: 10/4/2022 Ngàybiên tập: 22/4/2022 Ngày duyệt đăng: 15/5/2022

K

háidạng nhưng nhấn niệm cụ thể quảncủa “quảnmạnh trị công hơn vào cách trịmới” nhà nước một

tiếp cận kiểu doanh nghiệp, tức đề cao hiệu quả, giá trị kinh tế của hoạt động quản

trị; nhấn mạnh vể mục đích mục tiêu, do mượn ý tưởng hình quản từ khu vực tư, trong đó công dân khách hàng(1). Đây cụm từ nhóm các nước OECD sử dụng trong quá trình thực hiện chương trình cải cách của những năm 1970 những người đưara ý tưởng này là Thủ tướng Anh Margaret Thatcher Tổng thống Mỹ Ronald Reagan, được bổ sung phát triển trong những thập niên tiếp theo.

Quản trị công mới (New Public Management-NPM) ra đời từ các quốc gia Anglo-saxons dần được áp dụng rộng rãi các quốc gia thuộcTổchức hợp tác Phát triển kinh tế (OECD). Tuy nhiên, nhiều học

giả khẳng định việc du nhập các nguyên tắc của NPM thể làm tăng thêm tính phức tạp trong bối cảnh các quốc gia đang phát triển;

đồng thời đưa racảnh báo việc áp dụng NPM ở những nướcthiếu vắng nền hành chính hoạt động dựa trên các quy tắc hệ thống pháp vững chắc, thể dẫn đến những tổn hại nhiều hơn là lợi ích(2).

1. Đặc thù của cảicách hành chính theo hình quản trị công mớimột số quốc gia châu Á

1.1. Áp dụng quản trị công mới vớimục tiêu kinh tế nhiều hơn mục tiêu cải thiện chứcnăng nhà nước

Tinh thần cốt lõi của NPM tăng hiệu quả quản trị nhà nước, thông qua việc tự do hóathị trường, kể cả khu vực công và huy động rộng rãi nguồn lực tư. Vì vậy, NPM gắn liền với quan niệm chức năng của nhà nước bị giới hạn trong việc cung cấp dịch vụ công, duy trìtrật tự công cộng, bảo vệ môi trường(3). Các quốc gia châu Âu, châu Mỹ thường bàn đến khái niệm “Nhà nước nhỏ, hội lớn khi áp dụng NPM. Tuy nhiên, khi được

TỔ CHỨC NHÀ Niróc sôí 5/2022 75

(2)

NHÌN RA THÊ GIỚI

ứng dụng các quốc gia đang phát triển, NPM lại nhằm vào mục tiêu tạo điều kiện cho sự tham gia của khuvựcnhân vào kinh tế và cải thiện đầu tư nước ngoài, chứ không đơn thuần chỉ giảm thiểu chức năng nhà nước (theo kiểu nhà nước nhỏ, xã hội lớn)<4>.

Từ đó, một số học giả cho rằng những cải biến trong hình quản trị công mới, nếu được áp dụng các quốc gia đang pháttriển vẻ đặc biệt nhạy cảm về chính trị(5). Bởi vậy, chính trị mộttrong các yếu tố chi phối thành công của cải cách quản trị công mới các quốc gia châu Á.

1.2. Các yếutốchi phối cải cáchquản trị công cácquốc gia châuÁ

Theo các tác giả Lee & Haque, nếu như cải cách NPM ở các nước phương Tây bị ảnh hưởng đáng kể bởi bốn yếu tố: hệ thống chính trị, đảng phái, nền kinh tế truyền thống hành chính nhà nước, thì các quốc gia Nam Á, Đông Nam Á, cần bổ sung thêm hai yếu tố mới, đó ảnh hưởng của các tổ chức phát triển quốc tế tình trạng phát triển của cáctổ chức hội trong quốc gia(6). Tất cả các yếu tố kể trên có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm việc ứng dụng NPM.

