Từ CHÍNH SÁCH ĐẾN CGỘC SỐNG
Đôi mới công tác đấu thâu
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước tại Việt Nam
HOÀNG CƯƠNG*
Luật
Đâu
thầunăm 2013 cùng với một sô luật
có liênquan,
như: Luật Ngân sách nhà nước;Luật Đầu
tư;Luật Doanh nghiệp;
LuậtXâydựng;LuậtQuản
lý, sửdụng
vốnnhà
nưởcđầu tư vào
sản xuất, kinhdoanhtại doanhnghiệp;Luật
Dược... và các
vănbản hướng dẫn
thihành đãtạo thành
mộthệ
thôngpháp luật tương
đôi đồngbộ, khả
thi,tạo
thuậnlợicho
việcthông nhât quản lý
côngtác đâ'uthầutrong
phạmvicả
nước.Tuy
nhiên,qua 7
năm thựchiện,
Luật Đâuthầu đã bộc lộ mộtsô'
hạnchế, tồn
tại cầnthiết
phải đổimới
côngtác đâu
thầuở nước
ta.Trên cơsở các tồn
tại, hạnchếvà các yêu cầu về
hộinhập
quốctế,về
phòngchống
thamnhũng lãng phí, về cuộc
Cáchmạngcông nghiệp 4.0 vàcác định hướng phát
triển đất nướcgiai
đoạn2021-2030,
bài viêtđề xuâtmộtsô
giảipháp cốt
lõinhằm nâng
caohiệu quả
sửdụng
vônnhànước
thông quađấu thầu
trongthời gian tới.
HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐÂU THAU sử dụng VÔN NHA NƯỚC TẠI VIỆT NAM GIAI ĐỎẠN 2015-2020
Theo Báo cáo tình hình thực hiện hoạt động đâu thầu các năm 2015, 2016, 2017, 2018, 2019 và 2020 tổng số gói thầu, tổng giá gói thầu và tổng giá trúng thầu đều tăng. Tổng số gói thầu tăng từ 153.955 gói thầu (năm 2015) lên 301.587 gói thầu (năm 2020). Giá trị tiết kiệm tuỵệt đối tăng từ 37.122 tỷ đồng (2015) lên 39.036 tỷ đồng (2017), 46.697 tỷ đồng (năm 2020).
Tuy nhiên, tỷ lệ tiết kiệm lại giảm từ 7,86% (năm 2015) xuống còn 6,98%(năm2017),tiếptụcgiảm còn 5,26% (năm 2018); năm 2019 tăng lên 5,59% nhưng năm 2020 lại giảm còn 4,87% (Bảng 1).
Đơnvị:Triệu đồng BẢNG 1: số LIỆU TổNG HỘP chungvề côngtácđấuthau
GIAI ĐOẠN 2015-2020
Năm Tổngsô' gói thầu
Tiết kiệm Tông giá
góithầu
Tổng giá
trúng thầu Giá trị Tỷ lệ tiết kiệm(%) 2015 153.955 472.238.400 435.115.831 37.122.569 7,86 2016 196.721 545.798.198 506.993.682 38.804.516 7,11 2017 221.469 559.156.753 520.119.942 39.036.811 6,98 2018 249.469 683.599.878 647.676.143 35.923.735 5,26 2019 283.400 734.698.467 693.731.019 40.967.448 5,58 2020 301.587 958.543.726 911.847.824 46.695.902 4,87 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Tỷ lệ tiết kiệm thông qua đấu thầu qua các năm 2015-2020 giảm từ 7,86%
xuống còn 4,87%, trong khi tổng số gói thầu, tổng giá gói thầu và tổng giá trúng thâu đều tăng. Như vậy, sô' liệu cho thấy, mặc dù tỷ lệ tiết kiệm thông qua đấu thầu trên cả nước giảm có nguyên nhân từ việc chuẩn hóa dần trong việc xác định dự toán sát với thị trường hoặc căn cứ kết quả lựa chọn nhà thầu trước đó, nhưng công tác đấu thầu trên cả nước vẫn còn những hạn chế nhất định; hiệu quả công tác đấu thầu chưa được bảo đảm.
