• Tidak ada hasil yang ditemukan

GIẢI NGOÀI TỐ TỤNG TẠI TÒA ÁN òVIỆT

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "GIẢI NGOÀI TỐ TỤNG TẠI TÒA ÁN òVIỆT"

Copied!
6
0
0

Teks penuh

(1)

GIẢI QUYẾT TRANH CHẮP DẰN sụ BẰNG HÒA GIẢI NGOÀI TỐ TỤNG TẠI TÒA ÁN ò VIỆT NAM

vũ THẾ HOÀI*

*Tiến sĩ, Phó Trưởng khoa Luật, Trường Đại học Sài Gòn.

Hòa giải ngoài tố tụng tại Tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp dân sự theo cơ chế tự nguyện thỏa thuận giữa các bên nhằm giảm thiểu sự tham gia của các cơ quan nhà nước. Trong xu thế hội nhập, việc giải quyết các tranh chấp thông qua hòa giải ngày càng được chú trọng; tuy nhiên, thực tiễn triển khai thi hành Luật hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2020 vẫn còn những vướng mắc,

bất cập. ị %

Từ khóa: Hòa giải ngoài tổ tụng tại Tòa án; giải quyết tranh chấp dân sự.

Nhận bài: 16/3/2022; biên tập xong: 28/3/2022; duyệt bài: 13/4/2022.

1. Khái quát chung về hòa giải ngoài tố tụng tại Tòa án

Luật hòa giải, đối thoại tại Tòa án (Luật HGĐT tại Tòa án) năm 2020 có hiệu lực từ ngày 01/01/2021, góp phần đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp hiện nay. Nếu việc hòa giải được thực hiện tốt sẽ giảm tải áp lực đối với công tác xét xử, thi hành án; tiết kiệm thời gian, công sức, chi phí cho người dân và Nhà nước. Trình tự, thủ tục giải quyết so với thủ tục hòa giải quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 được tinh giản và rút ngắn đáng kể. Kết quả hòa giải thành

có giá trị pháp lý cao thể hiện thông qua việc được Tòa án công nhận bằng một quyết định có hiệu lực pháp luật ngay, không bị kháng cáo, kháng nghị. Thông qua hòa giải, Hòa giải viên có điều kiện tiếp xúc với người dân để hướng dần, giải thích pháp luật, từ đó góp phần giáo dục và nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân, tăng cường khối đoàn kết cộng đồng.

Luật HGĐT tại Tòa án năm 2020 đã xây dựng cơ chế pháp lý mới về hòa giải,

Tạp chí 10/2022

V

k

IÉM

SÁT

31

(2)

NGHIÊNCỨU - TRAOĐỔI

không trùng lặp, không mâu thuẫn, không thay thế các cơ chế pháp lý về hòa giải đã có. về bản chất pháp lý, hòa giải theo Luật HGĐT tại Tòa án năm 2020 là hòa giải tại Tòa án, ngoài tố tụng, trước khi Tòa án thụ lý vụ việc1. Cơ chế pháp lý mới về hòa giải được ban hành trên cơ sở phát huy các quy định về hòa giải nhằm tận dụng tính ưu việt của hòa giải, khắc phục những nhược điểm của các cơ chế hòa giải đang tồn tại nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, góp phần giảm tải gánh nặng của hệ thống Tòa án và là xu thế chung của thế giới. Luật HGĐT tại Tòa án năm 2020 ghi nhận hòa giải tại Tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp dân sự và xây dựng pháp luật về quy trình tố tụng hòa giải, nhưng được thực hiện trước khi Tòa án xem xét thụ lý, các bên tranh chấp không phản đối việc hòa giải. Vai trò của Hoà giải viên không thay thế vai trò của Tòa án; điều này có nghĩa là kết quả hòa giải thành không được xem như là phán quyết của Tòa án mà kết quà hòa giài thành muốn được Nhà nước đảm bảo thi hành phải được Tòa án công nhận.

