VỢ CHỒNG A PHỦ (Tô Hoài)
Câu 1: Phân tích tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài. (Hay sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân)
DÀN Ý I. Mở bài
Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông có vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng văn hoá khác nhau trên đất nước ta. Thành công nhất của Tô Hoài là những tác phẩm viết về hiện thực cuộc sống, con người vùng Tây Bắc.
Tiêu biểu là truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”. Tác phẩm vừa là một bức tranh chân thực về số phận bi thảm của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức phong kiến và thực dân, vừa là một bài ca về sức sống và khát vọng tự do, hạnh phúc của con người. Vẻ đẹp ấy đã ngời lên thật trọn vẹn qua diễn biến tâm trạng Mị và sức sống tiềm tàng mãnh liệt của nhân vật này qua đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài.
II. Thân bài 1. Khái quát
Truyện “Vợ chồng A Phủ” được nhà văn Tô Hoài sáng tác năm 1952, in trong tập “Truyện Tây Bắc”. Tác phẩm gồm hai phần: phần đầu kể về cuộc sống tủi nhục của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài; phần sau kể về Mị và A Phủ ở Phiềng Sa, họ thành vợ chồng. Được cán bộ A Châu giác ngộ cách mạng, A Phủ trở thành tiểu đội trưởng du kích cùng Mị đánh Pháp bảo vệ dân làng.
Đoạn trích trong sách giáo khoa là phần thứ nhất của tác phẩm. Trong tác phẩm này, diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân được xem là ấn tượng nhất – thể hiện tài năng nghệ thuật bậc thầy của Tô Hoài trong việc miêu tả tâm lý nhân vật.
2. Nội dung
2.1. Mị là người phụ nữ xinh đẹp, có tài năng, có nhân phẩm cao đẹp nhưng lại có cuộc sống thống khổ.
– Trước khi vào nhà thống lý Pá Tra, Mị là một cô gái trẻ đẹp: Trong tác phẩm này, nhà văn không hề dùng mỹ từ nào để tả cái đẹp của Mị, nhưng vẻ đẹp ấy vẫn hiện lên qua chi tiết: “trai đến đứng nhẵn vách đầu buồng Mị”. Mị chính là bông hoa ngát hương của núi rừng Tây Bắc. Cô có một cuộc sống tự do, hạnh phúc, vô tư giữa tháng ngày tuổi trẻ.
Cô gái vùng cao ấy, mỗi khi tết đến xuân về thường làm bao kẻ si tình chết mê, chết mệt bởi tiếng sáo. Mị thổi sáo giỏi “thổi lá cũng hay như thổi sáo, có biết bao người mê ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”.
Không chỉ đẹp người, cô gái ấy còn đẹp nết. Mị giàu lòng hiếu thảo, có tình yêu lao động, yêu tự do, giàu lòng tự trọng. Tô Hoài đã đặt vào miệng Mị tất cả những phẩm chất cao quý ấy qua lời nói đầy tha thiết với cha già: “con nay đã biết cuốc nương làm ngô” (tình yêu lao động); “con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố” (lòng hiếu thảo); “bố đừng bán con cho nhà giàu” (giàu lòng tự trọng).
– Khi bị bắt làm dâu nhà Pá Tra: Mị có cuộc sống thống khổ, là nạn nhân của chế độ cho vay nặng lãi, bị tước đoạt tự do, hạnh phúc cá nhân: mở đầu tác phẩm, nhà văn đã giới thiệu nhân vật một cách ấn tượng: “Ai ở xa về có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”. Lúc nào cô ấy cũng “cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Dáng vẻ ấy của Mị gợi ra hình ảnh một con người có số phận đau khổ.
– Tìm hiểu vào truyện, ta thấy Mị là nạn nhân của chế độ cho vay nặng lãi, bị tước đoạt tự do, hạnh phúc cá nhân, cuộc sống tủi nhục hơn trâu ngựa: “Bây giờ thì Mị cũng tưởng mình là con trâu, mình cũng là con ngựa…”. Tâm lý cam chịu, buông xuôi, cách sống âm thầm, lặng lẽ đã in dấu sâu đậm lên dáng vẻ bên ngoài của Mị: “Mỗi ngày Mị càng không nói, cứ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Cô gái trẻ ấy chỉ biết “ngồi trong cái lỗ vuông ấy trông ra đến bao giờ chết thì thôi”.
Chuyển đoạn. Dù cuộc sống thống khổ, trong Mị vẫn mãnh liệt một sức sống tiềm tàng và khát vọng tự do, hạnh phúc. Khát vọng ấy đã bùng cháy lên khi mùa xuân đến trên đất Hồng Ngài. Đúng như Tô Hoài nhận định “Kỳ lạ thay, dẫu trong mọi cùng cực đến thế, mọi thế lực của tội ác cũng không tiêu diệt được sức sống con người. Đói khổ, lay lắt, nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng mãnh liệt”.
2.2. Sức sống tiềm tàng của Mị cũng như diễn biến tâm trạng của nhân vật này bắt đầu đến từ những tín hiệu mùa xuân, tín hiệu đêm tình:
– Thiên nhiên mùa xuân tác động đến Mị: đó là một mùa xuân rộn rã âm thanh, sắc màu của
“váy hoa xoè như con bướm sặc sỡ” hoà trong “gió rét thổi vào cỏ gianh vàng ửng”; tiếng trẻ đợi tết chơi quay cười ầm trên sân trước nhà. Chính cái náo nức của đất trời cũng là cái náo nức của lòng người.
– Khi nghe tiếng sáo gọi bạn “lấp ló ngoài đầu núi”: Mị thấy trái tim mình “thiết tha, bổi hổi”, Mị ngồi “nhẩm thầm” lời bài hát của người đang thổi sáo. Tiếng sáo ấy đã lâu rồi không thổi, bài hát ấy từ lâu cũng đã quên. Nhưng hôm nay Mị vẫn nhớ, vẫn thuộc, vẫn nhẩm thầm. Vậy là Mị chưa có nghĩa đã hoàn toàn vô cảm. Hay nói đúng hơn, chính tiếng sáo là tác nhân đã lay động sâu xa tâm hồn Mị và đánh thức quá khứ cùng hiện tại của Mị. Tiếng sáo là một ẩn dụ cho tự do,
cho tuổi trẻ và ký ức đẹp tươi của cô gái trẻ người Mèo. Tiếng sáo cũng chính là men tình đã đánh thức tâm hồn và lý trí của Mị.
2.2. Sau khi nghe tiếng sáo: “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Đây thực chất là một
“cuộc nổi loạn nhân tính” của Mị. Cách uống ấy là sự dồn nén của những ẩn ức, phẫn uất nên uống rượu mà cứ như nuốt cay nuốt hận vào lòng. Rượu làm Mị say “ngồi trơ một mình giữa nhà”. Nhưng “lòng Mị thì đang sống về ngày trước”. Mị đi đi về về giữa hai thế giới: quá khứ và hiện tại; tỉnh và say…. Mị nhớ về thời con gái của mình “ngày trước Mị thổi sáo giỏi, thổi lá cũng hay như thổi sáo, có biết bao người mê ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Nhưng đối lập với ký ức tươi đẹp ấy là hiện tại đầy tủi nhục của Mị “A Sử chẳng bao giờ cho Mị đi chơi tết”.
2.3. Khát vọng tự do, hạnh phúc còn được thể hiện qua tâm trạng của Mị khi ở trong buồng.
Căn buồng là địa ngục, ngoài kia là thiên đường. Thiên đường và địa ngục chỉ cách nhau có một ô cửa bằng bàn tay. Nhưng sự tủi nhục không ngăn được lòng yêu tự do của Mị. Bởi: “đã từ nãy Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước”.
Những từ ngữ như “phơi phới”, “đột nhiên vui sướng”… như diễn tả tận sâu thẳm niềm khao khát của Mị. Mị nhận ra “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Câu văn sử dụng phép điệp: trẻ lắm, còn trẻ,…kết hợp kiểu câu đơn ngắn làm nhịp điệu câu văn dồn dập, góp phần cho thấy tình yêu tự do và ý thức về bản thân chưa bao giờ bị dập tắt trong Mị. Nó giống như hòn than âm ỉ cháy trong lớp tàn tro giờ có dịp bùng cháy.
