ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG CỦA RỐI LOẠN TIC:
KHẢO SÁT TRÊN 75 BỆNH NHI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2
Phạm Hải Uyên1, Nguyễn Lê Trung Hiếu1,2
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Rối loạn Tic là những vận động hoặc âm thanh bất ngờ, nhanh, lặp lại và không có nhịp điệu, thường gặp ở trẻ em, gồm ba dạng là rối loạn Tic tạm thời, mạn tính và Tourette. Khảo sát các đặc điểm về tuổi, giới tính, tiền căn, triệu chứng Tic, dạng Tic và rối loạn tăng động kém chú ý (ADHD) đồng mắc giúp ích cho thực hành chẩn đoán và tiên lượng.
Mục tiêu: Khảo sát tỉ lệ, đặc điểm các loại rối loạn Tics và rối loạn tăng động kém chú ýđồng mắc ở bệnh nhi mắc rối loạn Tic.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả tiến cứu trên 75 trẻ dưới 16 tuổi được chẩn đoán rối loạn Tic theo tiêu chuẩn của DSM-5, tại phòng khám của bệnh viện Nhi Đồng 2 từ tháng 2 đến tháng 6 năm 2020.
Kết quả: Tỉ lệ rối loạn Tic tạm thời, Tic vận động mạn tính, Tic âm thanh mạn tính và Tourette lần lượt là 5,3% 49,3%, 1,3% và 44,0%. Tỉ lệ nam/nữ là 4,7. Tuổi trung bình là 8,6 tuổi. Tiền căn sanh khó/sanh ngạt gặp ở trẻ rối loạn Tourette. Tỉ lệ ADHD phối hợp là 33,3%. Tuổi xuất hiện triệu chứng Tic xấu nhất trong nhóm có ADHD cao hơn không có ADHD.
Kết luận: Trẻ trai, tiền căn sinh khó/sinh ngạt và tuổi xuất hiện triệu chứng xấu nhất có thể là yếu tố nguy cơ tiềm ẩn của rối loạn Tic và Tourette. Cần khảo sát ADHD đồng mắc ở trẻ mắc rối loạn Tic.
Từ khóa: rối loạn tic, rối loạn Tourette, ADHD
ABSTRACT
CLINICAL CHARACTERISTICS OF TIC DISORDER: SURVEY IN 75 CHILDREN AT CHILDREN'S HOSPITAL 2
Pham Hai Uyen, Nguyen Le Trung Hieu
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No. 2 - 2021: 87 - 93 Background: Tic disorder which is sudden, rapid, repetitive and irrhythmic movements or sounds is common in children, including the three clinical types: transient Tic disorder, chronic Tic disorder and Tourette disorder. Survey of characteristics of age, sex, history, symptoms of Tic and comobility as attention deficit hyperactivity disorder helps in diagnostic and prognostic practice.
Objectives: To investigate the rate and characteristics of types of Tic disorders and ADHD comobility in children with Tic disorder.
Methods: Descriptive research on 75 children under 16 years old diagnosed with Tic disorder according to the standards of DSM-5, at Children's Hospital 2 clinic from February to June. 2020.
Results: The rates of transient Tics disorder, chronic motor Tic disorder, chronic vocal Tic disorder and Tourette disorder were 5.3% 49.3%, 1.3% and 44.0%, respectively. The male/female ratio is 4.7. The average age is 8.6 years old. History of difficult birth/asphyxia has been reported in children with Tourette disorder. The rate of ADHD comobility is 33.3%. The age at which symptom of Tics are worst in group with ADHD is higher than in group without ADHD comobility.
1Khoa Thần kinh, BV Nhi Đồng 2 2Bộ môn Thần kinh, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Conclusion: Boys, a history of difficult/asphyxia and the age at which symptoms are worst may be potential risk factors for Tic and Tourette disorders. It is necessary to investigate ADHD comobility in children with Tic disorder.
Keywords: tic disorder, Tourette disorder, ADHD
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rối loạn Tic là những vận động hoặc âm thanh bất ngờ, nhanh, lặp lại và không có nhịp điệu, thường gặp ở trẻ em, bao gồm Tic đơn giản và Tic phức tạp. Tic đơn giản thường gặp, với tỉ lệ lưu hành khoảng 6-12% trong dân số(1,2).