1. Báo cáo số 55/BC-TANDTC ngày 26/9/2019 của Tòa án nhân dân tối cao đánh giá tác động của chính sách dự án Luật hòa giải, đối thoại tại Tòa án.

Tuy phương thức hòa giải tranh chấp dân sự tại Tòa án thể hiện được những đóng góp, kết quả nhất định, nhưng vì các quy định pháp luật vẫn chưa hoàn thiện và thực tiễn áp dụng mới diễn ra trong thời gian rất ngắn cho nên còn gặp một số khó khăn, bất cập. Cụ thể: số

lượng và chất lượng của Hòa giải viên chưa đáp ứng yêu cầu so với thực tiễn;

thời gian tiến hành hòa giải ngắn cho nên việc giải quyết các tranh chấp dân sự có tính chất phức tạp chưa đảm bảo; do còn thiếu văn bản hướng dẫn nên nhiều quy định của Luật HGĐT tại Tòa án năm 2020 được áp dụng chưa thống nhất như việc xác định thẩm quyền của Tòa án, quyền lựa chọn Hòa giải viên; việc lựa chọn địa điểm hòa giải ngoài trụ sở Tòa án; biểu mẫu và giá trị thi hành của quyết định công nhận kết quả hòa giải thành.

2. Một số kết quả bước đầu thi hành Luật hòa giải, đổi thoại tại Tòa án năm 2020

Ngay sau khi được Quốc hội thông qua, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành một số Thông tư hướng dẫn về công tác chuẩn bị, triển khai thi hành Luật hòa giải, đối thoại như: Thông tư số 02/2020/TT- TANDTC ngày 16/11/2020 quy định chi tiết về trách nhiệm của Tòa án nhân dân trong hoạt động hòa giải, đối thoại tại Tòa án (Thông tư số 02/2020); Thông tư số 03/2020/TT-TANDTC ngày 16/11/2020 quy định chi tiết về trình tự nhận, xử lý đơn khởi kiện, đơn yêu cầu tại Tòa án và chỉ định Hòa giải viên,... Nghị định số 16/2021/NĐ-CP ngày 03/3/2021 quy định chi tiết mức thu, trình tự, thủ tục thu, nộp việc quản lý, sử dụng chi phí hòa giải, đối thoại tại Tòa án và thù lao Hòa giải viên tại Tòa án; Giải đáp số 01/2021/GĐ- TANDTC ngày 01/7/2021 giải đáp một sổ vấn đề nghiệp vụ về hòa giải, đối thoại tại Tòa án (Giải đáp số 01/2021).

Tạpchí

KIẺM SẤT /7 Số 10/2022

32

(3)

Sô lượng đơn khởi kiện, đơn yêu câu mà Tòa án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện trên toàn quốc nhận được từ ngày 01/01/2021 đến ngày 30/9/2021 là 229.887 vụ việc, số lượng vụ việc chuyển sang hòa giải, đối thoại tại Tòa án là 28.004 vụ việc (chiếm 12,18%). số lượng vụ việc đã được hòa giải thành, đối thoại thành là 10.430 vụ việc (chiếm 37,24 %).

Số lượng vụ việc đã ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành là 8.682 vụ việc (chiếm 83,24 %)2.

2. “Báo cáo kết quả triển khai thi hành Luật hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2021”, https://tapchitoaan.vn/

bai-viet/thoi-su/nguoi-dan-tin-tuong-va-ung-ho-nen- viec-trien-khai-luat-hoa-giai-doi-thoai-tai-toa-an-dat- ket-qua-tot5672.html, truy cập ngày 03/03/2022.

