• Tidak ada hasil yang ditemukan

BÁO CÁO CA LÂM SÀNG: ÁP DỤNG KỸ THUẬT XÉT NGHIỆM DI TRUYỀN TIỀN LÀM TỔ CHO GIA ĐÌNH CÓ TIỀN CĂN SINH CON MẮC BỆNH RỐI LOẠN CHUYỂN HÓA

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "BÁO CÁO CA LÂM SÀNG: ÁP DỤNG KỸ THUẬT XÉT NGHIỆM DI TRUYỀN TIỀN LÀM TỔ CHO GIA ĐÌNH CÓ TIỀN CĂN SINH CON MẮC BỆNH RỐI LOẠN CHUYỂN HÓA"

Copied!
7
0
0

Teks penuh

(1)

BÁO CÁO CA LÂM SÀNG: ÁP DỤNG KỸ THUẬT XÉT NGHIỆM DI TRUYỀN TIỀN LÀM TỔ CHO GIA ĐÌNH CÓ TIỀN CĂN SINH CON

MẮC BỆNH RỐI LOẠN CHUYỂN HÓA

Mã Phạm Quế Mai1,2, Lý Thiện Trung1, Hồ Ngọc Anh Vũ1,2, Vương Tú Như3, Vương Thị Ngọc Lan4

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Xét nghiệm di truyền phôi tiền làm tổ (Preimplantation genetic testing – PGT) là kỹ thuật xác định các bất thường di truyền của phôi trước khi chuyển vào buồng tử cung. Có 3 loại PGT: PGT-A (PGT for aneuploidies) để sàng lọc lệch bội của phôi, PGT-SR (PGT for chromosome structural rearrangements) chẩn đoán các bất thường cấu trúc nhiễm sắc thể của phôi và PGT-M (PGT for monogenic/single gene disorders) chẩn đoán các bất thường đơn gen.

Mục tiêu: Báo cáo một ca lâm sàng áp dụng thành công xét nghiệm di truyền phôi tiền làm tổ cho một cặp vợ chồng đều là người mang gen có liên quan đến bệnh rối loạn chuyển hóa thiếu hụt caritine-acylcarnitine translocase và caritine-palmitoytransferase II.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Cặp vợ chồng có tiền sử mất một đứa con sau khi chuyển phôi thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) tại IVFMD, bệnh viện Mỹ Đức. Bé nghi ngờ mắc bệnh rối loạn chuyển hóa. Xét nghiệm di truyền cho thấy cặp vợ chồng đều là người lành mang biến thể của gen CPT2 và gen SLC25A20. Đứa con đã mất cũng mang đồng hợp tử lặn gen CPT2 và dị hợp tử kép gen SLC25A20. Cặp vợ chồng được thực hiện PGT cho 6 phôi còn lại qua 2 bước, bước 1 là PGT-A để sàng lọc lệch bội của phôi, bước 2 là PGT-M để chẩn đoán phôi mang các biến thể dạng đồng hợp lặn hoặc dị hợp tử kép cho hai gen trên.

Kết quả: Thực hiện PGT-A và PGT-M, chỉ có 1 phôi không bất thường nhiễm sắc thể và không mang biến thể trên gen CPT2 và gen SLC25A20. Phôi này được sử dụng để chuyển vào buồng tử cung người vợ. Bệnh nhân mang thai và sinh 1 bé trai sống, hoàn toàn khỏe mạnh.

Kết luận: Việc kết hợp TTTON và PGT-M mở ra một hướng điều trị mới cho các cặp vợ chồng đều là người lành mang gen bệnh của cùng một bệnh lý di truyền đơn gen lặn.