Theo DSM-5, rối loạn Tic được chia thành 3 thể lâm sàng chính là rối loạn Tic tạm thời (transient Tic disoder, TTD), rối loạn Tic mạn tính và rối loạn Tourette (Tourette disorder, TD).
Rối loạn Tic mạn tính gồm rối loạn Tic vận động mạn tính (chronic motor Tic disorder, CMTD) và rối loạn Tic âm thanh mạn tính (chronic vocal Tic disorder, CVTD)(3). Tỉ lệ CMTD dao động từ 3 - 8/1000 trẻ. Rối loạn Tourette có thể gặp ở mọi quốc gia, chủng tộc, với tỉ lệ hiện mắc dao động từ 0,3 - 1%, tùy nghiên cứu, và có thể tăng lên 1,06%, nếu chỉ xét dân số nam(4,5).
Các rối loạn đồng mắc như tăng động kém chú ý (attention deficit hyperactivity disorder, ADHD), rối loạn ám ảnh cưỡng chế và các vấn đề tâm lí và phát triển khác cũng là vấn đề được nhiều tác giả trên thế giới quan tâm do các rối loạn này gây ảnh hưởng đến trẻ và gia đình(6).
Tại Việt Nam, rối loạn Tic thường gặp và luôn là nỗi lo của thân nhân bệnh nhi. Chúng tôi thực hiện khảo sát điểm lâm sàng của rối loạn Tic với mục tiêu sau:
- Khảo sát tỉ lệ và đặc điểm các loại rối loạn Tic ở trẻ em.
- Khảo sát ADHD đồng mắc ở bệnh nhân rối loạn Tic.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứuBệnh nhi đến khám tại phòng khám Thần kinh bệnh viện Nhi Đồng 2 từ tháng 2/2020 đến tháng 6/2020, được chẩn đoán rối loạn Tic.
Tiêu chuẩn chọn vào
Trẻ từ 4 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Có video hoặc biểu hiện rối loạn Tic ngay lúc khám, thỏa tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn Tic theo DSM-5.
Không có chậm phát triển tâm thần vận động.
Không có bệnh lý não kèm theo.
Tiêu chẩn loại ra
Thân nhân không hoàn tất khảo sát.
Trẻ không được khám tâm lí để chẩn đoán ADHD đồng mắc.
Tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn Tourette (TD) theo DSM-5
A. Tồn tại một lúc nhiều Tic vận động và một hoặc nhiều Tic âm thanh trong thời gian bệnh, không cần xảy ra đồng thời.
B. Tic có thể tăng hoặc giảm về tần số nhưng kéo dài hơn một năm kể từ thời điểm khởi phát.
C. Khởi phát trước 18 tuổi.
D. Rối loạn xảy ra không phải do ảnh hưởng sinh lý của chất gây nghiện hoặc những tình trạng bệnh lý khác.
Rối loạn Tic vận động hoặc âm thanh kéo dài (mạn tính) DSM-5
A. Tồn tại Tic vận động hoặc âm thanh đơn giản hay nhiều kiểu, nhưng không đồng thời xuất hiện Tic vận động và âm thanh.
B. Tic có thể tăng hoặc giảm về tần số nhưng kéo dài hơn 1 năm kể từ thời điểm khởi phát.
C. Khởi phát trước 18 tuổi.
D. Rối loạn xảy ra không phải do ảnh hưởng sinh lý của chất gây nghiện hoặc những tình trạng bệnh lý khác.
E. Không đủ tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn Tourette.
Rối loạn Tic tạm thời DSM-5
A. Tic âm thanh và/hoặc vận động đơn giản
hoặc nhiều kiểu.
B. Tic tồn tại ít hơn 1 năm kể từ thời điểm khởi phát.
C. Khởi phát trước 18 tuổi.
D. Rối loạn xảy ra không phải do ảnh hưởng sinh lý của chất gây nghiện hoặc những tình trạng bệnh lý khác.
E. Không đủ tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn Tourette’s hoặc rối loạn Tic vận động hoặc âm thanh kéo dài (mạn tính).
Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu báo cáo hàng loạt ca.
Kỹ thuật chọn mẫu Chọn mẫu thuận tiện.