Bên cạnh đó, vẫn còn một số Tòa án có số lượng các vụ việc đã chuyển sang hòa giải, đối thoại tại Tòa án chiếm tỉ lệ thấp so với số lượng đơn khởi kiện, đơn yêu cầu mà Tòa án nhận được. Do một số nguyên nhân như: Người khởi kiện, người bị kiện không đồng ý hòa giải; một số tranh chấp dân sự đặc biệt là tranh chấp đất đai đều đã được hòa giải tại địa phương, tranh chấp có yếu tố nước ngoài, một bên đương sự ở nước ngoài... Các vụ việc được hòa giải thành chủ yếu là loại việc về hôn nhân và gia đình (khoảng trên 70%); các tranh chap về dân sự, khiếu kiện hành chính có tỉ lệ hòa giải thành, đối thoại thành không cao, nguyên nhân là nhiều vụ việc tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính đã trải qua nhiều cấp, nhiều lần hòa giải, đối thoại từ cấp cơ sở (thôn, bản, khối phố, xã phường) đến cấp

huyện, thị xã thành phô thuộc tỉnh và khiếu nại đến cấp tỉnh không thành mới khởi kiện đến Tòa án, do đó rất khó khăn cho việc hòa giải, đối thoại thành.

Có thể thấy, số vụ việc lựa chọn hòa giải, đối thoại tại Tòa án kể từ khi Luật HGĐT tại Tòa án năm 2020 có hiệu lực thi hành đã giảm rất nhiều so với giai đoạn triển khai thực hiện thí điểm về đổi mới, tăng cường hòa giải, đối thoại trong giải quyết các tranh chấp dân sự tại Tòa án. Nguyên nhân chính là do trong quá trình áp dụng quy định của Luật HGĐT tại Tòa án năm 2020 để tiến hành hòa giải còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc cần được tháo gỡ. Việc áp dụng hòa giải theo quy định của Luật HGĐT tại Tòa án năm 2020 kể từ khi có hiệu lực thi hành cho đến nay để giải quyết các tranh chấp dân sự tại Tòa án nhân dân chưa đạt hiệu quả như mong đợi. Điều đó được thể hiện qua:

(1) Số lượng các vụ việc lựa chọn phương thức hòa giải tại Tòa án để áp dụng giải quyết còn rất thấp, chưa được như kỳ vọng;

(2) Số lượng các tranh chấp dân sự hòa giải thành tại Tòa án chưa cao;

(3) Đa số là các tranh chấp hòa giải thành có tính chất đơn giản, giá trị tranh chấp không lớn và có thể thi hành ngay;

(4) Các vụ việc yêu cầu hòa giải và có tỉ lệ hòa giải thành cao chủ yếu thuộc lĩnh vực hôn nhân và gia đình còn các loại tranh chấp khác như: Dân sự, kinh doanh thương mại và lao động chiếm tỉ lệ còn rất ít;

Tạp chí SôT0/2022 VklẾM SÁT

33

(4)

NGHIÊN cúv - TRAOĐổi

(5) Số vụ việc Tòa án không công nhận kết quả hòa giải thành chiếm tỉ lệ khá cao. Ví dụ, tại Tòa án nhân dân hai cấp Thành phố Hồ Chí Minh, từ ngày 01/01/2021 đến ngày 31/7/2021 đã hòa giải để các bên tranh chấp thống nhất được toàn bộ vấn đề cần giải quyết được 115 vụ dân sự nhưng trong đó Tòa án không công nhận kết quả hòa giải thành

15 vụ, chỉ chiếm là 13,04% .3

3. Báo cáo thống kê thụ lý, giải quyết các vụ, việc được hòa giãi tại Tòa án theo Luật hòa giải, đối thoại tại Tòa án (số liệu từ 01/01/2021 đến 31/7/2021) của Tòa án nhân dân hai cấp Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Một số đề xuất, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hòa giải ngoài tố tụng tại Tòa án ở Việt Nam trong thời gian tới

Thứ nhất, về vai trò của Hòa giải viên và Thẩm phán trong phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải:

Tại điểm c khoản 1 Điều 28 Luật HGĐT tại Tòa án năm 2020 và khoản 2 Điều 5 Thông tư số 02/2020 quy định thành phần tham phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải có Thẩm phán phụ trách hòa giải hoặc Thẩm phán khác do Chánh án Tòa án phân công. Tuy nhiên, Luật HGĐT tại Tòa án năm 2020 và Thông tư số 02/2020 không quy định rõ vai trò, nhiệm vụ của Thẩm phán khi tham gia phiên họp hòa giải.