Về phương diện chính trị: phần lớn là các thuộc địacũ, các quốc gia châu Ákế thừa một hệ thống hành chính tập trung thứ bậc. về kinh tế, nền kinh tế pha trộn, được hỗ trợ bởi một khu vực công mạnh mẽ, khu vực nhân còn kém phát triển. Trong bối cảnh văn hóa chính trị của các quốc gia châu Á, thể chế chính trị là một yếu tô' bản nhất, quyết định bản chất của cải cách NPMkết quả của việc áp dụng NPM các quốc gia. Cam kếtcủa giới lãnh đạo chính trị, cácthể chế do quyền lực chính trị tạo ra những cải cách áp dụng; sở hạ tầng chiến lược ảnh hưởng trực tiếp đến việc áp dụng NPM.

Năng lực thể chế là điều kiện tiên quyết cho bất kỳ hình thức cải cách khu vực công nào. Đối với cácquốc gia đang phát triển, các tổ chức quốc tế đóng vai trò hỗ trợ bản cho các cải cách thểchế tổ chức, thể hiện quaviệccung cấp các khuyến nghị cũng như hỗ trợ tài chính và kỹ thuật để thực hiện các cải cách cần thiết. Các tổ chức phát triển, khi cung cấp viện trợ thường yêu cầu các nước

hiện đại hóa quản trị của mình, nóicách khác cần “quản trị tốt để sử dụng hiệu quả sự phát triển hỗ trợ. Các biện pháp đề xuất cho “quản trị tốt hàm chứa một số ý tưởng về NPM nhưtrách nhiệm hoặc “phân cấp, những ý tưởng này theo Osamu Koike cho rằng: thậm chí vẻ như không dễ thích nghi ngaycả đốivới các nướctiên tiến(7>.

2. Thực trạng áp dụng quản trị công mổi tại một sốquốc gia châu Á

2.1. TạiSingapore

Với đặc thù một quốc gia hiện đại, sự thịnh vượng của Singapore được giải từ sự kết hợp của hoàn cảnh lịch sử, chính trị, kinh tế - hội hiệu quả của hệ thống quản công. Chính phủ nước này đã thiết kế các chínhsách kinhtếmởcửa để biếnSingapore - vốn được coi như một nơi tập kết hàng hóa trở thành một khu vực kinh tế tư nhân sôi động. Giới lãnh đạo chính trị Singapore đã những nỗ lực lớn trong việc liên tụcđưa ra các giải pháp để hiện đại hóa đất nước.Trong đó, nhấn mạnh giáo dục nền tảng văn hóa, hội ủng hộ các giá trị Nho giáo bản.

- Về phương diện chính trị - lịch sử:

Singapore tách khỏi Liên bang Malaysia vào năm 1965. Chính phủ do Đảng hành động nhân dân (PAP) lãnh đạo ủng hộ nền văn hóa tôn trọng chính quyền, hướng vào cộng đồng sử dụng đồng thuận thay vì xung đột;

thực hành các quan niệm thiết yếu của nền dân chủ phương Tây, như bầu cử quốc hội phổ thông. Trong thời gian này, Thủ tướng Lee Kuan Yew đã đưa ra những cải cách nhằm tạo ra các thể chế hiệu quả để đạt được thành công chính trị tăngtrưởng kinh tế bển vững. Các nhà lãnh đạo PAP đã phải tính đến các yếu tố về hội và an sinh hội nhằm đạt tới các mục tiêu kinh tế.

- Về sở kinh tế:đặc trưng các chính sách kinh tế mạnh mẽ hướng đến thu hút đầu nước ngoài mứcđộ canthiệp cao của Chính phủ. Các sáng kiến cải cách luôn được cộng đồng doanh nghiệp nước ngoài của nước này ủng hộ; qua đó giúp cho Singapore được coi hình mẫu thành công của một hìnhchính phủ kiến tạo phát triển châu Á.

Singapore bắt đầu thử nghiệm các sáng kiến NPM từ đầu những năm 1980 khi đưa ra mục

76 Tổ CHÚC NHÀ Nlróc sô 5/2022

(3)

NHÌN RA THÊ GIÓI

tiêu ngân sách hiệu suất, cũng như các chỉ số hiệu suất như: khối lượng sản phẩm (số lần kiểm tra được thực hiện, mẫu được kiểm tra), chất lượng sản phẩm (độ chính xác, sự hài lòng của khách hàng), hiệu quả (tỷ lệ thu hồi chi phínăng suất lao động).