Các bước tiến hành
Bệnh nhân đến khám thỏa tiêu chuẩn chọn và tiêu chuẩn loại trừ được mời tham gia nghiên cứu và khảo sát các biến cần cho nghiên cứu, ghi vào bệnh án nghiên cứu.
Các biến nghiên cứu
Khảo sát các đặc điểm tuổi, giới tính, sinh nhẹ cân, sanh khó/sanh ngạt, cha/mẹ đã từng hay hiện mắc, anh/chị/em đã từng hay hiện mắc, mẹ hút thuốc lá trong thai kỳ bằng cách khai thác trực tiếp. Tiền sử sinh nhẹ cân (được định nghĩa là cân nặng lúc sanh <2500 gram theo Tổ Chức Y Tế Thế Giới).
Khảo sát các đặc điểm triệu chứng Tics gồm: tuổi xuất hiện triệu chứng Tic đầu tiên được tính từ lúc sinh ra đến khi có triệu chứng Tic đầu tiên. Cách khởi phát từ từ hay đột ngột. Thời gian bắt đầu có triệu chứng đến nay được tính từ lúc có triệu chứng Tic đầu tiên đến lúc khám. Tuổi xuất hiện triệu chứng Tic xấu nhất được tính từ lúc sinh ra đến khi có triệu chứng Tic xấu nhất.
Chẩn đoán TTD, CMTD, CVTD, TD theo tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn Tic của DSM-5.
ADHD đồng mắc được chẩn đoán bởi chuyên viên tâm lí khoa Tâm lí bệnh viện Nhi Đồng 2. theo tiêu chuẩn DSM-5.
Thu thập và xử lý dữ liệu
Nhập liệu bằng phần mềm Epidata 3.1 và xử lý bằng phần mềm SPSS 20.0. Các biến định tính sẽ được phân nhóm và tính phần trăm.
Các biến định lượng sẽ được tính bằng trung bình và độ lệch chuẩn hoặc trung vị và khoảng tứ phân vị. Khi so sánh sự khác biệt thì dùng phép kiểm Chi bình phương (χ2) đối với các biến định tính. Khi so sánh sự khác biệt giữa 2 nhóm thì dùng phép kiểm t với các biến định lượng. Ngưỡng giá trị p <0,05.
Y đức
Nghiên cứu này được thông qua bởi Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Bệnh viện Nhi Đồng 2, số 1658/NĐ2-CĐT, ngày 24/12/2019.
KẾT QUẢ
Chúng tôi thu thập được 75 bệnh nhân tuổi từ 4 – 16 mắc rối loạn Tics. Tỉ lệ nam/nữ là 4,7.
Nhóm tuổi 6 – 11 chiếm đa số (88%), khác biệt giữa các nhóm tuổi không có ý nghĩa thống kê (Bảng 1).
Bảng 1: Tuổi và nhóm tuổi theo giới tính (n = 75)
Nữ (n = 13) Nam (n = 62) Giá trị p Tuổi (năm) 8,8 ± 2,2
(6,0 - 12,0)
8,5 ± 2,0
(5,0 - 14,0) 0,62a Nhóm tuổi
0,59b
4-5 0 (0,0%) 2 (3,2%)
6-11 11 (84,6%) 55 (88,7%) 12-15 2 (15,4%) 5 (8,1%)
aPhép kiểm t hai nhóm bPhép kiểm chính xác Fisher Tỉ lệ các rối loạn Tic
Phân loại theo triệu chứng của rối loạn Tic:
Có 74/75 (98,7%) bệnh nhân có biểu hiện Tic vận động. Có 34/75 (45,3%) bệnh nhân có biểu biện Tic âm thanh, trong số này chỉ có 1/34 bệnh nhân chỉ biểu hiện Tic âm thanh đơn thuần, còn lại 33/34 bệnh nhân có Tic âm thanh có kèm biểu hiện Tic vận động.
Phân loại chẩn đoán rối loạn Tic theo DSM-5:
Có 4/75 bệnh nhân (5,3%) rối loạn Tic thoáng qua, 38/75 (50,6%) bệnh nhân có rối loạn Tic mạn tính trong đó có 37 bệnh nhân mắc CMTD và 33/75 (44%) bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn chẩn
đoán rối loạn Tourette (TD) (Hình 1).