Vì vậy, Tòa án nhân dân tối cao cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn xác định phạm vi công việc cụ thể của Hòa giải viên và Thẩm phán trong phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải tại Tòa án. Việc

quy định chi tiết, rõ ràng nhiệm vụ của từng người sẽ giúp quá trình phối hợp trong công việc của Thẩm phán và Hòa giải viên trở nên thuận lợi, hạn chế sự chồng chéo, mâu thuẫn nhau về vị trí, vai trò của Hòa giải viên và Thẩm phán.

Thứ hai, về trường hợp các bên tranh chấp không thực hiện khi Hòa giải viên yêu cầu cung cấp thông tin, tài liệu, chứng cứ:

Liên quan đến nội dung trong quá trình hòa giải, Hòa giải viên yêu cầu các bên cung cấp thông tin, tài liệu, chứng cứ liên quan đến nội dung tranh chấp nhưng các bên không thực hiện, Giải đáp số 01/2021 của Tòa án nhân dân tối cao cho rằng: “Hòa giải viên động viên, thuyết phục để các bên thấy được việc cung cấp thông tin, tài liệu, chứng cứ là để Hòa giải viên có đầy đủ thông tin, từ đó hỗ trợ tối đa cho các bên trong việc đi đến thỏa thuận, thống nhất việc giải quyết tranh chấp, khiếu kiện. Nếu các bên vẫn không cung cấp thông tin, tài liệu, chứng cứ có liên quan đén nội dung tranh chấp, khiếu kiện thì Hòa giải viên tiến hành hòa giải, đối thoại trên cơ sở các thông tin, tài liệu hiện có”.

Tác giả không đồng tình với nội dung hướng dẫn nêu trên. Bởi vì, do thiếu thông tin, tài liệu, chứng cứ nên Hòa giải viên gặp khó khăn khi tiến hành hòa giải. Vì vậy, Hòa giải viên mới yêu cầu các bên cung cấp để làm cơ sở cho việc tiến hành hòa giải cũng như ghi nhận kết quả hòa giải thành nếu các bên thỏa thuận, thống nhất nội dung vụ việc tranh chấp. Việc

Tạpchí

KIỂM SÁT SỐ10/2022

34

(5)

Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn Hòa giải viên vẫn tiến hành hòa giải dựa vào các thông tin, tài liệu, chứng cứ hiện có dẫn đến khả năng cao là hòa giải không thành, việc tiếp tục tiến hành hòa giải sẽ không còn ý nghĩa. Nếu Hòa giải viên hòa giải thành thì khi xem xét công nhận kết quả hòa giải thành cũng có khả năng Thẩm phán yêu cầu các bên cung cấp tài liệu, chứng cứ có liên quan. Mặt khác, pháp luật quy định quyền được yêu cầu các bên tranh chấp thực hiện một vấn đề cho Hòa giải viên thì cũng nên quy định chế tài kèm theo khi không thực hiện để đảm bảo nội dung quy định có giá trị thi hành trong thực tiễn.

Một trong những hạn chế của phương thức hòa giải trong tố tụng và ngoài Tòa án đó là chứng cứ do các bên đương sự cung cấp trong tâm thế thắng thua, thường không đầy đủ, còn che giấu, thậm chí ngụy tạo. Hiện nay, việc Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn cách giải quyết trong trường hợp các bên tranh chấp không cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu là chưa phù hợp và không khắc phục được nhược điểm của các phương thức hòa giải nêu trên.