Từ khoá: bệnh thiếu hụt caritine-palmitoytransferase II, bệnh thiếu hụt caritine-acylcarnitine translocase, xét nghiệm di truyền phôi tiền làm tổ cho bệnh lý đơn gen, thụ tinh trong ống nghiệm

ABSTRACT

CASE REPORT: PREIMPLANTATION GENETIC TESTING TO FAMILY WITH A HISTORY OF HAVING A CHILD WITH METABOLIC DISORDER

Ma Pham Que Mai, Ly Thien Trung, Ho Ngoc Anh Vu, Vuong Tu Nhu, Vuong Thi Ngoc Lan

* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 26 - No 1 - 2022: 01-07 Backgrounds: Preimplantation genetic testing (PGT) is a technique used to determine whether the embryo intended for transfer is normal or not, thus helping to eliminate the risk of giving birth to a clinically affected child. There are three types of PGT: PGT for aneuploidies (PGT-A); PGT for chromosome structural rearrangements (PGT-SR); and PGT for monogenic/single gene disorders.

Objective: To report a case which PGT-M was successfully applied to help a couple who were both carriers

1Đơn vị Hỗ trợ sinh sản IVFMD, Bệnh viện Mỹ Đức 2Trung tâm nghiên cứu HOPE, Bệnh viện Mỹ Đức

3Khoa Phụ Sản – Kế hoạch hóa gia đình, Bệnh viện Mỹ Đức 4BM Phụ Sản, Đại học Y Dược TP. HCM Tác giả liên lạc: ThS. Mã Phạm Quế Mai ĐT: 0909084645 Email: [email protected]

(2)

of genes related to caritine-acylcarnitine translocase and caritine-palmitoytransferase II deficiency disorders having a healthy child.

Methods: The couple had a history of losing a child after in vitro fertilization (IVF) embryo transfer at IVFMD, My Duc hospital. The baby was suspected of having a metabolic disorder. The genetic results showed that both parents are healthy carriers of the variants of the gene CPT2 and the gene SLC25A20. The deceased child was also recessive homozygous for CPT2 and combined heterozygous for SLC25A20. PGT-M combined with PGT-A (preimplantation embryo genetic testing for aneuploidy) were performed for the remaining 6 blastocysts to eliminate embryos carrying recessive homozygous or combined heterozygous variants for these two genes.

Results: Based on the results of PGT-A and PGT-M, only one embryo showed no chromosomal abnormalities and did not carry variants on the CPT2 gene and the SLC25A20 gene. The normal embryo was transferred to the wife’s uterus. As a result, the patient became pregnant and gave birth to a healthy baby.

Conclusions: The combination of in-vitro fertilization (IVF) and PGT-M has brought an opportunity for couples who are both carriers of the same recessive genetic disease to have non-affected healthy child.

Key words: caritine-palmitoytransferase II deficiency disease, caritine-acylcarnitine translocase deficiency disease, preimplantation genetic testing for monogenic disease, in vitro fertilization

ĐẶT VẤN ĐỀ

Xét nghiệm di truyền phôi tiền làm tổ cho bệnh lý đơn gen (Preimplantation Genetic Testing for Monogenetic disease, viết tắt là PGT- M), trước đây còn được biết đến với thuật ngữ xét nghiệm chẩn đoán di truyền phôi tiền làm tổ (Preimplantation Genetic Diagnosis, viết tắt là PGD). Đây là một xét nghiệm nhằm mục đích phát hiện các phôi có bất thường liên quan đến di truyền mức độ gene. Các trường hợp sau có thể nhờ vào sự kết hợp giữa kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (In vitro fertilization, viết tắt là IVF) và xét nghiệm PGT-M để giúp cho cặp vợ chồng có cơ hội sinh ra con không mang bệnh lý di truyền như bệnh lý di truyền đơn gene lặn (như bệnh xơ nang, bệnh Wilson), bệnh lý di truyền liên kết giới tính X (như Hemophilia), bệnh lý di truyền đơn gene trội (như bệnh Hungtington), hoặc tìm HLA tương hợp (như Beta Thalassemia)(1). Ngoài ra, PGT-M còn được ứng dụng chọn lựa phôi trong các trường hợp bệnh lý di truyền đơn gen hiếm gặp. Theo tổ chức Orphan Drug Act (1983) định nghĩa bệnh lý di truyền đơn gen hiếm gặp là bệnh có tần suất mắc bệnh 1/200 000 người. Định nghĩa này cũng được dùng bởi Viện Y Tế Quốc Gia Hoa Kỳ (NIH) và đến nay có khoảng hơn 7000 bệnh lý

được báo cáo(2).