– Mị lại tủi thân khi nghĩ về A Sử: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra”. Như vậy, khi linh hồn đã trở về, Mị không chỉ ý thức được giá trị của tinh thần mà còn ý thức được hoàn cảnh sống nghiệt ngã. Muốn chết cũng là sự thể hiện rất mãnh liệt sức sống tiềm tàng ẩn chứa trong tâm hồn cô gái Mèo. Nhưng trong cảm xúc đầy bi kịch và sự tuyệt vọng ấy, tiếng sáo lại đến: “tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường”. Tiếng sáo đầy mê hoặc, quyến rũ, như lôi kéo Mị, đưa Mị từ vực sâu của tuyệt vọng thăng hoa trở lại cùng khát vọng tự do. Có thể nói: chính tiếng sáo làm Mị ý thức sâu sắc hơn bi kịch của mình, từ đó tự đánh thức mình bằng khát vọng tự do.
2.4. Khát vọng tự do không chỉ tồn tại trong suy nghĩ mà còn thể hiện trong hành động: “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào dĩa đèn cho sáng… Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi…Mị cuốn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách… Mị rút thêm cái áo”. Đây chính là sự “nổi loạn” trong Mị với khát vọng tự do trào sôi, mãnh liệt. Câu văn được ngắt bởi nhiều dấu phẩy, nhịp gấp, nhiều động từ được huy động: lấy, xắn, bỏ, đi chơi, cuốn lại tóc, lấy váy hoa, rút thêm cái áo… làm cho những hành động của nhân
vật trở nên mạnh mẽ, cương quyết, táo bạo. Đó là lúc ngọn lửa khao khát tự do đang cháy lên trong Mị, bất chấp sự hiện diện của A Sử. Giờ đây, bóng đêm của cường quyền bạo ngược và thần quyền đã không thể nào vùi dập được Mị. Bởi khát vọng tự do trong Mị đang lớn hơn tất cả mọi nỗi sợ hãi.
– Kể cả lúc bị trói. Mị cũng không biết mình đang bị trói. Dù bị vùi dập phũ phàng, khát vọng tự do trong Mị không hề mất đi. Thể xác Mị nằm đây giữa bốn bức tường lạnh lẽo, nhưng tâm hồn Mị đã đi theo tiếng sáo mênh mang gọi bạn tình, Mị vẫn “đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Bởi vậy khi tiếng sáo nhập vào hồn Mị – “vùng bước đi”. Là lúc dây trói siết lại đau nhức.
Cơn đau thể xác đã đánh thức Mị, rồi Mị tỉnh. Tiếng sáo vụt biến mất, chỉ còn “tiếng chân ngựa đạp vào vách”. Tô Hoài đã khéo léo lồng vào chi tiết này âm thanh của tiếng chân ngựa. Tiếng sáo là âm thanh của giấc mơ; tiếng chân ngựa là âm thanh đau buồn của thực tại. Thực tại đập vỡ giấc mộng làm tiêu tan tiếng sáo. Âm thanh tiếng chân ngựa đánh thức Mị, đập vỡ cả giấc mơ của Mị, kéo Mị từ thiên đường trở về địa ngục. Nỗi đau thể xác ngay lập tức chuyển hoá thành nỗi đau tinh thần vì Mị chợt nhận ra: “Mình không bằng con ngựa”.
Như vậy, cuộc trỗi dậy thứ nhất của Mị không thành, Mị không thoát khỏi cảnh ngục tù trần gian nhưng ít ra Mị cũng đã sống lại những thời khắc tươi đẹp của tuổi trẻ. Sức sống của Mị, sự hồi sinh của Mị được đặt trong một thử thách khắc nghiệt, một hiện thực phũ phàng nhưng qua đó lại càng khẳng định một chân lí rằng: sức sống của con người dù bị dẫm đạp, bị trói chặt nhưng nó không chết mà luôn âm ỉ cháy, chỉ gặp dịp là bùng lên mạnh mẽ. Đúng như Lỗ Tấn đã từng nói:
“Một tia lửa nhỏ hôm nay báo hiệu đám cháy ngày mai”. Hành động của Mị tuy bột phát nhưng sẽ hứa hẹn một tương lai bừng cháy ở phía trước. Đây cũng chính là giá trị nhân đạo sâu sắc của nhà văn Tô Hoài.
3. Nghệ thuật
Nhà văn Tô Hoài xây dựng nhân vật Mị với nhiều điểm nghệ thuật đặc sắc. Giới thiệu nhân vật tự nhiên mà ấn tượng, kể chuyện ngắn gọn, dẫn dắt tình tiết khéo léo. Đặc biệt tâm trạng và hành động khá phức tạp của Mị được diễn tả, lí giải một cách cụ thể, hợp lí. Biệt tài miêu tả thiên nhiên và phong tục, tập quán của người dân miền núi. Ngôn ngữ kể chuyện sinh động, chọn lọc, sáng tạo, câu văn giàu tính tạo hình, đậm chất thơ.
III. KẾT BÀI
Tự làm
Câu 2: Phân tích nhân vật Mị
* Trước khi làm dâu nhà thống lí Pá Tra
Mị là cô gái Mèo xinh đẹp, hồn nhiên, yêu đời, có tài thổi sáo, hiếu thảo, có người yêu, suốt đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách. Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị.
Sinh ra trong gia đình nghèo, nhà Mị thiếu nợ nhà thống lí, mỗi năm phải trả lãi một nương ngô nên từ nhỏ Mị phải sống trong thiếu thốn và làm lụng vất vả. Ý thức được thân phận đã xin cha đừng bán con cho nhà giàu
* Cuộc sống thống khổ: Vì món nợ truyền kiếp, bị bắt làm con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra, bị đối xử tàn tệ, mất ý thức về cuộc sống.
- Mở đầu tác phẩm, Tô Hoài giới thiệu nhân vật Mị: ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa, và lúc nào cũng vậy… cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Đối nghịch với cái giàu sang của nhà Thống Lí giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng là bóng hình im lìm, tăm tối, nhọc nhằn của Mị. Đây là thủ pháp tạo tình huống "có vấn đề"
trong lối kể chuyện truyền thống, giúp tác giả mở lối dẫn người đọc cùng tham gia hành trình tìm hiểu những bí ẩn của số phận nhân vật.
- Mị là vợ A Sử, là con dâu gạt nợ. Mị bị bóc lột sức lao động đến cùng cực, chịu khổ triền miên. Công việc lúc nào cũng vẽ ra trước mắt Mị: quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi, gặt đay, xe đay, đi hái củi, hái thuốc phiện, đi nương bẻ bắp, cõng nước dưới khe suối lên... lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Mị làm việc hơn con trâu con ngựa, bởi con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả ngày lẫn đêm và suốt năm suốt đời như thế.
- Phải sống với kẻ mình không yêu, Mị đắm chìm trong đau khổ tột cùng Có đến hàng mấy tháng trời đêm nào Mị cũng khóc. Đau khổ quá, Mị muốn tự tử nhưng Mị không đành lòng chết, Mị chết thì bố Mị còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ, vì thương bố nên Mị cam chịu quay trở lại nhà thống lí.
Chính khát vọng được sống một cuộc sống đúng nghĩa của nó khiến Mị không muốn chấp nhận cuộc sống bị chà đạp, cuộc sống lầm than, tủi cực, bị đối xử bất công như một con vật. Tất cả những phẩm chất trên đây sẽ là tiền đề, là cơ sở cho sự trỗi dậy của Mị sau này. Nhà văn miêu tả những tố chất này ở Mị khiến cho câu chuyện phát triển theo một lôgíc tự nhiên, hợp lí. Chế độ phong kiến nghiệt ngã cùng với tư tưởng thần quyền có thể giết chết mọi ước mơ, khát vọng, làm tê liệt cả ý thức lẫn cảm xúc con người nhưng từ trong sâu thẳm, cái bản chất người vẫn luôn tiềm ẩn và chắc chắn nếu có cơ hội sẽ thức dậy, bùng lên
- Mị chịu nỗi khổ đau về tinh thần triền miên, bị giam hãm trong không gian chật hẹp, tù đọng. Đó là cuộc sống tù túng, chật chội, nô lệ, tối tăm, thiếu cả không khí và ánh sáng. Mị bị trình ma nhà Thống Lí thì chỉ còn biết đợi ngày rã xương ở đây thôi. Cuộc sống cùng khổ về vật chất, bế tắc về tinh thần. Ở cái buồng Mị nằm kín mít, có một chiếc cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay nắng. Mị nghĩ rằng cứ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi.