- Về nền công vọ: từ năm 1995, Singapore đã phát động sáng kiến “Dịch vụ công cho thế kỷ XXI (PS21) nhằm tạo ra một nền văn hóa công vụ tốt cải tiến liên tục. Để tuyển dụng các công chức tốt nhất cho khu vực công, Chính phủ đã đầu các học bổng đặc biệt cấp đại học. Theo các học giả nước ngoài thì ý tưởng này phù hợp với nguyên tắc của

chế độ công trạng” - một triết dựa trên đó nền công vụ của Chính phủ Singapore vận hành(8>. Chế độ công vụ được thúc đẩy bởi mục tiêu tuyển chọn sử dụng những công chức tinh hoa nhấttrả những mức lưong công chức cao nhất thế giới, như lương của Thủ tướng Singapore khoảng 3,1 triệu đôla Singapore/năm (cao gấp 5 lần của tổng thống Mỹ 400.000 đôla Mỹ/năm). Việc chấp nhận chi trả lương công chức cạnh tranh một lựa chọn chiến lược của các lãnh đạo cao nhất Singapore trong nhiều thập niên qua(9).

- Về nhân hóa: một sô' dịch vụ công cộng vốn từng được đảm nhiệm bởi nhà nước được chuyển đổithành các công ty, từ đó áp dụng các phương thức quản từ khu vực tư nhân. Chính phủ Singapore đã xử hài hòa việc hợp tác công định hướng kinhtế của nhà nước; kết hợp giữa các nguyên tắc, tiêu chí của NPM, nhưtính linh hoạt, hiệu suất kết quả, với “mô hình dân chủ giám hộ<10). Một số học giả đánh giá, Singapore đã sử dụng các cải cách NPM như tập trung vào hiệu suất trách nhiệm

để đối phó với các phản ứng hội ngày càng tăng trong đòi hỏi về nhà nước và đòi hỏi sự tham gia chính trị rộng rãi hơn... Theo nghĩa này, cải cách NPM dường như là một sự thay thế cho cải cách chính trị(11).

2.2. Tại NhậtBản

Để đối phó với những chỉ trích của nước ngoài về thị trường do những hạn chế không công bằng với doanh nghiệp vốn nước ngoài, vào năm 1981, Nhật Bản thành lập ủy ban cải cách hành chính để “tái cấu trúc

tài chính chính phủ không cần tăng thuế để chuẩn bị cho thời đại toàn cầu hóa. Ý tưởng về một chính phủ kiểu doanh nghiệp đã được hình thành. Tuy nhiên, các cuộc cải cách hành chính chỉthực sự diễn ra vào cuối những năm 1990. Hội đồng cải cách hành chính được thành lập do Thủ tướng làm Chủ tịch, Hội đồng thông qua ý tưởng về quản trị công mới đề xuất các biện pháp như: 1) Thành lập văn phòng nội các; 2) Tổ chức lại các bộ, ngành; 3) Chuyển đổi các quan quốc gia sang quan hành chính độc lập;

4) Bổ nhiệm các thứ trưởng trong mỗi bộ; 5) Phân quyền; 6) Cải cách công vụ.

Bên cạnhđó, Hội đồng nghiêncứuvề hệ thống công vụ đã đệ trình báo cáo cải cách hệ thống công vụ quốc gia, đề xuất chương trình cải cách như sau: sửa đổi hệ thống thi tuyển; giới thiệu nguyên tắc trả công; thiết lập đạo đức công vụ; gia hạn tuổi nghỉ hưu;

xúc tiến trao đổi nhân sự ở khu vực công khu vực tư. Qua đó, các nhà lãnh đạo Nhật Bản đã áp dụng NPM một cách tích cực.

Tuy Nhật Bản đang trong giai đoạn chuyển tiếp từ một nhà nước quan liêu truyền thống sang quản trị theo định hướng khách hàng, song triển vọng về cải cách hành chính vẫn chưa chắc chắn(12>.