Bên cạnh sự phát triển của các kỹ thuật phát hiện như giải trình tự thế hệ mới (NGS), kỹ thuật nuôi cấy và sinh thiết phôi nang cũng như trữ lạnh phôi, việc áp dụng xét nghiệm PGT-M sẽ giúp đem lại nhiều kết quả khả quan cho các cặp vợ chồng có vấn đề về di truyền ở mức độ phân tử.

BÁO CÁO CA LÂM SÀNG

Tóm tắt bệnh án

Cặp vợ chồng đều sinh năm 1988, kết hôn năm 2014 và mong con 3 năm. Năm 2017, hai vợ chồng đến khám hiếm muộn tại IVFMD, bệnh viện Mỹ Đức. Các khảo sát ban đầu ghi nhận người vợ có chu kỳ kinh nguyệt đều, mỗi 30-35 ngày, AMH = 4,23 ng/mL. Kết quả tinh dịch đồ của người chồng ghi nhận tổng số tinh trùng là 121,8 triệu, tỷ lệ sống 45%, 100% tinh trùng bất động và hình dạng bình thường 0% (trong đó 51% tinh trùng đuôi cuộn, đuôi ngắn). Hai vợ chồng được chỉ định thực hiện tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (Intra-Cytoplasmic Sperm Injection, viết tắt ICSI) kết hợp test tìm tinh trùng sống (Hypo-osmotic swelling test – HOS test) để điều trị hiếm muộn. Kích thích buồng trứng sử dụng phác đồ GnRH antagonist. Kết quả có 7 phôi nang khả dụng, toàn bộ phôi được trữ lạnh.

(3)

Bệnh nhân có thai sau lần chuyển 1 phôi đầu tiên. Thai kỳ diễn tiến bình thường, bệnh nhân được mổ lấy thai lúc thai 38 0/7 tuần ra một bé gái cân nặng 2800g tại bệnh viện (BV) Mỹ Đức ngày 01/01/2019. Đến ngày 02/01/2019, bé có triệu chứng co giật và được chuyển bệnh viện Nhi Đồng 1, và mất ngày 03/01/2019. Tại bệnh viện Nhi Đồng 1, bé được xét nghiệm sàng lọc sơ sinh toàn diện, kết quả định lượng các acylcarnitine cho thấy chỉ số palmitoyl carnitine (C16) lần I là 10,29µM và lần II là 9,69µM. Cả hai lần đều ghi nhận hàm lượng C16 hơi cao hơn ngưỡng bình thường (0,6-7µM), và kết luận nghi ngờ bé mất do rối loạn chuyển hóa.

Xét nghiệm di truyền

Xét nghiệm di truyền được thực hiện trên mẫu máu thu nhận từ bé trong thời gian nằm viện tại bệnh viện Nhi đồng 1 và cho cặp vợ chồng. Thu nhận 2 ml/mẫu máu toàn phần cho vào ống EDTA chống đông, trữ 4-8oC và gửi đến Viện Di truyền Y học. Mẫu máu của cặp vợ chồng và đứa con mất do nghi ngờ rối loạn chuyển hóa được chạy phân tích di truyền trên gói gen G4500 gồm 4503 gen được ghi nhận trên y văn có liên quan đến các bệnh di truyền đã biết.

Dựa trên kết quả xét nghiệm di truyền, dự đoán có hai gen có thể liên quan đến kiểu hình bệnh là gen CPT2 gây bệnh thiếu hụt caritine- palmitoytransferase II (CPT II) và gen SLC25A20 gây bệnh thiếu hụt caritine-acylcarnitine translocase (CACT) - đây là các yếu tố tham gia vào các hoạt động chuyển hóa của cơ thể. Kết quả cho thấy đứa con mắc bệnh rối loạn chuyển hóa nhận dị hợp tử kép gen SLC25A20 từ mẹ ở vị trí c.185_197del và từ cha ở vị trí c.646G>A.