- Mị cam chịu cảnh ngộ sống lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa vì ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi. Bây giờ Mị thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi.
Cuộc đời Mị có ý nghĩa điển hình cho số phận của người lao động Tây Bắc dưới ách áp bức, bóc lột của bọn chúa núi và sự ràng buộc của những tập tục cổ hủ của người Mèo.
* Sức sống tiềm tàng và khát vọng hạnh phúc
- Không khí rạo rực và rất đặc biệt của mùa xuân Hồng Ngài năm ấy khiến tâm hồn Mị vốn đã chai sạn bỗng nhiên thức tỉnh, làm trỗi dậy lòng ham sống, khát vọng hạnh phúc.
+ Thời tiết: gió và rét rất dữ dội
+ Âm thanh rộn rã của trẻ thơ chơi đùa, tiếng chó sủa xa xa gọi những đêm tình mùa xuân và đặc biệt là ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi, Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi. Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi.
+ Màu sắc sặc sỡ của váy áo phơi trên các mỏm đá như những com bướm xoè.
- Tất cả đã đánh thức kỉ niệm trong tâm hồn Mị
+ Mị đã thức tỉnh và muốn thoát khỏi thực tại. Mị tìm đến rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát, uống trong ấm ức, uống để vơi đi nỗi buồn. Càng uống càng say, những kí ức tươi đẹp ngày xưa lại ùa về, Mị sống lại cả một thời xuân sắc. Trong men rượu nồng nàn, cõi lòng Mị đã phơi phới trở lại với cái ý nghĩ lạ lùng mà rất chân thật Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Mị đã ý thức được tình cảnh đau xót của mình. Những giọt nước mắt tưởng đã cạn kiệt vì đau khổ đã lại có thể lăn dài. Tai Mị rập rờn tiếng sáo, lúc đó Mị thực sự đã sống dậy với tuổi trẻ và tình yêu. Mị vùng dậy, Mị muốn đi chơi.
+ Mị xắn thêm mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng, quấn lại tóc, rút áo và lấy váy hoa. Mị muốn thắp lên ánh sáng cho căn phòng bấy lâu chỉ là bóng tối. Mị muốn thắp lên ánh sáng cho cuộc đời tăm tối của mình.
+ A Sử trói đứng Mị vào cột, đau nhức, xót xa, tủi hổ vô cùng nhưng lòng cô vẫn như đang bay theo tiếng sáo, đang sống với những khao khát cháy bỏng, vẫn dõi theo những cuộc chơi, vẫn thổn thức về thân phận mình không bằng con ngựa, vẫn bồi hồi nghe tiếng sáo, vẫn nồng nàn tha thiết nhớ về những ngày tươi đẹp xa xưa.
- Khi bàng hoàng tỉnh, Mị lại nghĩ đến thân phận thê thảm của những người đàn bà nghèo miền núi, Mị thấy sợ, Mị cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết, Mị vẫn muốn sống, sức sống ở Mị vẫn mãnh liệt. Trói buộc lúc ấy không khuất phục được con người, có chăng nó chỉ làm cho khát vọng sống trở nên mạnh mẽ hơn mà thôi.
Trong đoạn diễn tả tâm trạng hồi sinh của Mị, tiếng sáo có một vai trò đặc biệt quan trọng.
+ Tô Hoài đã miêu tả tiếng sáo như một dụng ý nghệ thuật để lay tỉnh tâm hồn Mị.
+ Tiếng sáo là biểu tượng của khát vọng tình yêu tự do, đã theo sát diễn biến tâm trạng Mị, là ngọn gió thổi bùng lên đống lửa tưởng đã nguội tắt.
Tô Hoài đã đặt sự hồi sinh của Mị vào tình huống bi kịch: khát vọng mãnh liệt - hiện thực phũ phàng khiến cho sức sống ở Mị càng thêm phần dữ dội. Qua đây, nhà văn muốn phát biểu một tư tưởng: sức sống của con người cho dù bị giẫm đạp, bị trói chặt vẫn không thể chết mà luôn luôn âm ỉ, chỉ gặp dịp là bùng lên.
Đây là một trong những đoạn truyện thể hiện tài năng miêu tả tâm lí xuất sắc của Tô Hoài bằng sự am hiểu sâu sắc đời sống tinh thần của đồng bào miền núi, sự am hiểu quy luật “tức nước vỡ bờ”. Sau những đêm tình mùa xuân, sau những lần vùng lên mạnh mẽ nhưng bị chà đạp tàn nhẫn, ngọn lửa tình yêu và tự do trong Mị nguội dần nhưng nó không tắt mà âm ỉ cháy.
* Sức phản kháng mạnh mẽ: thể hiện qua hành động cởi trói cho A Phủ, tự thoát khỏi cuộc đời tủi nhục, nô lệ.
- Chứng kiến cảnh A Phủ bị đánh và bị trói đứng, lúc đầu Mị không quan tâm, Mị rất dửng dưng: Mị vẫn thản nhiên ngồi thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác đứng đấy cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa.
- Một đêm sau khi ngọn lửa bập bùng sáng lên Mị lé trông sang, thấy hai mắt của A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại. Mị động lòng thương. Mị thương bởi Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị,... nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được.
- Lòng thương người của Mị bắt đầu từ sự thương thân, thương thân rồi thương người, rồi nhận ra chúng nó thật độc ác. Hơn nữa A Phủ không đáng tội chết: Người kia việc gì phải chết.
- Tâm lí của Mị lúc này diễn biến, thay đổi rất nhanh. Trước đó Mị từng sợ hãi, nhưng giờ đây làm sao Mị cũng không thấy sợ. Lòng xót thương, sự đồng cảm với một người tuyệt vọng, chờ chết thúc đẩy Mị hành động. Lòng căm thù, cũng như nhận thức sự bất công, vô lí đã thắng mọi sự sợ hãi trong lòng Mị dẫn đến hành động cắt nút dây mây, cởi trói, giải thoát cho A Phủ.
- Khao khát sống lúc ấy bừng lên trong Mị, Mị chạy theo, cùng trốn đi với A Phủ.
Hành động cứu người đồng thời cũng là giải thoát cho mình Cắt sợi dây mây vừa cụ thể đồng thời cũng cắt được sợi dây vô hình, trói buộc con người. Đó là tình thương người và tinh thần phản kháng. Tinh thần phản kháng và khát vọng hạnh phúc đã chiến thắng.
Câu 2. Phân tích nhân vật A Phủ
* Số phận đặc biệt
- Chú bé A Phủ từ tuổi thơ đã mồ côi cả cha lẫn mẹ, không còn người thân thích trên đời vì cả làng A Phủ không mấy ai qua được trận dịch. A Phủ sống sót không phải nhờ sự ngẫu nhiên mà vì chú là một mầm sống khoẻ, đã vượt qua được sự sàng lọc nghiệt ngã của tự nhiên, A Phủ bị bắt đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái.
- Tuy mới mười tuổi, nhưng A Phủ gan bướng, không thích ở dưới cánh đồng thấp, trốn thoát lên núi, lưu lạc tới Hồng Ngài.
- Lớn lên giữa núi rừng, A Phủ trở thành chàng trai Mông khoẻ mạnh chạy nhanh như ngựa, biết đúc lưỡi cày, biết đúc cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo.
+ Con gái trong làng nhiều người mê, nhiều người nói: “Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu”. Người ta ao ước đùa thế thôi, chứ A Phủ vẫn rất nghèo.
+ A Phủ không có cha, không có mẹ, không có ruộng, không có bạc, suốt đời làm thuê, làm mướn, phép làng và tục lệ cưới xin ngặt đến nỗi A Phủ không thể nào lấy nổi vợ.
* A Phủ với cá tính đặc biệt:
- Cá tính gan góc của A Phủ vốn đã bộc lộ từ năm lên mười, cá tính ấy lại được chính cuộc sống hoang dã của núi rừng cùng hoàn cảnh ở đợ làm thuê nhiều cực nhọc, vất vả hun đúc để A Phủ trở thành một chàng trai có tính cách mạnh mẽ, táo bạo. A phủ đánh A Sử con trai thống lí Pá. Ở vùng núi cao, bọn chúa đất như thống lí Pá Tra là một thứ trời con, con trai thống lí là con trời, không ai dám đụng tới. Nhưng A Phủ không sợ. Với A Phủ, A Sử chỉ là đứa phá đám cuộc chơi, cần phải đánh.