2.3. Tại Malaysia

Malaysia đã phát triển một hệ thống công vụ dịch vụ công phù họpvới các mục tiêu chính của quốc gia là sự ổn định kinh tế phát triển công nghiệp; hệ thống công vụ đã những cải tiến mạnh mẽ. Đó là, chú trọng các giảipháp tăng cường hiệu quảcông vụ: các biện pháp cải cách được thực hiện, với khái niệm “Malaysia Incorporated” (trong tiếng Anh, cụm từ “incorporated” nghĩa tập đoàn, liên hợp các công ty cùng hợp tác làmviệc,hoặc để chỉmộtnhóm công ty thuộc quyền sở hữu của một tập đoàn lớn) nhằm tăng cường năng lựcchuyên môn củadịch vụ công phát triển sự lãnh đạo hành chính.

Các nguồn lực đáng kể đã được dành cho việc cải thiện năng lực hiệu quả của hệ thống giáo dục đào tạo; sự tham gia của khu vực tư nhân được khuyến khích; chính sáchchương trình của Chính phủ được thiết kế theo hướng linh hoạt thực tế.

TỐ CHỨC NHÀ Niróc so 5/2022 77

(4)

NHÌN RA THÊ GIỚI

Để nâng cao hiệu quả, Bộ phận quản năng suất đã được thành lập vào cuối những năm 1980 để giám sátcác quan chính phủ theo dõi chất lượng dịch vụ công; Hướng dẫn về chu trình kiểm soát chất lượng (QCC) được thông qua để giúp Chínhphủ quy định cụ thể vềtiêu chuẩn đánh giáchấtlượng. Những sáng kiến này đã hìnhthành văn hóa đổi mới, năng suất khuyến khích sự tham gia. Kết quả là nhiều doanh nghiệp công cộng được nhân hóa hoặc chuyển đổi thành các công ty; Chính phủ đã rà soát các quy trình hành chính giảm số lượngquan hành chính, nhờ đó quy nền công vụ giảm đáng kể.

Kế hoạch tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước với mụctiêu nâng cao chất lượng giảm sự tham gia của nhà nước vào kinh tế do Chính phủ ban hành năm 2004 đã đạt được kết quả tích cực, tạo điều kiện cho nhân tham gia các hoạt động kiến tạo phát triển, tạo ra các hội việc làm và thiết lập sự hòa hợp dân tộc thông qua hội nhập của người dân tộc Laivào các hoạt động kinh tế chính thống.

2.4. TạiBangladesh

Cải cách công vụ Bangladesh thể chia thành bốn giaiđoạn riêng biệt. Giai đoạn từ năm 1971 đến năm 1975 trọngtâm chính cải cách chính trị và táicấu trúc hành chính để tạo ra một khung quản công thống nhất của quốc gia. Giai đoạn 1976-1981 bắt đầu phi quốc hữu hóa các tổ chức khu vực công tạo racác tổchức công - bánnhân. Giai đoạn từ năm 1982 đến năm 1990, thực hiện chính sách nhân hóa tự do hóa, khuyến khích các hoạt động quản công kiểu mới.

Giai đoạn từ năm 1991 đến nay đánh dấu bằng sự ra đờicủanền dânchủ nghị viện, tạo nền tảng chính trị - hành chính có lợi choviệc áp dụng NPM... dẫn đến sự thay đổi bản trong quản công, trong đó mô hình quản mới chủ yếu dựa trên các nguyên tắc như thị trường tự do, nhà nước nhỏ và tăng lựa chọn nhân. Tuy nhiên, việc chính trị hóa hệ thống công vụ đã không mang lạihiệu quả trong cải cách nền công vụ Bangladesh.

3. Đánh giá chung bàihọc kinh nghiệm 3.1. Đánh giá chung

các quốc gia ở châu Á, lịch sử chính trị, đảng phái, các yếu tố kinh tế mô,

truyền thống nhà nước, vai trò của các quan phát triển quốc tế sự phát triển của các tổ chức hội ảnh hưởng sâu sắc đến kết quả của việc áp dụng hình quản trị công. Cùng áp dụng chung hình NPM, nhưng nếu ở Singapore, Malaysia Nhật Bản đã xây dựng được hệ thống quản trị quốc gia hoạt động hiệu quả, trách nhiệm; thì cải cách NPM Bangladesh lại dẫn đến một nền dịch vụ công thiếu trách nhiệm không hiệu quả.