Đồng thời, đứa con mắc bệnh cũng nhận đồng hợp tử lặn gen CPT2 (c.1102G>A) từ cả cha mẹ và CPT2 (c.1055T>G) từ cha. Sau đó, cặp vợ chồng được tư vấn thực hiện PGT qua 2 bước:

bước 1 là PGT-A để loại các phôi bất thường số lượng và cấu trúc nhiễm sắc thể, bước 2 là PGT- M các phôi bình thường sau PGT-A để loại bỏ phôi mang các biến thể trên hai gen SLC25A20

CPT2 có thể di truyền từ cha mẹ.

Quy trình thực hiện PGT-A kết hợp PGT-M Các phôi nang còn lại của bệnh nhân được tiến hành rã đông toàn bộ. Phôi được sinh thiết từ 5-10 tế bào lá nuôi phôi (trophectoderm – TE).

Sau khi sinh thiết, phôi được đông lạnh chờ kết quả phân tích di truyền. Tế bào phôi sinh thiết sau đó được chuyển đến phòng xét nghiệm di truyền (HOPEGENE, TP. Hồ Chí Minh). Các tế bào phôi được khuếch đại toàn bộ gen (Whole Genome Amplification – WGA) bằng bộ kit Picoplex WGA (Takara Bio, Hoa Kỳ). Dữ liệu WGA được phân tích bằng hệ thống NextSeq NGS (Illumina, Hoa Kỳ). Kết quả này được xử lý qua phần mềm giúp xác định tình trạng bất thường số lượng, cấu trúc hoặc thể khảm (PGT- A). Sản phẩm DNA sau WGA cũng được sử dụng để chuẩn bị thư viện bộ gen làm DNA đầu vào cho bước NGS (next generation sequencing).

Các đoạn DNA mồi được thiết kế đặc hiệu cho các vị trí biến thể đã xác định trước đó được sử dụng (PGT-M). Kết quả phân tích di truyền được chuyên viên tư vấn di truyền sẽ tiến hành phân tích kết và tổng hợp kết quả, gửi về cho bác sĩ lâm sàng điều trị.

Quy trình chọn lựa phôi chuyển và theo dõi thai kỳ

Sau khi có kết quả, bệnh nhân được bác sĩ tư vấn số phôi bình thường, số phôi bất thường và mức độ bất thường (thể khảm hay bất thường toàn bộ) và thảo luận về các phôi có thể sử dụng và thứ tự ưu tiên dùng để chuyển phôi. Thứ tự này dựa vào kết quả di truyền của từng phôi và chất lượng hình thái phôi đã được đánh giá trước khi sinh thiết. Sau khi bệnh nhân đồng ý, bác sĩ tiến hành chuẩn bị nội mạc tử cung cho bệnh nhân và thực hiện chuyển phôi. Thử thai được thực hiện vào hai tuần sau khi chuyển phôi. Bệnh nhân được theo dõi thai kì thường quy và được thực hiện chẩn đoán tiền sản theo quy trình.

Y đức

Nghiên cứu đã được thông qua Hội đồng

(4)

Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Bệnh viện Đa khoa Mỹ Đức, số: 15.5/2021/MĐ-HĐĐĐ ngày 30/11/2021.

KẾT QUẢ

Kết quả xét nghiệm di truyền phôi

Bệnh nhân có 6 phôi nang được sinh thiết và thực hiện PGT-A kết hợp PGT-M cho các biến thể hai gen CPT2SLC25A20.

Hình 1: Sơ đồ kết quả di truyền của cặp vợ chồng và đứa con mắc bệnh rối loạn chuyển hóa Kết quả di truyền phôi 20TBM011E4 ghi

nhận chưa phát hiện bất thường số lượng và cấu trúc nhiễm sắc thể, đồng thời cũng chưa phát hiện phôi mang các biến thể xác định trên gen CPT2SLC25A20, khuyến cáo ưu tiên chuyển phôi này cho bệnh nhân. Trường hợp phôi 20TBM011E3 cho thấy mang dị hợp tử kép gen CPT2 ở hai vị trí CPT2 (c.1102G>A) và CPT2 (c.1055T>G) vẫn có thể cân nhắc sử dụng được là do kết quả di truyền người cha có mang dị hợp tử kép gen CPT2 nhưng không biểu hiện bệnh (Hình 1). Lý giải cho trường hợp này là do hai biến thể ở dạng cis – cùng nằm trên 1 nhiễm sắc thể nên nhiễm sắc thể còn lại bình thường, không biểu hiện bệnh.