Hình 1: Tỉ lệ các rối loạn Tic Các đặc điểm tuổi và giới tính
Bảng 2: Đặc điểm tuổi và giới tính giữa các nhóm (n = 75)
Rối loạn Tic (n = 75)
Nhóm không TD (n = 42)
TD
(n = 33) p Giới tính
0,89a Nữ 13 (17,3%) 8 (19,0%) 5 (15,2%) Nam 62 (82,7%) 34 (81,0%) 28 (84,8%) Tuổi 8,6 ± 2,0
(5,0 - 14,0) 8,7 ± 2,3 8,4 ± 1,7 (6,0 – 12,0) 0,72b Nhóm tu
0,10c 4-5 2 (2,7%) 2 (4,8%) 0 (0,0%) 6-11 66 (88,0%) 34 (81,0%) 32 (97,0%) 12-15 7 (9,3%) 6 (14,3%) 1 (3,0%)
aPhép kiểm Chi bình phương bPhép kiểm t hai nhóm,
cPhép kiểm chính xác Fisher
Tỉ lệ nam trong nhóm rối loạn Tic, chưa đủ tiêu chuẩn chẩn đoán TD và nhóm TD đều trên 80%. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về giới tính, tuổi trung bình, độ tuổi giữa nhóm không đủ tiêu chuẩn chẩn đoán TD với nhóm TD với p >0,05 (Bảng 2).
Các đặc điểm tiền căn
Đa số trẻ không có có yếu tố nhẹ cân, sinh khó/sinh ngạt, cha/mẹ/anh/chị/em hiện mắc TD.
Có 6 bệnh nhân có tiền sử nhẹ cân, 2/6 trẻ này là TD, khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
Có 5 bệnh nhân sanh khó/sanh ngạt và các bệnh nhân này đều mắc TD, khi so sánh hai nhóm không chẩn đoán TD và TD, ghi nhận p <0,05.
Có 4 bệnh nhân có cha/mẹ từng hay hiện mắc CMTD, 2/4 được chẩn đoán TD, không có sự khác biệt giữa hai nhóm.
Có 1 bệnh nhân (1,3%) có mẹ hút thuốc lá trong thai kì, và bệnh nhân này được chẩn đoán TD.
Bảng 3: Đặc điểm về tiền căn giữa các nhóm (n = 75)
Rối loạn Tic (n = 75)
Nhóm không TD (n = 42)
TD
(n = 33) Giá trị p Sanh non/nhẹ cân
0,69a Không 69 (92,0%) 38 (90,5%) 31 (93,9%)
Có 6 (8,0%) 4 (9,5%) 2 (6,1%) Sanh khó/ sanh ngạt
0,014a Không 70 (93,3%) 42 (100,0%) 28 (84,8%)
Có 5 (6,7%) 0 (0,0%) 5 (15,2%) Cha/mẹ từng hay hiện mắc CMTD
>0,99a Không 71 (94,7%) 40 (95,2%) 31 (93,9%)
Có 4 (5,3%) 2 (4,8%) 2 (6,1%)
Cha/mẹ từng hay hiện mắc CVTD >0,99a Mẹ hút thuốc lá trong thai kỳ
0,44a Không 74 (98,7%) 42 (100,0%) 32 (97,0%)
Có 1 (1,3%) 0 (0,0%) 1 (3,0%)
aPhép ki m chính xác Fisher bPhép ki m Chi bình ph ng
Các đặc điểm triệu chứng
Trong nhóm rối loạn Tic: tuổi xuất hiện triệu chứng đầu tiên của Tic từ 2- 11 tuổi, trung bình là 6,2, 73,3% khởi phát từ từ, đa phần trên 12 tháng trước khi đến khám. Tuổi xuất hiện triệu chứng Tic xấu nhất dao động từ 3-13 tuổi, với tuổi trung bình là 7,8 tuổi.
Trong nhóm không chẩn đoán TD và nhóm TD có các đặc điểm triệu chứng tương đồng với dân số chung.
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về các đặc điểm triệu chứng giữa 2 nhóm không đủ tiêu chuẩn chẩn đoán TD và TD.