3.2. Bài học kinh nghiệm

Một là, cácyếu tốquyết định thành công của cải cách quản trị công mới ở các quốc gia châu Á.

thể thấy, yếu tố quan trọng nhất dẫn đến thành công của NPM các quốc gia châu Á cam kết chính trị vai trò lãnh đạo mạnh mẽ của người đứng đầu. Các chính sách kinh tế được định hướng tốt sự lãnh đạo chính trị mạnh mẽ đóng một vai trò quan trọng trong thành công này. Mặt khác, sự liên kết công - trong định hướng kinh tế giữ vai trò quan trọng trong cải cách quản trị công. Một số quốc gia không thành công thường được giải từ việc thiếu vắng sự kết hợp giữa các lĩnh vực chính trị, hành chính và nhân trong định hướng kinh tế chung. Sự nhấn mạnh vào những hỗ trợ phi tài chính, đôi khi được xác định bởi lợi ích đảng phái, đã đi ngược lại các mụctiêu chính của cải cách NPM.

Tác động của các tổ chức phát triển quốc tế cũng rất quan trọng. Việc phụ thuộc vào viện trợ nước ngoài đã buộc chính phủ Bangladesh phải thực hiện một số cải cách NPM theo yêu cầu của các tổ chức phát triển quốc tế, song sự bất lực về chính trị và thể chế đã không được tính đến khi sử dụng vốn tài trợ để xây dựng các chương trình cải cách.

Hầu hết các quốc gia châu Á không áp dụng chế độ hợp đồng công vụthời hạn, chuông hình công vụ chức nghiệp. thể nói, cam kết chính trị vai trò của nhóm lãnh đạo chính trị yếu tố ảnh hưởng nhất trong cải cách quản trị công một sô' quốc gia châu Á. Singapore Malaysia được coi trường hợp thành công vì có quyết tâm sự lãnh đạo chính trị mạnh mẽ.

78 Tố CHÚC NHÀ Nlróc sô 5/2022

(5)

NHÌN R A THEGIƠI

Hai là, các tiêu chuẩn của quản trị công mới được áp dụng thành côngcác quốc gia châu Á.

Không phải nội dung nào của NPM đều thể được áp dụng các quốc gia châu Á. Theo Osamu Koike, đối với các quốc gia này thì khó khăn đến từ nguyên tắc minh bạch, chính phủ xu hướng che giấu thông tin thể có lợi cho lực lượng đối lập.

Cũng như vậy, các lãnh đạo chính trị thường e ngại trong việc áp dụng nguyên tắc hiệu quả thông qua nhân hóa các tập đoàn, do đối diện với nỗi sợ thất nghiệp hàng loạt(13).

Nhưng ngược lại, đôi khi những yếu tố mang tính truyền thống và ít nhiều gắn vớinền công vụ thứ bậc - điều tưởng như mâu thuẫn với nội dung của NPM lại có thể vận hành khá tốt khi áp dụng một số quốc gia châu Á.

Kinh nghiệm thành côngtrong phát triển kinh tế một sô' nước châu Á cho thấy việc xây dựng một bộ máy hành chính tinh hoa vốn nguồn gốc từ nền hành chính theo kiểu truyền thống, trọng tinh hoa, thứbậc theo hình công vụ chức nghiệp; thậm chí phải xây dựng được tinh thần danh dự, niềm tự hào bản sắc riêng cho tầng lớp lãnh đạo thượng lưu(14), điển hình trong nền côngvụ truyền thống của Nhật Bản Singapore. Từ đó, thể thấy rằng, quản trị công mới giải pháp ít nhiều hiệu quả đối với tất cả các nước phát triển đang phát triển, nhưng cũng rấtkhó khăn,thậm chí nghĩa trong một sô' trường hợp, nếu áp đặt một sô' biện pháp NPM một quốc gia không quan tâm đến môi trường chính trị ở đó(15)./.

Ghi chú:

(1) Tham khảo: Fiona Donson & Dr Lawrence Siry,Các hình thức chính thể quản trị", Kỷ yếu Hội thảo Các tiêu chuẩn quốc tế và kinh nghiệm về quản trịcông mới-, David OsborneTedGaebler, xem: Đổimới hoạt động của Chính phủ - tinh thần doanh nghiệp đang làm thay đổi khu vực công cộng nhưthế nào, tháng 3/2019, tr.47-48.