Trong đó, nhiều bộ, ngành, địa phương, tập đoàn chưa thực sự sát sao, quan tâm đến hiệu quả công tác đấu thầu; chưa có những chỉ đạo quyết liệt, biện pháp hữu hiệu để tăng tỷ lệ tiết kiệm thông qua đấu thầu, cũng như giảm việc áp dụng hình thức lựa chọn nhà thầu kém cạnh tranh, như chỉ định thầu.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, bên cạnh những mặt tích cực, công tác đấu thầu trên phạm vi cả nước vẫn còn tồn tại những hạn chế trong thời gian dài chưa khắc phục được hoặc đã khắc phục, nhưng chưa triệt để, như:
- Một sô' quy định chưa đồng bộ, thống nhất giữa Luật Đấu thầu và các 'Trưởng phòng Chính sách đấu thầu,Cục Quản lý đấu thầu -Bộ Kế hoạch và Đầu tư
16
Kinh tế vàDự báoKinh Jế ì à Dự báu
luật chuyên ngành mặc dù đã tồn tại nhiều năm và được Bộ Kế hoạch và Đầu tư phản ánh tại báo cáo công tác đâu thầu trình Chính phủ, tuy nhiên, vẫn chưa được giải quyết triệt để, ảnh hưởng đến cả chủ đầu tư, bên mời thầu và nhà thầu trong quá trình thực hiện.
- Chỉ định thầu có tỷ lệ tiết kiệm vẫn ở mức rất thấp (năm 2020 chỉ đạt 2,15%).
Trong khi đó, đấu thầu rộng rãi là hình thức có tính cạnh tranh nhất, nhưng tỷ lệ tiết kiệm vẫn chưa thực sự cao (năm 2020 chỉ đạt 5,19%).
- Năng lực, kinh nghiệm của một số chủ đầu tư và một số đơn vị tư vấn đấu thầu vẫn còn hạn chế dẫn đến còn nhiều lúng túng trong quá trình tổ chức đâu thầu, đặc biệt là lựa chọn nhà thầu qua mạng. Một số đơn vị vẫn để xảy ra tình trạng lựa chọn tư vấn đấu thầu mang tính hình thức hoặc buông lỏng quản lý thiếu trách nhiệm, giao phó toàn bộ công việc cho tư vân đấu thầu, vẫn tồn tại những hành vi gây khó khăn trong công tác đấu thầu được biến tướng dưới nhiều hình thức tinh vi, phức tạp, như: cố tình kiến nghị, gây khó dễ, cản trở cuộc thầu hay thỏa thuận với nhà thầu trúng thầu để nhằm thu được lợi ích...
- Nhiều đơn vị chậm đăng tải hoặc không thực hiện đăng tải các thông tin về đấu thầu theo quy định dẫn đến làm giảm tính công khai, minh bạch trong đấu thầu. Bên cạnh đó, vẫn xảy ra tình trạng nhiều bên mời thầu cố tình đăng tải chưa đúng loại gói thầu theo danh mục phân loại, đăng tải không đầy đủ, thiếu thông tin trong hồ sơ mời thầu gây khó khăn cho nhà thầu trong quá trình chuẩn bị hồ sơ dự thầu...
- Hộ thống mạng đấu thầu quốc gia được phát triển trên nền tảng công nghệ của Hệ thông KONEPS được Chính phủ Hàn Quốc tài trợ từ năm 2009. Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia phục vụ công tác đăng tải thông tin trong đấu thầu, thực hiện đấu thầu qua mạng. Mặc dù Hệ thống thường xuyên được nâng cấp để tạo thuận tiện cho người sử dụng, song, do hạn chế về cơ sở hạ tầng, kỹ thuật nên người dùng vẫn còn gặp một số trở ngại khi thao tác, như: chỉ tương thích với trình duyệt Internet Explorer;
chức năng tìm kiếm, khai thác thông tin trên Hệ thông mạng đấu thầu quốc gia còn chưa tôi ưu hóa, giao diện chưa thân thiện với người sử dụng...
- Công tác đào tạo, phổ biến, tuyên truyền thực hiện về đấu thầu còn một số hạn chế, như: công tác tổ chức đào tạo còn thiếu chuyên nghiệp, ít các nội dung để học viên thực hành, dẫn đến việc vận dụng các kiến thức được đào tạo trong công việc đấu thầu thực tế tại đơn vị chưa cao; một số đơn vị đào tạo chứng chỉ đấu thầu cơ bản không bảo đảm thời lượng theo quy định, giảng viên không đáp ứng yêu cầu về năng lực, kinh nghiệm để giảng dạy, công tác quản lý học viên chưa đáp ứng nhu cầu...