Bảng 4: Đặc điểm triệu chứng Tic (n = 75)
Rối loạn Tic (n = 75) Nhóm không TD (n = 42) TD (n = 33) Giá trị p Tuổi xuất hiện triệu chứng đầu tiên của Tic 6,2 ± 1,9 (2,0 - 11,0) 6,3 ± 2,0 5,9 ± 1,7 (3,0-10,0) 0,42a
Khởi phát
0,60b
Từ từ 55 (73,3%) 32 (76,2%) 23 (69,7%)
Đột ngột 20 (26,7%) 10 (23,8%) 10 (30,3%)
Thời gian bắt đầu có triệu chứng đến thời điểm nghiên cứu 0,38c
Rối loạn Tic (n = 75) Nhóm không TD (n = 42) TD (n = 33) Giá trị p
<12 tháng 5 (6,7%) 4 (9,5%) 1 (3,0%)
≥12 tháng 70 (93,3%) 38 (90,5%) 32 (97,0%)
Tuổi xuất hiện triệu chứng Tic xấu nhất 7,8 ± 2,0 (3,0 - 13,0) 7,8 ± 2,1 7,8 ± 1,9 (3,0-12,0) 0,77a
a Phép kiểm t hai nhóm bPhép kiểm Chi bình phương cPhép kiểm chính xác Fisher ADHD đồng mắc
Có 25/75 (33,3%) bệnh nhân rối loạn Tics có ADHD đồng mắc, có 12/33 (36,4%) bệnh nhân rối loạn Tourrete có ADHD đồng mắc.
Khi phân tích các đặc điểm về độ tuổi, giới tính, tiền căn nhẹ cân, sinh khó/sinh ngạt, cha/mẹ/anh/chị/em mắc TD khi phân tích giữa nhóm có ADHD và không ADHD trên 75 trẻ rối loạn Tics và trên 33 trẻ TD, chúng tôi không ghi nhận được sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Khi phân tích các đặc điểm triệu chứng, bao gồm vận động, âm thanh, tuổi khởi phát triệu chứng đầu tiên, cách khởi phát, tuổi xuất hiện triệu chứng xấu nhất, chẩn đoán Tic tạm thời, CMTD, CVTD, TD chúng tôi ghi nhận không ghi nhận sự khác biệt có ý nghĩa giữa nhóm có ADHD và không ADHD trên 75 bệnh nhân rối loạn Tics và 33 bệnh nhân TD (Bảng 5).
ADHD với p = 0,038.
Bảng 5: So sánh đặc điểm lâm sàng hai nhóm không và có ADHD đồng mắc
Không ADHD n = 50
Có ADHD n = 25
Giá trị p Kiểu rối loạn Tic
0,87a Vận động 28 (56,0%) 13 (52,0%
Âm thanh 1 (2%) 0
Cả hai 21 (42%) 12 (48%) Tuổi xuất hiện triệu
chứng đầu tiên 6,2 ± 1,9 6,1 ± 1,9 0,65b Thời gian có triệu chứng
0,16a
< 12 tháng 5 (10%) 0
≥12 tháng 45 (90%) 25 (100%) Tuổi xuất hiện triệu
chứng xấu nhất 7,7 ± 1,9 8,2 ± 2,2 0,52b Chẩn đoán Tic
0,95a
TTD 3 (6%) 1 (4%)
CMTD 25 (50%) 12 (48%)
CVTD 1 (2%) 0
TD 21 (42%) 12 (48%)
aPhép kiểm chính xác Fisher bPhép kiểm t hai nhóm,
cPhép kiểm Chi bình phương
Tuy nhiên, khi phân tích riêng nhóm TD,
chúng tôi ghi nhân có sự khác biệt về tuổi xuất hiện triệu chứng xấu nhất, nhóm có ADHD cao hơn nhóm không ADHD (Bảng 6).
BÀN LUẬN
Tuổi và giới tínhNghiên cứu của chúng tôi chỉ khảo sát trẻ 4 – 16 tuổi, ghi nhận tuổi trung bình là 8,6 tuổi, với lứa tuổi cấp 1 chiếm đa số, 88%. Trong nhóm TD, tuổi phân bố từ 6-12 tuổi, với độ tuổi trung bình là 8,4 tuổi, phân bố tương tự với độ tuổi cấp 1 chiếm 97%. Kết quả này tương đương với nghiên cứu của tác giả Phạm Quỳnh Diệp (2003) khảo sát trên 71 trẻ rối loạn Tic từ 2-16 tuổi, với tuổi trung bình 8,5 tuổi(1). Nghiên cứu Nagy P (2020) khảo sát trên 137 bệnh nhân TD trong độ tuổi 3-18, tuổi trung bình của TD là 8,8 tuổi(1). Sự khác biệt giữa các nhóm tuổi không được ghi nhận trong nghiên cứu của chúng tôi, tuy nhiên, nghiên cứu cộng đồng của Yang C (2016) ghi nhận có sự khác biệt(6).