- Trận đòn mà Phủ đành cho A Sử được miêu tả thật sống động: với hàng loạt các động từ cùng lối miêu tả các động tác nhanh, gấp: chạy vụt ra, ném, lăng, xộc tới, nắm cái uổng cổ, kéo
dập đầu xuống, xé lai áo, đánh tới tấp... cho thấy sức mạnh và tính cách con người A Phủ qua hành động.
- A Phủ đã phải trả một cái giá rất đắt cho hành động táo tợn ấy. Nhưng là người đơn giản, A Phủ không quan tâm:
+ Khi đã phải sống thân phận của kẻ làm công trừ nợ, A Phủ vẫn là một chàng trai của tự do, dù phải quanh năm một thân một mình “đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa...” nhưng cũng là quanh năm A Phủ “bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng”
làm phăng phăng mọi thứ, không khác với những năm tháng trước kia.
+ Vì mải bẫy nhím, để hổ bắt mất bò, A Phủ điềm nhiên vác nửa con bò hổ ăn đó về. A Phủ nói chuyện đi “lấy con hổ về” một cách thản nhiên và coi đó là một chuyện rất dễ dàng.
+ A Phủ cãi lại thống lí cũng rất điềm nhiên: A Phủ không biết sợ cái uy của bất cứ ai. Con hổ hay thống lí Pá Tra cũng thế thôi.
+ Kể cả khi lẳng lặng đi lấy cọc và dây mây, rồi đóng cọc để người ta trói đứng mình chết thế mạng cho con vật bị mất, A Phủ cũng làm các việc ấy một cách thản nhiên, không nói. Là người mạnh mẽ và gan góc, A Phủ không sợ cả cái chết...
* Cảnh xử kiện quái đản, lạ lùng
+ Cuộc xử kiện diễn ra trong khói thuốc phiện mù mịt tuôn ra các lỗ cửa sổ như khói bếp.
"Người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong một lượt đánh, kể, chửi, lại hút. Cứ thế từ trưa đến hết đêm".
+ Còn A Phủ gan góc quỳ chịu đòn chỉ im như tượng đá.
+ Hủ tục và pháp luật trong tay bọn chúa đất nên kết quả: A Phủ trở thành đứa ở trừ nợ đời đời kiếp kiếp cho nhà Thống lí Pá Tra
Cảnh xử kiện quái đản, lạ lùng và cảnh A Phủ bị đánh, bị trói vừa tố cáo sự tàn bạo của bọn chúa đất vừa nói lên tình cảnh khốn khổ của người dân.
Chính sức sống tiềm tàng, lòng khao khát được sống mà A Phủ đã chiến thắng nỗi đau thể xác, vùng lên để tìm sự sống. A Phủ là điển hình cho số phận của người dân lao động miền núi Tây Bắc, cuộc đời anh không bế tắc. Sự vùng dậy của A Phủ từ tự phát đến tự giác cũng là con đường Cách mạng của nhân dân lao động miền núi. Nhân vật A Phủ đã được khắc hoạ thành công. Sở trường quan sát nhạy bén và khả năng thiên phú trong việc nắm bắt cá tính con người là hai yếu tố đã giúp nhà văn, chỉ với mấy nét đơn sơ mà tạo dựng được một hình tượng đặc sắc.
Câu 3: Qua số phận hai nhân vật Mị và A Phủ, hãy phát biểu ý kiến của anh ( chị ) về giá trị nhân đạo của tác phẩm
A) Mở bài
- Giới thiệu khái quát về tác giả - Giới thiệu khái quát về tác phẩm
- Giới thiệu vấn đề nghị luận ( giá trị nhân đạo của tác phẩm ) B) Thân bài
1) Giải thích ngắn gọn thuật ngữ “ giá trị nhân đạo” của tác phẩm.
- Thế nào là một tác phẩm văn học có giá trị nhân đạo ?
+ Trước hết phải tập trung tố cáo, vạch trần tội ác của những thế lực đang chà đạp lên quyền sống của con người
+ Thứ hai phải tập trung biểu dương, ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người + Nhà văn trong t/p phải thông cảm và thấu hiểu được tâm tư, tình cảm cũng như nguyện vọng và mơ ước của con người, giúp họ nói lên những ước nguyện và đấu tranh để giành những ước nguyện ấy
2) Giá trị nhân đạo trong Vợ chồng A Phủ
a) Sự thông cảm sâu sắc của tác giả đối với cuộc sống bị đày đoạ tủi nhục của con ngườiTây Bắc ( cuộc sống nô lệ của Mị và A Phủ trong nhà thống lí Pá Tra )
- Chúng ta xót xa cho thân phận của Mị, cô gái Mèo xinh đẹp, chỉ vì nghèo mà phải biến thành con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Cuộc sống địa ngục ở nhà tên chúa đất đã biến một cô gái trẻ trung, hồn nhiên, giàu mơ ước thành một nô lệ lầm lũi, cam chịu, thành một con vật “mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, thậm chí nhiều khi Mị thấy mình không bằng một con vật. Trong đêm tình mùa xuân, bị trói đứng vào cột. Mị “chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vách. Ngựa vẫn đứng gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”
- Cuộc sống nô lệ tăm tối như trong ngục tù của Mị được t/g đặc tả bằng căn buồng của cô “ở buồng Mị nằm kín mít, có một chiếc cửa sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng mình chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi”
- Mị không chỉ bị bóc lột sức lao động mà còn bị áp chế về mặt tinh thần..
- Số phận bi thảm của Mị là điển hình cho ngàn vạn người con gái miền núi trước cách mạng tháng Tám. Tác giả còn khéo léo hé mở cho bạn đọc thấy thân phận của bao người con gái khác, trước hết là những người vợ, những người bị bắt về làm dâu trong nhà bọn chúa đất “Đời người đàn bà lấy chồng nhà giàu ở Hồng Ngài thì một đời người chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng”
- Số phận nô lệ, tủi nhục của người dân miền núi còn được bổ sung và hoàn chỉnh bằng cuộc đời rách nát đầy khốn khổ của A Phủ
+ Cũng như Mị, A Phủ vốn là người thanh niên tràn đầy sự sống, khoẻ mạnh, cường tráng. “A Phủ khoẻ, chạy nhanh như ngựa, con gái trong làng nhiều người mê…” thế mà chỉ vì một lần va chạm với A Sử mà bỗng biến thành nô lệ cho nhà thống lí, mãn kiếp không thể ngóc đầu lên để được làm người, nếu không gặp cách mạng
b) Giá trị nhân đạo còn thể hiện ở chỗ nhà văn đã vạch trần những hành vi và việc làm bạo ngược, đầy bất công ngang trái của cha con thống lí Pá Tra.
- Cảnh A Sử trói vợ, không cho đi chơi tết “A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xoã xuống. A Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng đầu nữa…”
- Cảnh xử kiện : “cứ mỗi đợt hút thuốc phiện xong, A Phủ lại phải quì giữa nhà, lại bị người xô đến đánh, mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. Người thì đánh, người thì quì lạy, kể lể chửi bới. Xong một trận đánh, kể, chửi, lại hút.. cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút…” thật khó có sự bất công, tàn bạo nào hơn.
c) Nhà văn thông cảm và thấu hiểu những tâm tư tình cảm, tâm trạng của những con người khốn khổ
- Bên trong con người lầm lũi, khổ đau của Mị, Tô Hoài đã nhìn thấy một sức sống nội tâm hết sức mạnh mẽ và phong phú. Trong đêm mùa xuân bị trói ấy, tuy thể xác bị hành hạ, cầm tù
nhưng tâm hồn Mị hoàn toàn tự do “hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Mị vẫn bay bổng theo “Tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường”
“Em ném quả pao, em không bắt Em không yêu quả pao rơi rồi Em yêu người nào, em bắt quả pao”
- Tác giả cũng cho thấy những tính cách, phẩm chất tốt đẹp của A Phủ: trung thực, thật thà, ngay thẳng, cần cù, chất phác…
d) Thể hiện ước mơ của con người
- Mị và A Phủ bỏ trốn, chạy đến Phiềng Sa, được giác ngộ cách mạng, làm lại cuộc đời.
C) Kết bài: Đánh giá khái quát lại vấn đề, những thành tựu, đóng góp của truyện ngắn vào kho tàng văn học, vào truyền thống nhân đạo của dân tộc.