(2) Schick 1998, dẫn theo Ramanie Samaratunge, Quamrul Alam etJulian Teicher,

Les ré formes du nouveaumanagementpublic en Asie: comparaison entre plusieurs pays d’Asle du Sud et du Sud-Est, Revue Internationale des Sciences Administratives 2008/1 (Vol.74.;

Osamu Koike, “New Public Management in Japan and Southeast AsianCountries: A Magic Sword forGovernance Reform”.

(3) NgânhàngThê' giới, Báo cáo năm 1997.

(4), (5) Samaratunge et Hughes (2001:

238), trích theo Ramanie Samaratunge, Quảmul Alam et Julian Teicher, Les reformes du nouveau management public en Asie:

comparaison entre plusieurs pays d’Asie du Sud et du Sud-Est, Revue Internationale des Sciences Administratives 2008/ 1 (Vol.74), pages 28.

(6), (10), (11) Lee & Haque, 2006, dẫn theo Ramanie Samaratunge, Quamrul Alam et Julian Teicher, sđd.

(7), (12), (13), (15) Osamu Koike, Ph.D.

Professor of Public Policy and Administration International Graduate School of Social Sciences Yokohama National University, New Public Management in Japan and Southeast Asian Countries: A Magic Sword for Governance Reform? http://unpan1.un.org/

intradoc/groups/public/documents/APCITY/

UNPAN027670.pdf.

(8) Jones (2001: 487) dẫn theo Ramanie Samaratunge, Quamrul Alam et Julian Teicher, Lesreformes du nouveau management public en Asie: comparaison entre plusieurs pays dAsie du Sud et du Sud-Est, Revue Internationale des Sciences Administratives 2008/ 1 (Vol.74), tr.27 tr.50.

(9) Đặng Văn Huấn, Để Việt Nam đột phá - bài học từ sự khôn ngoan của Singapore,

.html.

https://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/de- vn-dot-pha-bai-hoc-tu-su-khon-ngoan-cua- singapore-267331

(14) Johnson 1982: 20, 1995, Evans 1997, Evans/Rauch 1999; Onis 1991: 114 Dẫn theo Peter Meyns and Charity Musamb, Peter Meyns and Charity Musamba: The Developmental State in Africa: Problems and Prospects. Duisburg: Institute for Development and Peace, University of Duisburg#Essen (INEF Report, 101/2010), tr.12.

TÓ CHỨC NHÀ Nlróc sô 5/2022 79

Referensi

Dokumen terkait

Các phương án ứng phó rủi ro tương ứng với mức độ rủi ro và chi phí của từng phương án ứng phó: + Chấp nhận rủi ro ví dụ về biến động giá dầu là một rủi ro đặc thù của ngành dầu khí,

Khái quát về cải cách tòa án ở Việt Nam Ở Việt Nam, đường lối, chính sách cải cách tư pháp nói chung và cải cách tòa án nói riêng được thể hiện qua các Nghị quyết Trung ương của Đảng,

cho Giám đốc về những vấn đề: Phương hướng chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển nhân lực của Công ty; các nội dung chủ yếu, các chỉ tiêu kế hoạch tuyển dụng, đào tạo, các quy

Chính sách của Liên minh Châu Âu nhằm phát triển ngành công nghiệp và kinh tế số trong bối cảnh Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư a Chính sách hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp và

Yêu cầu về một chính đảng Từ thực tế phong trào cách mạng của các nước trên thế giới và những năm hoạt động cùng nhóm Ngũ Long ở Pháp2, Nguyễn An Ninh cho rằng, một dân tộc muốn làm

Ý nghĩa hiện thời của tư tưởng “nhân chính” trong đường lối chính trị của Đảng ta hiện nay Trong sự hội nhập văn hóa Đông - Tây ngày nay, điều chắc chắn là sự phát triển kinh tế của

Việc phát triển du lịch làng nghề đã được nhiều nước Châu Á nghiên cứu và triển khai thành công trên thực tế mang lại nhiều giá trị kinh tế và quảng bá hình ảnh du lịch quốc gia trong

Mục tiêu chung Mục tiêu của chương trình nhằm nâng cao kiến thức, kĩ năng cơ bản về giáo dục STEM, nâng cao năng lực cho giáo viên về phát triển chương trình, thiết kế các chủ đề giáo