Đối với phôi 20TBM011E3, khuyến cáo không nên sử dụng phôi này do phôi mang đồng hợp tử lặn gen CPT2 (c.1102G>A) nhận một allele từ cha và một allele từ mẹ, có thể gây ra kiểu hiện bệnh. Hai phôi còn lại 20TBM011E1 và 20TBM011E2 cũng khuyến cáo không chuyển phôi do mang các bất thường cấu trúc nhiễm sắc

thể có kích thước lớn (trên 5Mb) và đồng thời ghi nhận trên y văn có các hội chứng liên quan.

Kết quả chuyển phôi và thai kỳ

Bệnh nhân được tư vấn kết quả di truyền phôi và ký đồng thuận chuyển phôi mã số 20TBM011E4. Sau khi chuyển phôi 14 ngày, kết quả định lượng beta HCG máu đạt 605,50 mUI/ml. Bệnh nhân sau đó được theo dõi thai tại khoa Phụ sản, bệnh viện Mỹ Đức. Các kết quả tiền sản không ghi nhận bất thường.

Bệnh nhân được chỉ định mổ lấy thai 38 tuần 1/7 tại bệnh viện Mỹ Đức ngày 26/07/2021, một bé trai cân nặng 3100g, Apgar 8/9. Ngay sau khi bé chào đời, chúng tôi thực hiện thu 8 ml mẫu máu cuống rốn cho vào ống EDTA chống đông, mô bánh nhau ngay phần tiếp giáp cuống rốn và mẫu phết tế bào niêm mạc má của em bé. Mẫu được trữ 4-8oC và gửi ngay đến Viện Di truyền Y học để tiến hành phân tích di truyền của bé.

Bệnh nhân được tư vấn và ký đồng thuận cho việc thu mẫu máu cuống rốn, mô bánh nhau và phết niêm mạc má em bé trước đó. Trong thời

(5)

gian đợi kết quả di truyền, bé không bú và được cho ăn qua truyền tĩnh mạch để theo dõi.

Kết quả di truyền trên bé từ phôi mã số 20TBM011E4

Kết quả di truyền trên bé không ghi nhận sự có mặt của các biến thể trên hai gen CPT2SLC25A20 (Hình 2), điều này tương ứng với kết quả di truyền của phôi 20TBM011E4 (Bảng 1).

Đồng thời, kết quả cũng không ghi nhận bất cứ

biến thể của gen khác liên quan đến bệnh chuyển hóa. Tuy nhiên, vẫn ghi nhận bé mang một số biến thể trên các gen GJB2 (c. 109C>A), HBB (c. 79G>A) và CPS1 (c.3538G>A). Có thể nhận thấy bé mang gen GJB2 được di truyền từ mẹ và mang hai gen HBB và CPS1 từ cha (Hình 1). Các biến thể này ghi nhận kiều gen dị hợp tử và cơ chế di truyền lặn.

Hình 2: Kết quả di truyền của bé sinh ra từ phôi 20TBM011E4 Bảng 1: Kết quả chẩn đoán di truyền của phôi nang được sinh thiết

Mã phôi

Kết quả quả di truyền Thứ tự ưu

tiên chuyển phôi Bất thường ghi nhận (PGT-A) Bất thường ghi nhận (PGT-M)

20TBM011E1

Phát hiện bất thuờng cấu trúc nhiễm sắc thể:

del7(1Mb-56Mb) (p22.3p11.2) (Hội chứng có thể liên quan: monosomy 7p)

+ Phôi mang CPT2 (c.1102G>A): Dị hợp + Phôi mang

SLC25A20 (c.185-197del): Dị hợp)

