Nguyễn Thị Vĩnh Linh1
Tóm tắt: Vào các thế kỷ XVI, XVII, Hội An (Quảng Nam) là một thương cảng quốc tế vô cùng sầm uất thu hút thương nhân từ khắp nơi trên thế giới đổ về để thu mua hàng hóa. Trong khi đó, ở châu Âu, Bồ Đào Nha cùng với hạm đội hùng mạnh của mình đã khám phá thành công tuyến đường hàng hải mới đến Ấn Độ, Đông Nam Á và Viễn Đông. Như một cơ duyên lịch sử, cùng với chính sách mở cửa của chúa Nguyễn, Hội An đã trở thành một trong những địa điểm đầu tiên ở Đàng Trong thiết lập quan hệ thương mại và truyền giáo với người Bồ Đào Nha. Trong phạm vi của bài nghiên cứu này, chúng tôi muốn phân tích hoạt động thương mại và truyền giáo của Bồ Đào Nha ở Hội An từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVII. Trên cơ sở đó, chúng tôi lý giải một số nguyên nhân thúc đẩy sự phát triển của các hoạt động này ở cảng thị Hội An trong một thời kỳ lịch sử nhiều biến động.
Từ khóa: Thương mại, Truyền giáo, Bồ Đào Nha, Hội An.
1. Mở đầu
Là một trong những quốc gia tiên phong của thời đại khám phá (Discovery age), thế kỷ XVI, XVII, Bồ Đào Nha đã khai mở thành công tuyến thương mại biển độc quyền qua mũi Hảo Vọng dựa trên hệ thống thương điếm phân bố dọc duyên hải Phi châu, Ấn Độ, Đông Nam Á đến Viễn Đông. Song song với hoạt động giao thương, công cuộc truyền giáo của các giáo đoàn dưới sự bảo trợ của Hoàng gia Bồ Đào Nha cũng gặt hái được nhiều thành quả khi ba giáo phận Goa (Ấn Độ), Malacca (Đông Nam Á) và Macao (Trung Quốc) lần lượt ra đời. Đại Việt - một quốc gia nằm trên tuyến thương mại nội Á - bắt đầu có quan hệ với thương nhân người Bồ từ đầu thế kỷ XVI. Các sự kiện lịch sử cũng ghi nhận ảnh hưởng của Bồ Đào Nha ở Việt Nam trên cả hai phương diện thương mại và truyền giáo. Trong công cuộc truyền giáo của các giáo đoàn Bồ Đào Nha ở Việt Nam, Faifo - Hội An2 là một trong những địa điểm đóng vai trò không thể thay thế và được xem là một trong những “cái nôi” khai sinh chữ Quốc ngữ.
2. Nội dung
1. TS., Đại học Quảng Nam.
2. Qua từng thời kỳ lịch sử, Hội An có nhiều tên gọi khác nhau như: Faifo, Hoài Phố, Bô, Hải Phố, Hổ Bi, Cổ Trai, Cổ Tam, Phuy Phô…Tên gọi "Hội An" xuất hiện đầu tư trong văn thư lịch sử là vào khoảng 1630-1635 trên bản đồ Đỗ Công Luân tức Đỗ Bá vẽ, được in trên sách "Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư"
ở thời nhà Lê vào khoảng 1630-1653 đã ghi lần đầu tiên địa danh "Hội An Phố".Trong bài nghiên cứu này, tôi mạn phép dùng tên gọi Hội An để chỉ đô thị - thương cảng Hội An với một không gian địa lý rộng lớn gồm: cửa biển, tiền cảng, các bến chợ… mà trong thời kỳ lịch sử này thường được các thương nhân châu Âu gọi là Faifoo hay Faifo.