Đề 4: Phân tích tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân a.ĐVĐ
Chi tiết NT là yếu tố tạo nên cảnh tượng .Tạo chi tiết NT đặc sắc trong thể loại truyện ngắn là thành ông thuộc bút pháp NT nhà văn .Tiếng sáo đêm tình mùa xuân Tô Hoài tạo ra trong
“VCAP” để thể hiện nội tâm sâu kín ,lòng yêu đời khác vọng sức sống tiềm tàng của Mị .TH đã dùng tiếng sáo –một thứ âm thanh quen thuộc của con người Tây Bắc làm nên sức mạnh thần kì để mở tấm cửa tâm hồn Mị đã im ỉm khóa bao năm.
b.GQVĐ
- Giới thiệu khái quát “VCAP”
“VCAP” ra đời 1953 sau chuyến TH theo bộ đội chủ lực đi công tác 8 tháng ở Tây Bắc vào 1952. VCAP là truyện ngắn xuất sắc của TH nằm trong tập “Truyện Tây Bắc” được giải I Vh NG.Đ Chiểu 1954-1955 “Truyện Tây Bắc” viết về cuộc sống tủi nhục của đồng bào thiểu số Tây Bắc sống trong ách đô hộ của bọn lang đạo phìa đạo đồng thời diễn tả sâu sắc khát vọng đổi đời và khả năng làm CM của nhữ nông dân nô lệ thức tỉnh. VCAP phản ánh nỗi khổ hạnh của nông dân dân tộc H Mông bị đày đọa bởi tàn dư của chế độ cũ còn rơi rớt lại ở miền núi, diễn tả lòng yêu đời, sức sống trỗi dậy k gì dập tắt nổi của họ dù bị đọa đày tới đâu cũng như hiện thực CM mà những người nông dân khổ hạnh ấy tham gia. VCAP thu hút người đọc bởi nghệ thuật miêu tả nội tâm sâu kín của nhân vật chủ đạo trong trang viết: Mị.
- Phân tích 5 lần tiếng sáo:
+ Lần 1: Tiếng sáo gọi bạn, rủ bạn chơi lấp ló nơi đầu núi xa xa làm lòng Mị thiết tha bổi hổi bồi hồi. Mị bắt đầu nhẩm thầm bài hát của người đang thổi.Trong Mị bắt đầu có sự cựa quậy của nội tâm để hòa mình vào không khí của mùa xuân. Tiếng sáo đánh thức con người tâm linh trong Mị đột khởi sống dậy mở tấm cửa tâm hồn Mị đã im ỉm khóa bấy lâu.
+ Lần 2: tiếng sáo gọi bạn nhưng không lấp ló xa xa nơi đầu núi mà dặt dìu văng vẳng bên tai Mị nơi đầu làng(hình ảnh hóa âm thanh) khiến Mị nhớ lại ngày xuân, hp, tuổi trẻ, nhớ lại con người mình đã từng “tê liệt chai lì”, ngày trước Mị thổi sáo giỏi, mùa xuân này Mị uốn chiếc lá trên môi, tổi lá cũng hay như thổi sáo có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo theo Mị.
+ Lần 3: Tiếng sáo gọi bạn yêu lửng lơ bay ngoài đường(hình tượng hóa âm thanh)àâm thanh tiếng sáo đã được hình ảnh hóa nhẹ, thanh, chập chờn, quyến rũàlần này nghe tiếng sáo da diết lòng Mị vừa phơi phới náo nức trở lại vừa đau nhói muốn chết ngay. Mị ý thức Mị còn trẻ, còn
trẻ lắm. Tiếng sáo gọi bạn yêu khiến con người hồn nhiên của Mị biểu hiện rõ nét, sức sống tiềm tàng dào lên cực điểm.
+ Lần 4: Tiếng sáo rập rờn trong đầu Mị, Mị nghe rõ câu hát của người đang thổi. Tiếng sáo lần này thúc đẩy Mị có được hàng loạt hành động liên tục về tâm lí- những hành động theo khát vọng tự do. Bấy giờ k còn là bước đột biến của tâm linh nữa mà là bước dồn dập bộc lộ con người tâm trạng: “Mị đến góc nhà lấy ống mỡ...cái áo”.
+ Lần 5: Tiếng sáo đưa hồn Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi khi Mị bị A Sử trói trong địa ngục trần gian. Tiếng sáo ru hồn Mị trong cõi mộng nửa tỉnh nửa mê.
- Nhận xét ý nghĩa chung của tiếng sáo
Tiếng sáo được TH miêu tả theo dòng chảy k gian: lúc đầu tiếng sáo lấp ló xa xa, về sau văng vẳng lại gần da diết, thôi thúc hơn, vẫy gọi hơn dần dần và cuối cùng nhập vào dòng tâm linh của Mị. Lúc đầu tiếng sáo đang tồn tại là một khách thể nhưng về sau tiếng sáo đã trở thành chủ thể.
Lúc đầu là tiếng sáo gọi bạn, về sau là tiếng sáo gọi bạn tình, bạn yêu phù hợp với việc diễn tả những gì trong Mị đã mất. Tiếng sáo càng ngày càng làm đau lòng Mị, với sự tinh tế và tài năng nghệ thuật miêu tả tiếng sáo, nhà văn đã thành cong trong miêu tả quãng đời đã mất của một con người thiết sống.
Nhiều khi nhà văn dùng lối miêu tả trực tiếp, nhưng trong VCAP, TH đã dùng tiếng sáo để gián tiếp biểu hiện: khát vọng sống, sức sống tiềm tàng, lòng yêu đời k gì dập tắt được ở con người dù bị đọa đày tới đâu.
Đề 5: Phân tích giá trị hiện thực a. ĐVĐ
-Khái niệm giá trị hiện thực -Gọi tên GTHT trong “CVAP”
“VCAP” phản ánh số phận ,cảnh ngộ của người dân H` Mông Tây Bắc bị đè nén đọa đày bởi chế độ cho vai nặng lãi , bóc lột công nhân tàn tệ ,đánh đạp hành hạ người dã mang và hủ tục gọi hồn ma nhận mặt con dâu ,đứa ở trừ nợ rùng rợn.
b.GQVĐ
- Khái quát “VCAP”<tham khảo đề 4>
-Hiện thực cho vay nặng lãi :
Cuộc đời làm dâu gạt nợ của Mị là một mấu chốt đầu tiên dẫn người đọc thâm nhập GTHT toàn tp. Bố mẹ Mị vay tiền của nhà thống lý ở Hồng Ngài cưới nhau, mỗi năm phải trả một nương ngô. Mười mấy năm qua rồi, Mị đã lớn, mẹ Mị đã qua đời, lưng bố Mị đã còng rạp xuống mà nợ vẫn chưa trả xong. Mị phải trở thành nạn nhân trả bán. Hiện thực cho vay nặng lãi của bọn phìa đạo miền núi TB giống như một lực lượng ma quái luôn hủy hiếp số phận con người. Tính chất kịch liệt và hậu quả nghiên trọng của hiện thực tàn khốc ấy làm cho tuổi thanh xuân của Mị bị cầm cố, ước mơ của Mị bị vùi dập, khát vọng tự do bị kiềm tỏa. Nó đã biến một thiếu nữ hồn nhiên yêu đời có tài thổi sáo mà trai trong làng theo hết nương này đến rẫy kia thành cái bóng lầm lũi như con rùa ru rú trong xó cửa mà thôi.
- Bóc lột sức lao động
Cuộc sống ở miền núi được phản ánh không những ở chiều rộng mà còn ở chiều sâu trong “VCAP”. Biết bao kiếp người bị bóc lột tàn tệ ở nhà thống lí Hồng Ngài. Mị bị biến thành con dâu gạt nợ còn A Phủ bị biến thành đứa ở gạt nợ cho nhà Pá Tra, Mị lùi lũi như con rùa nuôi
trong xó cửa, cuộc đời Mị chẳng bằng con ngựa con trâu vì con trâu con ngựa còn có lúc đứng nhai cỏ gãi chân, dàn bà con gái nhà này vùi đầu vào công việc suốt ngày. Ngồi trong địa ngục trần gian nhìn ra ngoài qua cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay chỉ thấy ngoài kia “mờ mờ trăng trắng”
k biết là sương hay là nắng. Bị bóc lột sức lao động thậm tệ, Mị đã suy kiệt tinh thần, mất hế ý niệm thời gian, k gian, “mờ mờ trăng trắng” – màu của sáng, trưa hay chiều, Mị k định được nữa.
Mị rơi vào vô cảm, Mị như một cái xác vô hồn, chỉ còn 1 thói quen duy nhất là “hết hái củi rồi xe đay...cỏ ngựa” tuần hoàn liên hồi, công việc k ngừng nghỉ.