- Số cuộc kiểm tra chuyên sâu còn hạn chế. Cụ thể, theo Báo cáo công tác đấu thầu năm 2020 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong năm 2020 trên phạm vi cả nước chỉ có khoảng 56 cuộc kiểm tra chuyên sâu về đấu thầu trên tổng số hơn 200 cuộc kiểm tra, nội dung kiểm tra đấu thầu vẫn chủ yếu được lồng ghép trong hoạt động giám sát, thanh tra tổng thể đầu tư hoặc kiểm tra, thanh tra về đầu tư xây dựng cơ bản. Ngoài ra, các cuộc thanh tra, kiểm tra còn hạn chế về thời gian, nhân lực, do đó, hiệu quả mà hoạt động thanh, kiểm tra mang lại chưa cao; ở nhiều địa phương, việc phát hiện và xử lý sai phạm trong công tác đấu thầu vẫn còn chưa triệt để. Công tác hậu thanh tra, kiểm tra cũng chưa thực sự được quan tâm, dẫn tới việc sau khi thanh tra, kiểm tra xong thì các tồn tại vi phạm không được giải quyết triệt để và vẫn tiếp tục tái diễn. Bên cạnh đó, một trong các nguyên nhân khiến các tiêu cực, hạn chế trong công tác đấu thầu chưa được xử lý dứt điểm là do chưa thực hiện xử lý nghiêm túc các hành vi vi phạm pháp luật về đấu thầu, chế tài xử lý hành chính trong lĩnh vực đâu thầu chưa đủ sức răn đe.
- Công tác quản lý sau đấu thầu còn chưa được thực hiện thường xuyên và còn buông lỏng, sản phẩm của quá trình đấu thầu cuối cùng là hợp đồng ký kết giữa chủ đầu tư và nhà thầu trúng thầu. Hiệu quả đạt được từ công tác đấu thầu phụ thuộc rất nhiều vào việc thực hiện nghĩa vụ và ràng buộc giữa chủ đầu tư và nhà thầu mà hai bên đã ràng buộc trong hợp đồng. Tuy nhiên, ở một số trường hợp, việc quản lý thực hiện hợp đồng còn bị buông lỏng; công tác quản lý nhà thầu trong quá trình thi công chưa chặt chẽ; một số nhà thầu sau khi trúng thầu không bô' trí đủ nhân lực, thiết bị, tài chính bảo đảm tiến độ thi công, như: hồ sơ dự thầu và hợp đồng đã ký kết, nhưng chủ đầu tư chưa có biện pháp tích cực xử lý theo đúng thỏa thuận nhưhợp đồng và quy định của pháp luật.
ĐỔI MỚI CÔNG TÁC, ĐẤU THAU NHAM NÂNG CẠO HIỆU ỌUẢ ĐAU TƯ sử DỤNG VốN NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM
Đổi mớicôngtác đâ'u thầu là một đòi hỏi khách quan vàcẩp thiết
Xuâ't phát từ các tồn tại, hạn chế nêu trên, việc nghiên cứu, đổi mới công tác đâ'u thầu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước tại Việt Nam là một đòi hỏi khách quan và câ'p thiết. Tính câ'p thiết thể hiện ở một số khía cạnh như sau:
Economy and Forecast Review
17
Từ CHÍNH SÁCH ĐẾN caộc SỐNG
Cán bộ Ban Quản lý dự án xây dựng và Phát triển cụm công nghiệp huyện Yên Lạc kiểm tra hồ sơ đấu thầu qua mạng
Thứnhất, cần đổi mới công tác đấu thầuđể phù hợp với xu thế hội nhập
Việt Nam đang phải thực thi các hiệp định thương mại tự do (FTA) lớn, như: Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA), Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai-len (UKVFTA)... Trong các hiệp định này đều có Chương về đấu thầu (Mua sắm chính phủ) và từ khi các FTA có hiệu lực, Việt Nam phải tuân thủ các quy định về đấu thầu của các FTA đó. Vì vậy, nhu cầu phải hoàn thiện chính sách đấu thầu, hướng dẫn việc tuân thủ đấu thầu của hiệp định, hướng dẫn cho nhà thầu Việt Nam hiểu quy định về đâu thầu của hiệp định, cũng như quy định về đấu thầu của các nước thành viên để nhà thầu Việt Nam có thể tham dự thầu ở các nước thành viên... là cấp thiết.