2.1. Dấu ấn của những cuộc tiếp xúc đầu tiên
Sau chuyến viễn chinh của Vasco da Gama (1460-1524), Hoàng gia Bồ Đào Nha đẩy mạnh hơn nữa quá trình khám phá Ấn Độ dương bằng việc xác lập thương điếm quan trọng tại Goa và Diu (Ấn Độ) vào đầu thế kỷ XVI. Từ hai căn cứ này, Bồ Đào Nha hướng sự chú ý đến Đông Nam Á - một trong những trung tâm hương liệu của toàn thế giới. Với chiến lược: “để giành được ưu thế về thương mại ở Ấn Độ Dương thì điều nhất thiết là phải chiếm và kiểm soát được các vị trí chiến lược chủ yếu và thúc đẩy hoạt động buôn bán có thể cung cấp thu nhập đủ để duy trì sức mạnh không gì cưỡng lại được” [6; 218], Afonso de Albuquerque (1453 - 1515) - Phó vương Bồ Đào Nha tại Ấn Độ quyết định xâm chiếm Malacca (lúc này đang nằm dưới quyền thống trị của Sultan Mahmud Shah (1488-1511)) vào năm 1511. Sau nhiều trận chiến quyết liệt, đến ngày 24/8/1511, Malacca đã nằm dưới quyền khống chế của Bồ Đào Nha. B.W.Diffie và G.D.Winius trong cuốn “Foundations of the Portuguese Empire 1415-1580” ca ngợi:
“Việc chiếm đóng một thành phố thương mại lớn nhất của châu Á với lực lượng gần 900 người Bồ Đào Nha và 200 binh lính người Ấn Độ như là một sự kiện trong lịch sử các cuộc viễn chinh của người châu Âu vào không hề gây ấn tượng ít hơn việc xâm chiếm Tenochtitlan của Hernando Cortés” [1; 256].
Việc xác lập thành công quyền thống trị ở Malacca đã tạo điều kiện thuận lợi cho hạm đội thương thuyền Bồ Đào Nha xâm nhập vào Đông Nam Á, tìm kiếm tuyến hải thương đến Trung Quốc. Lần theo những dấu vết của lịch sử, chúng tôi bắt gặp rải rác một số tư liệu có đề cập về những cuộc tiếp xúc đầu tiên của Bồ Đào Nha với Hội An (lúc này thường được gọi là vịnh Cochinchina hay Faifoo - Faifo).
Vào tháng 2/1516, Phó vương Bồ Đào Nha ở Ấn Độ đã cử một hạm đội do Fernão Peres de Andrade3 chỉ huy khởi hành từ Goa. Sau khi dừng lại ở Malacca, đến tháng 8, ông cho tàu cập bến ở vịnh Cochinchina. Tuy nhiên, do gặp phải gió ngược chiều nên họ chỉ lưu lại đây vài ngày rồi trở lại Malacca [10; 337]. Đây có lẽ chính là sự kiện mà Li Tana dẫn lại ý kiến của Manguin đề cập đến trong tác phẩm “Xứ Đàng Trong, Lịch sử Kinh tế - Xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18”: “Bồ Đào Nha có cuộc tiếp xúc đầu tiên với người Việt vào năm 1516,...” [15; 120]. Đến năm 1523, nhà hàng hải Duarte Coelho Pereira4 (1485 - 1554) là người Bồ Đào Nha đầu tiên đặt chân đến vùng đất
“Cochinchina” (Đàng Trong) khi cho tàu qua Cửa Hàn (Đà Nẵng) và ghé vào Cù Lao Chàm (Pulo Champeiló). Tại đây, ông đã cho dựng một cây thánh giá có khắc chữ INRI
3. Ông là một thuyền trưởng, dược sĩ và là nhà ngoại giao của Bồ Đào Nha trong thời kỳ đất nước này bắt đầu khám phá và xây dựng mạng lưới thương điếm của mình trên toàn châu Á. Ông đã tham gia vào những cuộc xâm chiếm của người Bồ Đào Nha ở Chaul (1506), Calicut, và Goa (1510). Sau khi đóng vai trò tích cực trong việc đánh bại lực lượng Hồi vương Malacca (1511), ông được cử làm đại sứ của Estado da India để tiến hành thiết lập quan hệ thương mại với Trung Quốc. Trong chuyến hải hành của mình đến Trung Quốc, ông đã ghé vào vịnh Cochinchina.