Nam chiếm đa số với 62 bệnh nhân, chiếm 82,7%; nữ có 13 bệnh nhân, chiếm 17,3%. Tỉ lệ nam/nữ = 4,7. Đối với nhóm TD, nam cũng chiếm đa số với 84,8%, nữ chiếm 15,2%. Tỉ lệ nam/nữ = 5,6. Kết quả này tương đồng với theo nghiên cứu của tác giả Phạm Quỳnh Diệp (2003) ghi nhận tỉ lệ nam/nữ là 5,5(1). Yang C (2016) ghi nhận tỉ lệ này là 2,22-3,68 đối với TTD; 1,57-2,79 đối với CTD, và 2,17-10,6 đối với TD, với sự khác biệt về giới có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm rối loạn Tic cũng như TD(6). Đối với nhóm TD, theo các báo cáo từ các mẫu lâm sàng cho thấy tỉ lệ nam/nữ của TD từ 3-4:1.
Liên quan giữa đặc điểm tuổi và giới: không ghi nhận sự khác biệt về giới tính giữa các nhóm độ tuổi khác nhau. Nagy P (2020) cũng không ghi nhận sự khác biệt này(1).
So sánh nhóm rối loạn Tic với nhóm TD:
Nghiên cứu của chúng tôi và các nghiên cứu lớn
trong cộng đồng như Kraft JT (2012)(7), Yang C (2016)(6) đều không ghi nhận có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về các đặc điểm dịch tễ học như giới tính, tuổi trung bình, độ tuổi giữa hai nhóm.
Các đặc điểm liên quan đến tiền căn
Sanh non/nhẹ cân: nghiên cứu của Burd (1999) so sánh 92 bệnh nhân Tic và 420 người nhóm chứng ghi nhận sanh non/nhẹ cân là một yếu tố nguy cơ của TD(8). Mathews CA (2014) lần đầu tiên tiến hành nghiên cứu hồi cứu với qui mô lớn tìm các yếu tố nguy cơ tiềm ẩn của môi trường đối với CTD và TD, sử dụng ngưỡng kết hợp ở p <0,05 trong mô hình đa biến không tìm thấy mối liên quan giữa TD hay CTD với trẻ sơ sinh sanh non/ nhẹ cân(9).
Sanh khó/sanh ngạt: có 5 bệnh nhân sanh khó/sanh ngạt chiếm (6,7%). Burd L (1999) cho rằng sanh khó/sanh ngạt là một yếu tố nguy cơ của CTD hay TD(8). Mathews CA (2014) không tìm thấy mối liên quan giữa TD hay CTD với yếu tố biến chứng khi sanh như sanh khó/sanh ngạt(9). Chúng tôi ghi nhận cả 5 trẻ sinh khó sinh ngạt đều trong nhóm TD.
Theo y văn, người thân thế hệ thứ 1 của các bệnh nhân ảnh hưởng có nguy cơ tăng gấp 5-15 lần mắc phải TD so với dân số chung. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của chúng tôi không ghi nhận tỉ lệ tương đồng này. Nagy P (2020) cho rằng sự hiện diện của chẩn đoán rối loạn Tic hay bệnh tâm thần đi kèm ở những người thân thế hệ thứ 1 của các bệnh nhân rối loạn Tic không có sự khác biệt giữa nhóm TD hay không TD.
Tiền căn mẹ hút thuốc lá trong thai kì:
Mathews CA (2014) không ghi nhận đặc điểm này là một trong những yếu tố nguy cơ của rối loạn Tic trẻ em, nhưng trong nghiên cứu của ông trước đó, năm 2006, thì ghi nhận có sự liên quan(9). Phụ nữ Việt Nam ít hút thuốc lá hơn so với phương Tây, nên đặc điểm này không được ghi nhận trong nghiên cứu của chúng tôi.