Báo cáo Việt Nam 2035 - Hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và dân chủ (Chính phủ, 2016) đã nêu rõ 6 đột phá mà Việt Nam cần phải thực hiện, đó là: (i) Xây dựng thể chế hiện đại và nhà nước hiệu quả; (ii) Hiện đại hóa nền kinh tế và phát triển khu vực tư nhân trong nước có năng lực cạnh tranh cao;
(iii) Phát triển năng lực đổi mới sáng tạo; (iv) Bảo đảm công bằng và thúc đẩy hội nhập xã hội; (v) Phát triển bền vững về môi trường và tăng cường khả năng chông chịu với biến đổi khí hậu; (vi) Nâng cao hiệu quả của quá trình đô thị hóa, tăng cường kết nối giữa thành phô' và các vùng phụ cận.
Chương trình hành động của Chính phủ triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2021 đã nêu: “...Tập trung huy động mọi nguồn lực đầu tư (vốn từ khu vực tư nhân trong nước, vốn FDI, vốn ODA, vốn vay của các tổ chức tín dụng quốc tế...) với nhiều hình thức đầu tư, đặc biệt là đầu tư theo hình thức đô'i tác công tư ppp để đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các công trình,
dự án trọng điểm, quan trọng...; nâng cao năng lực của các đại diện cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các tổ chức tư vấn, thiết kế giám sát; rà soát để loại bỏ ngay các nhà thầu có năng lực yếu kém...
Từ những yêu cầu đặt ra như phân tích ở trên, chính sách pháp luật về đấu thầu cũng cần phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, như: cần cải tiến quy trình thủ tục đấu thầu theo hướng đơn giản hóa; bổ sung các quy định về đấu thầu bền vững/đấu thầu xanh, đấu thầu của doanh nghiệp nhà nước, phương pháp đánh giá theo chi phí vòng đời, ưu đãi trong nước, đấu thầu sử dụng hàng hóa lần đầu được sản xuất trong nước thay thế hàng nhập khẩu; mua sắm đối với các sản phẩm đổi mới, sáng tạo; hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, hỗ trợ cho các đối tượng yếu thế trong xã hội...
Thứ hai, đổi mới công tácđấu thầu để phù hợp với cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0
Từ nhiều năm qua, các quôc gia trên thế giới đã và đang ứng dụng công nghệ thông tin, thương mại điện tử để cung cấp các dịch vụ công của chính phủ. Theo ước tính, giá trị mua sắm công chiếm từ 10%-25% GDP của mỗi quô'c gia, vì vậy việc triển khai đấu thầu, mua sắm công qua mạng luôn được xem là một trong những ưu tiên của chính phủ các nước khi thực hiện chương trình Chính phủ điện tử và thực tế đã mang lại nhiều lợi ích cho chính phủ, cộng đồng doanh nghiệp (nhà thầu) và người dân. Nhờ Cách mạng công nghiệp 4.0, nên các giải pháp công nghệ sẽ cho phép việc tiếp cận và sử dụng đấu thầu qua mạng trở nên dễ dàng, ít tốn kém và kịp thời, đáng tin cậy hơn.
Yêu cầu trong thời gian tới là phải tiếp tục chuyển đổi bộ máy nhà nước sang kinh tế sô' cả về tư duy quản lý và công cụ quản lý là điều kiện tiên quyết cho thực hiện Cách mạng công nghiệp 4.0 ở Việt Nam. Bên cạnh đó, điều kiện công nghệ hiện nay cho phép xây dựng một hệ thống công nghệ thông tin hoàn chỉnh để triển khai đấu thầu qua mạng một cách hiệu quả trên phạm vi cả nước.
Thứ ba, đổimớicông tác đấuthầu để phù hợpvới Nghị quyết củaĐại hội Đại
biểu Đảng toànquốclần thứ XIII Nghị quyết của Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã thông qua định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 là “(1) Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về
18
Kinh tế và DựbáoIÍ ill IIỊê và Dự háo
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường..., tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước. (2) Hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh”...