Khuyến cáo không sử dụng

20TBM011E2

+Phát hiện bất thuờng nhiễm sắc thể: -7(30%), - 15(30%)

+Phát hiện bất thuờng cấu trúc nhiễm sắc thể:

del12 (1Mb-84Mb) (p13.33q21.31) (50%) (Hội chứng có thể liên quan: 12q14 microdeletion

syndrome)

+Phôi mang CPT2 (c.1102G>A): Dị hợp + Chưa phát hiện đột biến dị hợp tử kép gen

SLC25A20

Khuyến cáo không sử dụng

20TBM011E3 Chưa phát hiện bất thuờng

+ Phôi mang đột biến dị hợp tử kép gen CPT2:

CPT2 (c.1102G>A): Dị hợp; CPT2 (c.1055T>G): Dị hợp

+ Phôi mang SLC25A20 (c.185-197del): Dị hợp

Có thể sử dụng, ưu tiên

thứ 3

(6)

Mã phôi

Kết quả quả di truyền Thứ tự ưu

tiên chuyển phôi Bất thường ghi nhận (PGT-A) Bất thường ghi nhận (PGT-M)

20TBM011E4 Chưa phát hiện bất thuờng

+ Chưa phát hiện đột biến trên gen CPT2 + Chưa phát hiện đột biến dị hợp tử kép gen

SLC25A20

Có thể sử dụng, ưu tiên

thứ 1 20TBM011E5 Chưa phát hiện bất thuờng

+ Phôi mang CPT2 (c.1102G>A): Dị hợp + Chưa phát hiện đột biến dị hợp tử kép gen

SLC25A20

Có thể sử dụng, ưu tiên

thứ 2 20TBM011E6 +Phát hiện bất thuờng nhiễm sắc thể: -16

+Phát hiện đột biến đồng hợp lặn gen CPT2 (c.1102G>A: Đồng hợp)

+ Chưa phát hiện đột biến dị hợp tử kép gen SLC25A20

Khuyến cáo không sử dụng

BÀN LUẬN

Sự phối hợp giữa thụ tinh trong ống nghiệm với kỹ thuật chẩn đoán di truyền đã đem lại cơ hội có con bình thường cho các cặp vợ chồng mang cùng gen lặn bệnh lý. Mặc dù PGT-M là kỹ thuật chính dùng để xác định các phôi mang các biến thể dạng đồng hợp lặn hoặc dị hợp tử kép của các gen bất thường, nhưng cần phối hợp PGT-A để sàng lọc ở mức độ nhiễm sắc thể trước để giảm số phôi cần thực hiện PGT-M, giúp giảm chi phí cho kỹ thuật.

Khi thực hiện và tư vấn kết quả PGT-M, chúng ta cũng cần chú ý các giới hạn của kỹ thuật. PGT-M chỉ hiển thị các gen quan tâm, nghi ngờ có liên quan đến bệnh lý di truyền đã xác định trước đó. Vì vậy, không thể loại trừ các biến thể khác có thể di truyền từ cha mẹ hoặc các biến thể tự phát (de novo) của cá thể phôi. Bên cạnh đó, PGT-M cũng không thể phát hiện các biến thể mới phát sinh trên các gen quan tâm ở trường hợp này là CPT2 SLC25A20, tuy nhiên khả năng xuất hiện các biến thể mới phát sinh là rất thấp. Ngoài ra cũng nên tư vấn rõ nguy cơ cho bệnh nhân có thể gặp phải hiện tượng Allelic Drop-out (ADO) được định nghĩa là sự không khuếch đại ngẫu nhiên của một trong hai allele trong bộ gen của tế bào phôi sinh thiết, có thể xảy ra trong quá trình khuếch đại toàn bộ gen WGA của phôi. Vì lượng tế bào phôi sinh thiết chỉ có 5-10 tế bào, vì vậy sản phẩm DNA đầu vào cho bước NGS quyết định rất lớn vào chất lượng của DNA tế bào phôi sinh thiết cũng như chất lượng của bộ kit WGA sử dụng(3). Do

đó, hiện tượng ADO có thể cho kết quả âm tính giả, cần thiết thông báo rõ nguy cơ này và khuyến cáo bệnh nhân thực hiện những chẩn đoán tiền sản trước sinh và thực hiện sinh thiết gai nhau (10-12 tuần), hoặc tiến hành chọc ối (15- 18 tuần) nếu có nghi ngờ(4).