4. Ông là một quý tộc và là nhà chỉ huy quân sự đầy tài năng người Bồ Đào Nha. Trong những năm 1516 - 1517, ông trở thành đại sứ được vua Bồ Đào Nha cử đến thiết lập quan hệ với Xiêm và Trung Quốc.
(là những ký tự viết tắt cho câu viết tiếng Latinh: Ieus Nazarenus Rex Iudaeorum, nghĩa là: “Jesus người Nazareth, Vua dân Do Thái”), tên của ông và năm ông đến [9; 632].
Phải hơn mười lăm năm sau đó (1540), một thương thuyền Bồ Đào Nha khởi hành từ Patani (Malaya) dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Antonie de Faria (? - 1548) mới ghé vào thương cảng Hội An cho lần tiếp xúc thứ ba. Fernão Mendes Pinto (1510 - 1583) - một trong những thành viên tham gia thủy thủy đoàn đã ghi lại hành trình đáng nhớ này trong cuốn Du ký Peregrinacao5 với nhiều thông tin thú vị về Cù lao Chàm và Hội An: “Ngày thứ Tư tiếp theo, chúng tôi rời khỏi sông Varela - thường được biết đến với tên gọi Tinacoreu, và tại đây hoa tiêu nghĩ rằng tốt nhất họ nên đến Pulo Champeilo (Cù Lao Chàm), là một hòn đảo không có cư dân cư trú nằm ngay lối vào của vịnh Cochinchina tại 14 độ 1/3 vĩ độ Bắc” [9, 74]. Sau khi vào bên trong thương cảng, ông bắt gặp “một hạm đội thuyền lớn và rất hùng dũng khoảng 40 chiếc, mỗi chiếc trong số đó có từ 2 đến 3 tổ quạ trên cột buồm, và sợ rằng đó là một trong những dấu hiệu riêng của đội thuyền thuộc chính quyền bản địa...” [9; 75]. Đến cảng thị “là một thị xã có diện tích vừa phải với trên 30.000 cư dân được bao bọc bởi tường thành xây bằng gạch có các tháp canh và thành lũy bố trí bên trong, một vòng thành ngoài và 2 con hào chạy vòng quanh [9; 75].
Những thông tin này đã đem lại cho người đọc hình dung ban đầu về một Hội An - thường được gọi là Faifoo hoặc Cochin-china Bay vào thế kỷ XVI. Đây là địa điểm thương thuyền Bồ Đào Nha ghé vào để lấy nước ngọt, củi đốt và dừng nghỉ chân trong chuyến hải thương từ Goa (Ấn Độ) đến các thương điếm tại Trung Quốc và Nhật Bản.
Mặc dù các cuộc tiếp xúc này diễn ra không thường xuyên nhưng cũng đặt cơ sở quan trọng cho sự phát triển hoạt động giao thương ở giai đoạn tiếp sau.
2.2. Thương mại của người Bồ Đào Nha ở Hội An (thế kỷ XVI - XVII)
Trong thực tế, người Bồ Đào Nha đã quan tâm đến Hội An sau khi thương điếm Macao chính thức được xác lập vào năm 1557. Sự phong phú của các chủng loại hàng hóa đã trở thành một hấp lực lớn của thương cảng Hội An: “Hàng hóa sản xuất ở các phủ Thăng Hoa, Điện Bàn, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Bình Khang và dinh Nha Trang, đường thủy, đường bộ, đi thuyền, đi ngựa, đều hội tập ở phố Hội An...” [15; 117-118].
Và chính Christophoro Borri trong Bản tường trình “Xứ Đàng Trong năm 1621” đã nhận xét: “Hải cảng đẹp nhất, nơi tất cả người ngoại quốc đều tới và cũng là nơi có hội chợ danh tiếng chính là hải cảng thuộc tỉnh Quảng Nam. Người ta cập bến bằng hai cửa biển: một gọi là Turon (Đà Nẵng) và một gọi là Pulluciambello (Hội An) [5; 91].
Thế nhưng, trong những năm cuối thế kỷ XVI, hoạt động giao thương của Bồ Đào Nha ở Hội An vẫn không có nhiều khởi sắc.