Do đó, theo tác giả, nên quy định theo hướng khi các bên được yêu cầu không cung cấp tài liệu, chứng cứ thì Hòa giải viên trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo cho Tòa án xem xét thụ lý theo quy định của BLTTDS năm 2015 và thông báo cho các bên tranh chấp được biết.

Việc quy định như vậy sẽ tránh tình trạng các bên lợi dụng kéo dài thời gian giải

quyết tranh chấp dân sự.

Th ứ ba, cần khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong thực hiện hòa giải, đó là:

- Tại khoản 2 Điều 9 Luật HGĐT tại Tòa án năm 2020 quy định về nghĩa vụ nộp chi phí hòa giải, tuy nhiên, luật không quy định rõ trong trường hợp sau khi nhận đơn yêu cầu hòa giải, đối thoại mà người yêu cầu không nộp các loại chi phí hòa giải, đối thoại thì xử lý cụ thể như thế nào.

- Tại khoản 1, khoản 2 Điều 16 Luật HGĐT tại Tòa án năm 2020 quy định về trình tự nhận, xử lý đơn khởi kiện, đơn yêu cầu, tuy nhiên không quy định ở giai đoạn nhận đơn, Tòa án được quyền ban hành thông báo yêu cầu người khởi kiện, người yêu cầu sửa đổi, bô sung đơn khởi kiện, đơn yêu cầu trong khi đa phần các đơn của đương sự đều sai sót nhất định, cần chỉnh sửa, bổ sung. Do đó, tác giả đề xuất bổ sung nội dung trong giai đoạn nhận đon, Thẩm phán phụ trách xử lý đơn được quyền chủ động ra thông báo yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự.

- Theo khoản 2 Điều 22 Luật HGĐT tại Tòa án năm 2020 quy định về phương thức hòa giải, đối thoại thì “Việc hòa giải, đối thoại được tiến hành tại trụ sở Tòa án hoặc có thể ngoài trụ sở Tòa án theo lựa chọn của các bên”. Trong trường hợp này, thì nếu các bên đương sự chọn hòa giải ở ngoài trụ sở Tòa án và yêu cầu ghi nhận kết quả hòa giải ngay sau đó, thì việc Thẩm phán tham gia phiên họp việc ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại thành

Tạp chí Sô 10/2022

V

k

IÉM S

át

35

(6)

NGHIÊN cúv - TRAO ĐỔI

ngoài trụ sở có được công nhận không thì cần có quy định cụ thể.

- Theo khoản 3 Điều 40 Luật HGĐT tại Tòa án năm 2020 quy định về các trường hợp chấm dứt hòa giải, đối thoại tại Tòa án thì: “Một bên hoặc các bên không đồng ý tiếp tục hòa giải, đối thoại hoặc vắng mặt sau 02 lần được thông báo hợp lệ về việc hòa giải, đối thoại”. Theo đó, thì việc

“thông báo hợp lệ về việc hòa giải, đối thoại” hiểu cụ thế như thế nào thì cần có văn bản hướng dẫn.

- Trường hợp các bên Hòa giải, đối thoại thành và có yêu cầu công nhận kết quả theo Điều 32 Luật HGĐT tại Tòa án năm 2020, thì Hòa giải viên chuyển tài liệu và biên bản hòa giải thành để Tòa án ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành. Tuy nhiên, việc ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành này không được thụ lý theo quy định của BLTTDS, ảnh hưởng đến tỉ lệ giải quyết, thi đua của đơn vị và cá nhân Thẩm phán, trong khi Thẩm phán chính là người ra và chịu trách nhiệm đối với quyết định công nhận kết quả hòa giải thành...

Thứ tư, về giá trị thi hành của quyết định công nhận kết quả hòa giải thành:

Khoản 2 Điều 35 LHGĐT năm 2020 quy định: “Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành được thi hành theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự”.