Một điều nữa cần lưu ý trong các trường hợp bệnh nghi ngờ có yếu tố di truyền, mẫu vật phẩm từ cá thể có kiểu hình bệnh là cực kỳ quan trọng. Bởi mỗi cá thể có rất nhiều biến thể, các biến thể này cũng có thể ghi nhận là gây bệnh hoặc biến thể chưa rõ chức năng. Với cá thể không có kiểu hình bệnh, đặc biệt là người lành mang gen lặn gây bệnh, các biến thể chưa rõ chức năng có thể bị bỏ sót trong các báo cáo xét nghiệm di truyền. Chỉ khi trên các cá thể có kiểu hình bệnh rõ ràng, tất cả các biến thể xuất hiện sẽ được liệt kê, dựa vào đó mới có thể phân tích sâu các biến thể trên các gen nghi ngờ có liên quan đến bệnh lý di truyền mắc phải để chỉ định PGT-M trên phôi. Do đó, việc nghĩ đến và thực hiện xét nghiệm di truyền trên thai hay đứa con mắc bệnh là hết sức quan trọng vì đó là cơ sở để xác định gene đột biến gây bệnh để chỉ định PGT-M, giúp cho cặp vợ chồng có con bình thường, khỏe mạnh.

KẾT LUẬN

Sự phối hợp của thụ tinh trong ống nghiệm và PGT-M mở ra cơ hội cho các cặp vợ chồng là người lành mang gen bệnh của cùng một bệnh lý di truyền đơn gen lặn. Với sự phát triển của các kỹ thuật chẩn đoán di truyền và kết hợp với các thuật toán sinh học, PGT-M hứa hẹn là công

(7)

cụ chẩn đoán các rối loạn di truyền đa gene, giúp các cặp vợ chồng có con bình thường khỏe mạnh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. ESHRE PGT-M Working Group, Carvalho F, Moutou C, Dimitriadou E, Dreesen J, Giménez C, De Rycke M (2020).

ESHRE PGT Consortium good practice recommendations for the detection of monogenic disorders. Human Reproduction Open, 2020(3):hoaa018.

2. National Institutes of Health (2020). FAQs About Rare Diseases,

https://rarediseases.info.nih.gov/diseases/pages/31/faqs-about- rare-diseases

3. Huang L, Ma F, Chapman A, Lu S, Xie XS (2015). Single-cell whole-genome amplification and sequencing: methodology and applications. Annual Review of Genomics and Human Genetics, 16:79-102.

4. American College of Obstetricians and Gynecologists. (2020).

Preimplantation Genetic Testing: ACOG Committee Opinion, Number 799. Obstet Gynecol, 135(3):e133-e137.

Ngày nhận bài báo: 16/12/2021

Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 10/02/2022 Ngày bài báo được đăng: 15/03/2022

Referensi

Dokumen terkait

Xuất phát từ vấn đề này, chúng tôi tiến hành nghiên cứu với mục tiêu xác định tỉ lệ mắc và diễn biến tự nhiên của rối loạn tiêu hóa chức năng ở nhóm trẻ 0 tháng đến 4 tuổi phát triển

MỘT SỐ YẾU TỐ NGUY CƠ CỦA RỐI LOẠN NHẬN THỨC Ở BỆNH NHÂN NHỒI MÁU NÃO VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BẰNG DONEPEZIL Nguyễn Thiên Trang1*, Lê Văn Minh2 1.. Bệnh viện Đa Khoa Cần Thơ

Ở Việt Nam, kỹ thuật giải trình tự thế hệ mới NGS trong sàng lọc 24 NST ở phôi bước đầu được thực hiện tại một số trung tâm nhưng chưa có nhiều nghiên cứu nhằm đánh giá kết quả sàng lọc