Các đặc điểm liên quan đến triệu chứng
Kiểu Tic: chủ yếu là rối loạn Tic vận động với 74 bệnh nhân (98,7%); Tic âm thanh có 34
bệnh nhân (45,3%); kết hợp cả 2 kiểu Tic vận động và âm thanh có 33 bệnh nhân (44%). Điều này tương đồng với các khảo sát về rối loạn Tic, cũng như TD trên thế giới, nhận thấy Tic vận động đơn giản là rối loạn Tic thường gặp nhất gồm chớp mắt, nhún vai, hoặc giật vùng đầu cổ.
Tic phức tạp có đặc điểm của các vận động có mục đích và phối hợp của nhiều nhóm cơ, ví dụ vỗ tay, bước đi với đặc điểm cố định và đạp xe.
Tic âm thanh đơn giản hay Tic phát âm được đặc trưng bởi các âm thanh ngắn như hắng giọng, ho hoặc khụt khịt mũi.
Tuổi xuất hiện triệu chứng đầu tiên của Tic dao động từ 2 - 11 tuổi, với tuổi trung bình là 6,2 tuổi. Trong nhóm TD, tuổi xuất hiện triệu chứng đầu tiên dao động từ 3-10 tuổi, với tuổi trung bình xuất hiện triệu chứng đầu tiên là 5,9 tuổi.
Freemann RD (2000) khảo sát trên 3500 người ở 22 quốc gia, cho thấy triệu chứng rối loạn Tic xảy ra trước 18 tuổi, điển hình khởi phát từ 4-8 tuổi, và tuổi khởi phát trung bình là 6 tuổi(10). Nagy P (2020) cũng cho thấy tuổi xuất hiện triệu chứng đầu tiên của TD là 5,9.
Cách khởi phát đa số triệu chứng Tic khởi phát từ từ (73,3%). Trong nhóm TD, cũng ghi nhận tính chất tương tự, với khởi phát từ từ chiếm 69,7%. Các tác giả khác trên thế giới, cho rằng Tic vận động thường tiến triển liên tục theo thời gian, Tic âm thanh thường phát triển từ 1-2 năm sau khi bắt đầu Tic vận động.
Tuổi xuất hiện triệu chứng Tic xấu nhất:
dao động từ 3-13 tuổi, với tuổi trung bình là 7,8 tuổi. Trong nhóm TD, tuổi xuất hiện triệu chứng Tic xấu nhất dao động từ 3-12 tuổi, với tuổi trung bình là 7,8 tuổi. Y văn cũng ghi nhận độ nặng của triệu chứng Tic nặng dần và đạt đến đỉnh vào khoảng tuổi 10-12, sau đó giảm dần và một số tự thoái lui ở giai đoạn muộn của tuổi thiếu niên.
ADHD đồng mắc
Các triệu chứng tăng động kém chú ý (kém chú ý, tăng động-bốc đồng, hoặc cả hai) thường xuất hiện trước khi Tic khởi phát từ 2-3 năm. Ở những bệnh nhân Tic, sự thêm vào các triệu
chứng của ADHD có tương quan với việc tăng sự suy giảm khả năng lên kế hoạch, trí nhớ công việc, khả năng điều hòavà tăng khó khăn về tâm lý xã hội và trường học, tính hung hăng, hành vi gián đoạn, các vấn đề về cảm xúc, tổn thương chức năng, và mất khả năng học hỏi.
Bảng 6: Tỉ lệ ADHD đồng mắc
ADHD Không ADHD
Nagy P (2020)(1) 31% 69%
Kraft JT (2011)(7) 38,4% 61,6%
Specht MW(2011)(11) 26% 74%
Phạm Quỳnh Diệp (2003)(1) 40,8% 59,2%
Chúng tôi (2020) 36,4% 63,6%
Chúng tôi ghi nhận có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm có hay không có bệnh ADHD phối hợp về tuổi xuất hiện triệu chứng Tic xấu nhất, với nhóm có ADHD xuất hiện trễ hơn ở độ tuổi trung bình 8,8 tuổi, trong khi nhóm không ADHD tuổi trung bình là 7,3 tuổi, tương đồng với nghiên cứu Roessner V (2007)(12).