Tuy nhiên, tại Điều 1 và Điều 2 Luật thi hành án dân sự 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) và Điều 482 BLTTDS năm 2015, các quyết định được thi hành án không có quyết định nào gọi là quyết định

công nhận kêt quả hòa giải thành. “Nói cách khác, phạm vi điều chỉnh của Luật thi hành án dân sự là những bản án, quyết định dân sự được ban hành theo thủ tục tố tụng dân sự quy định tại BLTTDS”4.

4. Báo cáo kết quả triển khai thi hành Luật hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2021.

Do đó, để tránh lúng túng trong thực tiễn áp dụng, Tòa án nhân dân tối cao cần sớm ban hành văn bản giải thích, hướng dẫn chi tiết về việc thi hành quyết định công nhận kết quả hòa giải thành. Do vậy, việc nâng cao hiệu quả của hoạt động hòa giải trong thực tiễn để giải quyết các tranh chấp dân sự là một trong những yêu cầu cấp thiết hiện nay. Cụ thể: Hoàn thiện và nhanh chóng ban hành các văn bản hướng dần chi tiết quy định của Luật HGĐT tại Tòa án năm 2020; đảm bảo về mặt số lượng, cơ sở vật chất, điều kiện làm việc, chi trả thù lao, nâng cao tính chuyên nghiệp, chuẩn hóa đội ngũ Hòa giải viên;

nâng cao vai trò chủ động, tích cực của Tòa án, Thẩm phán nơi tiến hành hòa giải; tăng cường công tác tuyên truyền để người dân nắm được ưu điểm của phương thức giải quyết tranh chấp mới này; tận dụng sự hỗ trợ của các nguồn lực trong nước và học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới. Đây là những cách thức cần quan tâm, tập trung giải quyết nhằm nâng cao hiệu quả của phương thức giải quyết tranh chấp dân sự bằng cơ chế hòa giải tại Tòa án, góp phần giữ gìn trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội, hàn gắn những rạn nứt, ngăn ngừa các tranh chấp dân sự phát sinh.n

I Tạpchí

36

KIỂM SÁT Số10/2022

Referensi

Dokumen terkait

Xuất phát từ thực tế trên, tôi xin mạnh dạn quyết định chọn đề tài: Giải pháp nâng cao chất lượng Nghệ thuật Múa dân gian Việt Nam trên sân khấu ca nhạc Hà Nội hiện nay Tôi hy vọng bài

Khu vực mỏ Bạch Hổ và mỏ Rồng tồn tại song song nguồn phát điện chính bằng nhiên liệu diesel và các tổ máy phát điện bằng turbine khí nên cần phải xác định giải pháp tối ưu để hoàn

Gần đây, việc nghiên cứu máy sấy tháp nhằm giải quyết bài toán về sản lượng sấy và sự khan hiếm lao động đã được nhiều đơn vị tiến hành; nhưng các máy sấy tháp này cũng chưa đáp ứng

Với mục đích hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế, các cuộc Hội thảo Quốc tế về Biển Đông bước đầu đã có những tác dụng hữu ích, đó là góp phần giảm bớt căng thẳng, tăng cường

Do tình hình sử dụng nguồn lao động tại công ty chưa đạt hiệu quả vẫn còn nhiều nhân viên có năng lực yếu kém vì vật công ty cần rà soát chất lượng, điều chỉnh nhân sự lên khi loại bỏ

Nguyễn Thị Thanh Xuân 2011 Đánh giá chất lượng công tác tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế tại chi cục thuế Quận 1 Nghiên cứu định lương, sử dụng thang đo SERVQUAL Tin cậy; đáp ứng;

Tuy nhiên, đội ngũ chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp, người làm công tác pháp luật trong các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa thực hiện nghiêm túc quy

Mặc dù đội ngũ giáo viên đã cơ bản đáp ứng yêu cầu về số lượng, tuy nhiên, chưa có giáo viên nào có trình độ Thạc sĩ hay Tiến sĩ; Cơ sở vật chất phục vụ cho môn học còn nhiều hạn chế,