- Nạn trói đứng người, đánh người:
8 tháng sống với đồng bào thiểu số, TB để nhớ để thương cho TH nhiều lắm. Thời gian ấy đã làm giàu vốn sống về hiện thực dân tộc chủa nhà văn.TH am tường phong tục miền núi nên trang văn của ông ngồn ngộn chất sống.Nhập cảm VCAP người đọc hiểu được nạn trói người, đánh người của bọn chúa đất vô cùng dã man.
Trước nhất là nạn trói đứng người: trói bằng dây mây, dây đay, trói ghì vào cọc, trói cả đầu A Phủ k cho cựa được nữa, quấn tóc Mị vào cọc trong nhà mồ trần gian. Có biết bao nhiêu số phận, bao nhiêu cuộc đời cùng khổ đã từng là nạn nhân của nạn trói đứng ở Hồng Ngài mà nước mắt chảy k lau được.Trói người là hiện thực tàn khốc.
Một nét khốc liệt khác của hiện thực miền núi được phản ánh trong VCAP là hành hạ người thô bạo mà vẫn dửng dưng. Hầu như bạn đọc yêu văn k ai quên được 1 chi tiết nhỏ nhưng sắc nét của TH: A Sử sau khi quấn tóc trói Mị vào cọc giữa nhà mồ rồi lạnh lùng thắt lại day lưng đi chơi. Người đọc cũng k thể quên được hành động đánh thức Mị của A Sử trong đêm Mị xoa bóp cho hắn: đạp vào mặt. Độc ác từ sự dửng dưng, tàn nghiệt từ hành động băng giá. Thô bạo tàn nhẫn rợn người ấy là bản chất của bọn chúa đất ác bá ở TB mà nhà văn đã chiếm lĩnh được đưa vào trang văn nóng hổi của mình.
- Tục gọi hồn ma nhận mặt :
1 hiện thực khác được tái hiện trong trang viết của Th: hủ tục gọi hồn ma về nhận mặt con dâu và nhận mặt kẻ ở trừ nợ. Hủ tục ngàn đời ấy đã day dứt, ám ảnh Mị, khiến Mị luôn sống trong sợ sệt, hoảng loạn, bất ổn về tinh thần. Nếu k am tường, nếu k nhập thân sâu xa vào cuộc sống của đồng bào thiểu số H Mông thì làm sao nhà văn TH có thể đưa vào trang viết hiện thực tươi sống này.
- Đối chiếu và liên hệ:
+ Đối chiếu:
+ Trước: trước VCAP, trong trào lưu hiện thực phê phán 30-45 đã có nhiều trang văn chân thực viết cảm động về đề tài nông dân( NT Tố, NC Hoan,N.Cao...)nhưng Nam Cao trong Chí Phèo chỉ xoáy sâu vào phản ánh số phận, cảnh ngộ của nông dân cùng đinh bị XH TD ½ phong kiến xô đẩy vào con đường tha hóa lưu manh, đến VCAP thì TH lại xoáy vào tái hiện cuộc đời nông dân cùng khổ bị đày đọa bởi thần quyền, cường quyền, uy quyền. Cho vay nặng lãi, trói đứng người, hủ tục gọi hồn ma ám ảnh tâm lí con người là nhữ nét riêng tạo nên sức chinh phục lòng người mạnh mẽ của trang văn.
+ Cùng thời: Vợ Nhặt của K.Lân cũng là 1 trang viết hay về người nông dân. Cảm xúc của ông cũng được nảy nở từ những chân cảm mãnh liệt đối với người nghèo. Trong VN, K.Lân chú ý dựng lại cảnh ngộ nông dân bị cái đói, cái chết sáp sạp lại gần, bủa vây, đuổi riết, bám chặt quyết biến số phận con người thành thân phận bọt bèo, thành hạng cỏ rác. Riêng VCAP, TH lại đi theo 1 lối riêng để trang văn đạt được những giá trị hiện thực ấn tượng.
+ Liên hệ
GTHT ở đây có thể làm nền tảng, là nền tảng của nhửng tác phẩm VH giai đoạn sau
Đề 6
Trong đoạn kết tác phẩm “Vợ chồng A phủ” lúc đầu nhìn thấy A Phủ bị trói đứng vào cột “Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay. Nếu A phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi”. Nhưng sau đó thì Mị lại cắt đứt dây trói cho A Phủ và cùng anh chạy trốn khỏi Hồng Ngài. Nhận xét về sự thay đổi đó ở Mị và nêu những điểm mới về giá trị nhân đạo của tác phẩm.
HƯỚNG DẪN CHI TIẾT I.MỞ BÀI:
II. THÂN BÀI 1. Khái quát
– Xuất xứ, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”.
– Khái quát trước đoạn kết
Mị là cô gái trẻ đẹp, giàu tài năng của núi rừng Tây Bắc. Vì món nợ cho vay nặng lãi của cha mẹ, Mị buộc phải làm con dâu gạt nợ trong nhà thống lý. Cuộc sống thống khổ của chốn địa ngục trần gian khiến Mị chai sạn, vô cảm. Đêm tình mùa xuân năm ấy, sức sống trỗi dậy, Mị uống rượu, thổi sáo, nhận thức được tuổi trẻ. Mị thèm đi theo những cuộc chơi những đám chơi.
Nhưng A Sử đã chặn đứng khát vọng đó của Mị bằng một thúng sợi đay, hắn trói Mị vào cột. Mị không cảm thấy bị trói, tâm hồn Mị vẫn đi theo tiếng gọi đêm tình. Chính sức sống đêm tình năm ấy đã tạo điều kiện cho sự bừng tỉnh nhận thức và cháy bùng lên ngọn lửa giải thoát cho A Phủ sau này. Vì để hổ bắt mất một con bò nên A Phủ phải chịu trói, chờ chết. Cha con nhà thống lí đã trói A Phủ vào cột. A Phủ đang rơi vào tình trạng: chết đau, chết đói, chết rét, phải chết.
2. Nội dung chính
2.1. Lúc đầu nhìn thấy A Phủ bị trói đứng vào cột, Mị không mảy may mủi lòng, không cảm xúc “Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay. Nếu A phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi”.
Tâm trạng Mị lúc đầu là trạng thái VÔ CẢM: Sau đêm tình mùa xuân, Mị trở lại với kiếp sống chai sạn, băng giá, tê liệt về cả thể xác lẫn tinh thần. Những gì xảy ra xung quanh, Mị không cần biết, không đoái hoài, không quan tâm. Tâm hồn Mị như tê dại trước mọi chuyện. Kể cả lúc ra sưởi lửa, bị: “A Sử đánh ngã xuống cửa bếp, hôm sau Mị vẫn thản nhiên ra sưởi lửa như đêm trước”. Mị vô cảm với chính bản thân mình, không còn cảm nhận được nỗi đau đớn của thể
xác, không còn cảm nhận được sự nhục nhã về tinh thần. Thể xác bị chà đạp, tinh thần bị lăng nhục, nhưng Mị vẫn dửng dưng, không tức giận, tủi hờn hay sợ hãi. Khi Mị vô cảm với chính mình cũng là lúc mà Mị chẳng còn thiết tha đến mọi thứ xung quanh. Mị vô cảm luôn với cả đồng loại của mình:“nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”. Các từ ngữ “thản nhiên”, “cũng thế thôi” cho thấy sự thản nhiên, vô tâm đến lạnh lùng, vô cảm đến tàn nhẫn của Mị. Đắng cay cho Mị – cô đã đánh mất luôn cả tình thương, lòng nhân ái mà bất cứ ở người phụ nữ nào cũng có. Mị chỉ biết, chỉ còn ở với ngọn lửa. Lửa cũng cô đơn, Mị cũng cô đơn. Hai kẻ cô đơn ấy thức sưởi ấm cho nhau trong những đêm đông dài lạnh lẽo.