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu khảo sát đặc điểm lâm sàng của 75 bệnh nhi mắc rối loạn Tic tại bệnh viện Nhi Đồng 2, từ tháng 2/2020 đến tháng 6/2020, chúng tôi có một số kết luận sau:
- Tỉ lệ rối loạn Tic tạm thời, rối loạn Tic vận động mạn tính, rối loạn Tic âm thanh mạn tính và rối loạn Tourette lần lượt là 5,3% 49,3%, 1,3%
và 44,0%.
- Tỉ lệ nam/nữ là 4,7 cho toàn bộ nhóm nghiên cứu; riêng rối loạn Tourette, tỉ lệ này là 5,6.
- Tuổi phân bố từ 5-14 tuổi, tuổi trung bình là 8,6 tuổi; nhóm rối loạn Tourette có tuổi trung bình là 8,4 tuổi. Tuổi xuất hiện triệu chứng Tic xấu nhất dao động từ 3-13 tuổi.
- Tiền căn sanh khó/sanh gặp ở trẻ rối loạn Tourette cao hơn so với nhóm không rối loạn Tourette. Các đặc điểm về tuổi, giới tính, tiền căn và triệu chứng Tic không có sự khác biệt giữa nhóm không Tourette và có Tourette.
- Tỉ lệ ADHD đồng mắc là 33,3%; trong nhóm rối loạn Tourette là 36,4%. Không có sự khác biệt về tuổi, giới tính, tiền căn nhẹ cân và các đặc điểm triệu chứng và loại rối loạn Tic giữa nhóm có ADHD và không ADHD. Đối với rối loạn Tourette, tuổi xuất hiện triệu chứng Tic xấu nhất ở nhóm có ADHD cao hơn nhóm không ADHD.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nagy P, Bognár E, Farkas L, et al (2020). Clinical characteristics of children with Tourette's Syndrome. Psychiatr Hung, 35(1):37- 45.
2. Phạm Quỳnh Diệp, Đào Trần Thái, Nguyễn Văn Nuôi (2003).
Khảo sát các biểu hiện lâm sàng và hiệu quả điều trị ban đầu rối loạn Tic trên trẻ em. Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 7(1):254- 260.
3. Robertson MM (2008). The prevalence and epidemiology of Gilles de la Tourette syndrome. Part 1: the epidemiological and prevalence studies. J Psychosom Res, 65(5):461-472.
4. Knight T, Steeves T, Day L, et al (2012). Prevalence of tic disorders: a systematic review and meta-analysis. Pediatr Neurol, 47(2):77-90.
5. Scharf JM, Miller LL, Gauvin CA, et al (2015). Population prevalence of Tourette syndrome: a systematic review and meta-analysis. Mov Disord, 30(2):221-228.
6. Yang C, Zhang L, Zhu P, Zhu C, Guo Q (2016). The prevalence of tic disorders for children in China: A systematic review and meta-analysis. Medicine, 95(30):e4354.
7. Kraft JT, Dalsgaard S, Obel C, (2012). Prevalence and clinical correlates of tic disorders in a community sample of school-age children. Eur Child Adolesc Psychiatry, 21(1):5-13.
8. Burd L, Severud R, Klug MG, Kerbeshian J (1999). Prenatal and perinatal risk factors for Tourette disorder. J Perinat Med, 27(4):295-302.
9. Mathews CA, Scharf JM, Miller LL, et al (2014). Association between pre- and perinatal exposures and Tourette syndrome or chronic tic disorder in the ALSPAC cohort. Br J Psychiatry, 204(1):40-45.
10. Freeman RD, Fast DK, Burd L, Kerbeshian J, et al (2000). An international perspective on Tourette syndrome: selected findings from 3,500 individuals in 22 countries. Dev Med Child Neurol, 42(7):436-447.
11. Specht MW, Woods DW, Piacentini J, et al (2011). Clinical characteristics of children and adolescents with a primary tic disorder. J Dev Phys Disabil, 23(1):15-31.
12. Roessner V, Becker A, Banaschewski T, et al (2007).
Developmental psychopathology of children and adolescents with Tourette syndrome--impact of ADHD. Eur Child Adolesc Psychiatry, 16 (Suppl 1):24-35.
Ngày nhận bài báo: 10/11/2020
Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 01/02/2021 Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021