Theo đó, một trong các đột phá chiến lược mà Nghị quyết của Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XIII nêu ra là:
“Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, cạnh tranh hiệu quả. Tập trung ưu tiên hoàn thiện đồng bộ, có chất lượng và tổ chức thực hiện tốt hệ thông luật pháp, cơ chế, chính sách, tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng cho mọi thành phần kinh tế, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển, nhất là đất đai, tài chính, hợp tác công - tư; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực bằng hệ thống pháp luật”.
Như vậy, qua 7 năm thực hiện Luật Đấu thầu đã bộc lộ một số hạn chế, tồn tại, cần thiết phải đổi mới để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước thông qua đấu thầu.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CẦN THỰC HIỆN
Từ yêu cầu về tính cấp thiết nâng cao hiệu quả, năng lực thực thi pháp luật về đấu thầu, đưa Luật Đấu thầu thực sự đi vào cuộc sống, phù hợp với xu thế hội nhập, một số giải pháp cần thực hiện là:
Một là,cần nghiên cứu, sửa đổi toàn diện Luật Đâu thầu theo hướng thống
nhất tất cả các quy định về mua sắm, đấu thầu trong một bộ luật với tư cách là luật gốc để điều chỉnh tất cả các hoạt động mua sắm sử dụng vốn nhà nước, đấu thầu các dự án đầu tư có sử dụng đất nhằm tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn; đồng thời, phù hợp với thông lệ tốt của quốc tế và cam kết của Việt Nam trong các FTA.
Hailà, cần xây dựng quy trình mua sắm đấu thầu theo hướng tôi ưu hóa, đơn giản thủ tục hành chính trong đấu thầu; áp dụng tối đa các lợi ích của hệ thống công nghệ thông tin để triển khai mạnh mẽ đấu thầu qua mạng, đồng thời đưa ra lộ trình cụ thể để hướng tới sẽ thực hiện 100% gói thầu đâu thầu qua mạng thay cho đấu thầu truyền thống; khai thác tối đa các tính năng của Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia hiện đang được Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng (thay thế cho Hệ thống đang hoạt động được xây dựng từ năm 2009). Bổ sung các quy định cụ thể về mua sắm xanh, đâu thầu bền vững; ưu đãi cho nhà thầu và hàng hóa trong nước; cơ chế mua sắm và sử dụng hàng hóa lần đầu được sản xuất tại Việt Nam thay thế cho hàng nhập khẩu; mua sắm đối với các sản phẩm đổi mới, sáng tạo; hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, hỗ trợ cho các đối tượng yếu thế trong xã hội...
Ba là,cần nâng cao năng lực thực thi pháp luật về đấu thầu, gắn trách nhiệm của người đứng đầu trong việc tăng cường tính cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế khi mua sắm sử dụng nguồn vốn nhà nước. Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát đi đôi với tăng cường công tác hậu kiểm. Có chế tài xử lý nghiêm đôi với những trường hợp vi phạm hoặc kiểm tra, giám sát hình thức, đặc biệt là những trường hợp cố tình bỏ qua, bao che vi phạm hoặc phát hiện, nhưng không xử lý vi phạm theo quy định.
Bôn là,cần tiếp tục tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật đi đôi với đào tạo, nâng cao năng lực, đặc biệt là đạo đức công vụ, nghề nghiệp đối với các cá nhân tham gia trực tiếp vào hoạt động đấu thầu.
Việc sửa đổi Luật Đấu thầu nói riêng và đổi mới công tác đâu thầu tại Việt Nam nói chung trong thời gian tới phải bảo đảm phù hợp với tình hình phát triển của đất nước, phù hợp với những nguyên tẳc cơ bản của kinh tế thị trường, thúc đẩy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế thành công, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.□
TÀI LIỆU THAMKHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XIU 2. Quốc hội (2013). Luật Đấu thầu, số 43/2013/QH13, ngày 26/11/2013
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2016-2021). Báo cáo công tác đấu thầu các năm, từ năm 2015 đến 2020 4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng Thế giới (2016). Báo cáo Việt Nam 2035 hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và dân chủ
5. Vũ Cương, Phạm Văn Vận (2012). Giáo trình Kinh tế công cộng, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội
Economy andForecast Review
19