2.2. Sau đó, tâm trạng Mị có sự thay đổi từ trạng thái vô cảm đến đồng cảm bởi giọt nước mắt của A Phủ, bởi sự thức dậy của lòng thương người:
Có nhà phê bình cho rằng: “Khi tình thương chạm vào trái tim thì cho dù sỏi đá cũng thành châu lệ”. Quả đúng như vậy, dòng nước mắt của A Phủ đã đánh thức và làm hồi sinh lòng thương người trong Mị. Chính nhờ ngọn lửa đêm ấy, Mị lé mắt trông sang và nhìn thấy: “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ. Dòng nước mắt ấy là nước mắt của kẻ đang hấp hối, nước mắt của một thân phận nô lệ đang bất lực, tủi nhục trước số phận. Nước mắt A Phủ không chỉ chảy xuống đôi gò má xạm đen của anh mà còn chảy vào cả trái tim băng giá của Mị. Trái tim vốn chỉ còn biết giá băng lại được dòng nước mắt ấy của A Phủ chạm đến. Và giọt nước mắt ấy đã làm tan đi giá băng của trái tim Mị, đập vỡ bức tường vô hình cầm tù trái tim Mị; đã thức dậy trong Mị lòng thương người cùng cảnh ngộ. Khi lòng thương người trỗi dậy, là lúc trái tim Mị quặn đau khi “trông người lại ngẫm đến mình”. Mị chợt
“nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không lau đi được”. Nhà văn không nói đến nỗi đau đớn về thể xác của A Phủ, không nói đến nỗi tủi nhục của A Phủ nhưng tất cả điều đó lại hiện lên tất cả qua suy nghĩ của Mị. Mị đã cảm nhận nỗi đau của A Phủ bằng chính nỗi đau của mình. Tài liệu này của thầy Phan Danh Hiếu
Từ đó Mị nhận thức rõ và căm thù sự độc ác của nhà Thống lí Pá Tra: Mị thốt lên “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này”. Mị nhận ra giá trị của con người, giá trị được sống nhưng lại bị bắt chết. Từ nhận thức về thân phận con người, Mị nguyền rủa cha con nhà thống lí “Chúng nó thật độc ác”. Khi một kẻ đang trong tình trạng mất hết ý thức lại nhận ra nguyên nhân của cái khổ mà mình gánh chịu thì đúng là một cuộc lội ngược dòng của ý thức. Chắc chắn, ý thức này sẽ trỗi dậy, sẽ phản kháng mãnh liệt chứ không dừng lại ở đây.
Từ lòng thương người và lòng căm thù, Mị nhận ra sự độc ác và bất công. Mị phản kháng mãnh liệt cả trong suy nghĩ và hành động: từ cảnh ngộ của mình và những người đàn bà bị hành hạ ngày trước, đến cảnh đau đớn và bất lực của A Phủ trước mắt, Mị nhận thấy “chúng nó thật độc ác”, thấy “người kia việc gì mà phải chết”. Đó là sự nhận thức mang tính lý trí chứ không phải là cảm tính nữa. Mị độc thoại với chính mình: “Cơ chừng này thì chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây mà thôi… Người kia việc gì phải chết?”
Đoạn văn có sự điệp đi điệp lại một loạt từ “chết” như chính nỗi ám ảnh của Mị về cái chết. Và đặt mình cùng A Phủ lên bàn cân của số phận. Mị thấy, Mị có chết cũng là tất yếu vì “Ta là thân đàn bà”; “Nó đã bắt ta về cúng trình ma nhà nó rồi thì đợi ngày rũ xương ở đây thôi”. Nghĩ đến APhủ, Mị thấy phi lí “người kia việc gì mà phải chết”. Trong suy nghĩ ấy, Mị đã nghiêng hết phần sống của mình cho A Phủ. Đó là tấm lòng nhân ái bao la của cô gái vùng cao Tây Bắc. Mị trân trọng giá trị con người, mạng sống con người. Lòng thương người thức dậy trong Mị và đang hình thành hành động. Tài liệu này của thầy Phan Danh Hiếu
Mị tưởng tượng rằng: “như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy”. Nếu như ngày trước Mị đã từng sợ chết thì bây giờ cái chết với Mị không còn là điều đáng sợ nữa. Điều gì đã làm cho Mị không sợ hãi? Phải chăng đó là lúc: Lòng thương người trong Mị đã lớn hơn tất cả mọi nỗi sợ hãi. Tình thương ấy khiến cô đi đến hành động cởi trói cho A Phủ: “Mị lấy con dao chấu nhỏ, cắt từng nút dây mây”. Cuối cùng thì Mị đã cởi trói cho A Phủ. Nhưng hành động cởi trói ấy cũng là hành động mà Mị tự giải thoát cho chính mình. Đây cũng là sự tất yếu của quá trình đấu tranh tâm lý.
2.3. Đoạn văn cuối cùng tác giả diễn tả sự quật khởi của Mị với sức sống tiềm tàng mãnh liệt, sức phản kháng quyết liệt:
Đối mặt với hiểm nguy Mị cũng hốt hoảng “Mị đứng lặng trong bóng tối”. Câu văn tách thành một dòng riêng nằm chơi vơi ở giữa những câu chữ ngổn ngang. Theo “nguyên lý tảng băng trôi” – hình ảnh Mị đứng lặng chỉ là phần nổi còn ẩn sau những câu chữ và hành động ấy của Mị là cuộc đấu tranh nội tâm dữ dội: sống hay là chết; tự do hay nô lệ; đi hay ở ? Cuối cùng tiếng gọi tự do đã vẫy gọi Mị.
Trong giây phút đối diện với bản án tử hình ấy lòng ham sống mãnh liệt đã thúc giục Mị chạy theo A Phủ. Đoạn văn tiếp theo miêu tả hành động Mị toàn những động từ mạnh: “vụt chạy – băng đi – đuổi kịp – đã lăn – chạy – chạy xuống – nói – thở”. Những động từ mạnh ấy đã giúp Tô Hoài nhìn thấy được nội lực và sức phản kháng mạnh mẽ cháy bùng trong Mị. “Một tia lửa
nhỏ hôm nay báo hiệu đám cháy ngày mai” (Lỗ Tấn) – nếu đêm tình mùa xuân là “tia lửa nhỏ”
thì hành động chạy theo APhủ của Mị thực sự đã trở thành “đám cháy”. Cuối cùng Mị đã có sự lựa chọn đúng đắn khi mà khát vọng sống trỗi dậy thật mãnh liệt, Mị vụt chạy theo A Phủ, cũng có nghĩa là chạy thoát cuộc đời nô lệ, đến với ánh sáng của tự do. Bước chân Mị như đạp đổ thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến bao năm qua đè nặng lên Mị. Mị đã nói trong cơn gió thốc
“A Phủ cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là câu nói thể hiện lòng ham sống, khát vọng tự do đến mãnh liệt trong Mị. Sau bao nhiêu năm bị thần quyền, cường quyền đè nặng làm Mị dường như quên đi tiếng nói của đồng loại thì nay Mị đã sống lại. Và câu nói đầu tiên Mị nói được cũng lại là câu nói đòi tự do, đòi được sống. Tài liệu này của thầy Phan Danh Hiếu
2.4. Nhận xét về sự thay đổi trong tâm trạng của Mị:
Từ trạng thái vô cảm, Mị đã đồng cảm với nỗi đau thân phận của A Phủ. Đây là sự chuyển biến lớn trong tâm lý của Mị dẫn đến thay đổi cục diện của tác phẩm. Qua sự thay đổi này Tô Hoài đã khẳng định được chân lý: “sức mạnh lớn nhất mà nhân loại có được chính là lòng yêu thương con người”. Từ đồng cảm, Mị đã đi đến hành động táo bạo, quyết liệt – “cởi trói cho A Phủ”.
Đây không phải là hành động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy của ký ức, khát vọng sống tự do, đã khiến Mị chạy theo người mà mình vừa cứu. Mị giải thoát cho A Phủ và giải thoát cho cả bản thân mình! Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt dám chống lại cả cường quyền và thần quyền. Đó chính là sức phản kháng mạnh mẽ của nhân vật và cũng là sự mở đường của nhà văn đưa nhân vật tới chân trời mới.
2.5. Miêu tả sự hồi sinh của Mị qua hai chi tiết trên, Tô Hoài đã mang đến những nét mới trong cảm hứng nhân đạo của văn học hiện thực phê phán sau năm 1945.
– “Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường. Những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đọa đày đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời. Nhà văn tồn tại ở trên đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực.” (Nguyễn Minh Châu). Với hình tượng nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, nhà văn Tô Hoài đã thực hiện trọn vẹn sứ mệnh ấy khi mang đến cho người đọc một hình tượng nghệ thuật với biết bao vẻ đẹp – nhất là sức sống tiềm tàng mãnh liệt mà không thế lực nào có thể dập tắt được.
– Nhà văn đặt niềm tin vào con người, vào sức vươn dậy của nhân vật Mị. Nếu bức chân dung của những người nông dân trước cách mạng mà ta bắt gặp đâu đó như ở Chí Phèo, lão Hạc, anh Pha, chị Dậu,… tất cả đều bị dồn vào bước đường cùng. Những bức chân dung kia hoàn toàn
thiếu ánh sáng của Đảng của cách mạng chiếu rọi, thì nhà văn Tô Hoài lại phản chiếu vào nhân vật của mình ánh sáng của cách mạng và ý thức của thời đại. Nhà văn đã bước qua được những giới hạn của dòng văn học hiện thực phê phán trước Cách mạng để giải phóng số phận nhân vật.
Mặt khác, việc Mị cởi trói cho A Phủ có thể coi như một chiếc bản lề khép mở hai thế giới.
Nó khép lại thế giới tăm tối của cuộc sống trâu ngựa, nô lệ ở Hồng Ngài. Nó mở ra một cuộc sống tươi sáng ở Phiềng Sa. Hành động Mị cởi trói cho A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài đến với tiếng gọi của Cách mạng là một mốc son chói lọi trong tư tưởng nhân đạo sâu sắc và mới mẻ của Tô Hoài nói riêng và của các nhà văn sau cách mạng nói chung. Như vậy tiếng kêu cứu của Nam Cao trước cách mạng đã được Tô Hoài hồi đáp bằng cách giải phóng cho số phận con người, hướng con người đến ánh sáng của tự do.
3. Thành công của tác giả Tô Hoài trong việc xây dựng hình tượng nhân vật Mị đó
là: Thành công của Tô Hoài trong việc xây dựng nhân vật Mị đó là: Nhà văn có biệt tài miêu tả tâm lý nhân vật sắc sảo nhất là những diễn biến tâm trạng đầy phức tạp của Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ. Nghệ thuật trần thuật uyển chuyển, linh hoạt; cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ, tự nhiên đầy ấn tượng; kể chuyện ngắn gọn, dẫn dắt tình tiết khéo léo. Ngôn ngữ sinh động, chọn lọc và sáng tạo, câu văn giàu tính tạo hình và thấm đẫm chất thơ…nhà văn đã tạo tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn; cách miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tài tình, hợp lí tạo nên sự thay đổi số phận nhân vật một cách thuyết phục.
III. KẾT BÀI
Nhân vật Mị là linh hồn là hơi thở của tác phẩm. Xây dựng nhân vật Mị là một thành công đặc sắc của nhà văn Tô Hoài. Qua việc miêu tả diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ, Tô Hoài đã khẳng định sức sống tiềm tàng mãnh liệt và khát vọng tự do của nhân dân lao động Tây Bắc dưới sự thống trị của bọn lãnh chúa thổ ty miền núi. Có nhà phê bình đã cho rằng: “Văn học nằm ngoài mọi sự băng hoại. Chỉ riêng mình nó không chấp nhận quy luật của cái chết”. Đúng vậy, sức sống tiềm tàng mãnh liệt của nhân vật Mị và giá trị nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của Tô Hoài cũng đã làm nên sức sống trường tồn, vĩnh cửu của tác phẩm “Vợ Chồng A Phủ”.
--- VỢ NHẶT
(Kim Lân) Đề 1: Phân tích nhân vật Tràng
A. MB
Đầu năm 1940, phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương cùng Pháp cai trị VN, dân ta phải chịu cảnh 1 cổ 2 tròng, thực dân Pháp tăng thuế, ra sức vơ vét, phát xít Nhật bắt nhân dân ta nhổ lúa
trồng đay. Kết quả là vào năm 1945, hơn 2 triệu người từ Quảng Trị đến Lạng Sơn chết đói. Sau sự kiện này, KL viết truyện ngắn “Xóm ngụ cư” nhưng còn dang dở và mất bản thảo. Hòa bình lập lại, ông dựa vào cốt truyện cũ và viết lại thành “Vợ nhặt”. Tràng là nhân vật chính của truyện xuyên suốt chiều dài tác phẩm.
B.TB
1. Lai lịch nghề nghiệp của Tràng cũng khá đơn giản. Anh sống bằng nghề làm thuê làm mướn, kéo xe bò chở thóc cho liên đoàn. Gia đình nghèo khổ neo đơn thuộc dân ngụ cư. Cha mất, mẹ già yếu “nhà cửa vắng teo đứng rúm ró trêm mảnh vườn mọc lổn nhổn những bụi cỏ dại”. Cũng như bao gia đình VN trong thời kì đí khát, gđ Tràng cũng bị cái đói cái chết rình rập, đe dọa.
2. Nghèo về vật chất nhưng Tràng lại giàu lòng nhân hậu. Gặp người đàn bà đói rách, Tràng phóng khoáng mời chị ta ăn bánh đúc. Nên nhớ rằng Tràng cũng nghèo đói, làm thuê thu nhập thất thường, trong những ngày đói 1945, 1 chén cơm, 1 miếng bánh thật ý nghĩa, nhưng Tràng k tính toán. Sau đó Tràng đưa người đàn bà về nhà yêu thương, đùm bọc giúp chị thoát khỏi cái chết bi thảm. Lòng nhân hậu của Tràng chưa phải sâu sắc mãnh liệt nhưng dù sao trong hoàn cảnh ngặt nghèo nhất anh dành tình thương cho người khác và cứu sống được 1 mạng người thì thật đáng quý.
3. Dù cái đói cái chết có đe dọa nhưng Tràng vẫn khát khao hạnh phúc nên vợ nên chồng để có được một mái ấm gia đình hạnh phúc, đầm ấm. Gặp người đàn bà, Tràng chỉ nói đùa: “Làm đếch gì có vợ, nói đùa chứ có về với tớ thì khuân hàng lên xe cùng về”. Ai ngờ thị về thật, lúc đầu Tràng cũng băn khoăn lo lắng “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi k lài còn đèo bồng”. Nhưng sau đó Tràng “tặc lưỡi một cái” quyết định đưa người đàn bà xa lạ về nhà mình.
- Trên đường về nhà, Tràng như thành 1 người khác “mặt hắn có vẻ gì phớn phở khác thường.
Hắn tủm tỉm cười nụ 1 mình và 2 mắt thì sáng lên lấp lánh”. Hạnh phúc đến bất ngờ làm cho Tràng quên hết cuộc sống ê chề tối tăm vẫn diễn ra.
- Về đến nhà, tâm trạng của Tràng hồi hộp mong chờ mẹ trở về để báo 1 tin hết sức quan trọng, mình đã có vợ. Vừa thấy mẹ, Tràng đã reo lên như 1 đứa trẻ, lật đật chạy ra đón. Tràng nhanh nhẩu “u đã về đấy!”. Rồi Tràng giới thiệu người đàn bà với mẹ mình: “nhà tôi mới về làm bạn với tôi đấy u à”. Tràng gọi người đàn bà là bạn, là nhà tôi chứ k phải vợ nhặt chứng tỏ anh rất tôn trọng vợ mình, tôn trọng quan hệ gia đình. Được mẹ đồng ý, Tràng cởi bỏ sự cờ đợi căng thẳng:
“thở đánh phào 1 cái, ngực nhẹ hẳn đi”.
- Sau đêm tân hôn, mở đầu 1 ngày mới Tràng k còn là người ngớ ngẩn làm trò đùa cho bọn trẻ con trong xóm, anh thật sự đã trưởng thành. Tràng cảm thấy trong người “lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Tràng nhận ra xung quanh mình có cái gì thay đổi mới mẻ khác lạ”.
Tràng vui sướng, hạnh phúc và thấy bổn phận trách nhiệm của mình: “thương yêu, gắn bó với cái nhà, lo lắng cho vợ con sau này”. Niềm vui của Tràng bị cắt đứt bởi vị đắng của cháo cám trong bữa ăn. Hiện thực thật tàn nhẫn.
4. K chỉ khát khao hp gđ mà Tràng còn khát khao một cuộc sống tốt đẹp hơn. Lúc đầu Tràng còn chưa hiểu gì về Việt Minh thậm chí còn sợ Việt Minh. Nhưng khi người vợ kể công việc chính nghĩa của Việt Minh: “k chịu đóng thuế, phá kho thóc của Nhật chia cho người đói” làm cho Tràng phải suy nghĩ. Muốn khỏi khổ thì chỉ có 1 con đường đi theo Việt Minh. Kết thúc tác phẩm là hình ảnh “ đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” chính là con đường những người