Động lực thúc đẩy sự liên kết thương mại giữa Bồ Đào Nha và Hội An đến từ một thế lực khác nằm ngoài lãnh thổ Việt Nam - thương nhân Nhật Bản và thương nhân
5. Là tên cuốn du ký do Fernão Mendes Pinto viết khi tham gia chuyến viễn chinh từ Ấn Độ đến Viễn Đông. Cuốn sách này chính thức được xuất bản vào năm 1614 - khoảng 30 năm sau khi Pinto qua đời.
Trung Quốc. Hai cộng đồng thương nhân này tập trung sinh sống ở Hội An do nhiều nguyên nhân khác nhau. Phần lớn thương nhân Thiên Chúa giáo Nhật Bản di cư đến thương cảng này như một sự trốn chạy khỏi sắc lệnh “cấm đạo” của Mạc phủ (1614)6. Phát hiện ra sự tập trung đông đúc và thường xuyên của thương nhân Nhật Bản tại Hội An, chính quyền Bồ Đào Nha tại Macao nhận thấy sự cần thiết phải duy trì sự hiện diện và phát triển buôn bán tại hải cảng này. Và vì vậy, năm 1615, các linh mục dòng Tên Bồ Đào Nha cũng đến đây với mục đích: “chăm sóc đời sống của tín đồ Nhật Bản, những người hàng năm đều từ Nhật Bản đến Cochin-china để buôn bán, và nhiều người trong số họ sẽ trú đông ở đây trong một hay nhiều năm để thiết lập quan hệ giao thương tốt hơn với người Cochin-china” [12]. Khi nền thương mại với Nhật Bản hoàn toàn chấm dứt vào năm 1639, thương nhân Bồ Đào Nha ở Macao chịu sức ép ngày càng gay gắt do sự thiếu hụt nguồn hàng hóa cung cấp cho thị trường Trung Quốc cũng như sự cạnh tranh mạnh mẽ của Đông Ấn Hà Lan (VOC). Vì thế, Hội An ngày càng đóng vai trò quan trọng trong chiến lược thương mại của người Bồ Đào Nha ở Macao. Cũng trong thời điểm lịch sử đó, quyết định chấm dứt chính sách “hải cấm” sau gần 200 năm duy trì (1567) của hoàng đế Minh Mục Tông đã trở thành động lực quan trọng thúc đẩy người Hoa khôi phục lại mạng lưới giao thương trên biển Đông. Thế nhưng, việc họ quyết định định cư tại Hội An lại đến từ cuộc chiến Minh - Thanh (1618 - 1683). Quá trình nhập cư này diễn ra theo hai xu hướng chính: hoặc thành lập các bang theo ngôn ngữ gốc, hoặc nhập tịch và xin các chúa Nguyễn thành lập Minh Hương xã. Sự hình thành và phát triển của hai cộng đồng thương nhân Nhật Bản và Trung Hoa không những khiến cho thương mại đường biển trở nên sầm uất mà còn trở thành nhân tố nổi bật thu hút các thương nhân người Bồ Đào Nha từ Macao.
Cùng với chính sách thương mại “cởi mở” của các chúa Nguyễn, đến đầu thế kỷ XVII, “người Bồ cùng với người Nhật là thương nhân nước ngoài chủ yếu của thị trường Hội An” [16; 98]. Theo đó, “họ di chuyển theo hành trình của gió mùa, từ tháng 3 đến tháng 9 là sáu tháng gió thổi từ Tây Nam lên Bắc, từ tháng 9 đến tháng 12 là ba tháng gió thổi từ Đông Bắc xuống Nam, đó chính là hải trình của các đoàn thuyền buôn. Các thương giavào đây để mua thêm thực phẩm tươi để dự trữ cho các chuyến hải trình từ Hội An điMacao khoảng 9 ngày, hoặc từ Hội An đi Malaya khoảng 20 ngày” [8; 32]. Như vậy, thời điểm mở ra các cuộc giao dịch tại Hội An gần trùng với dịp Tết Nguyên đán kéo dài trong 6 hay bảy tháng (từ tháng 2 đến tháng 9 dương lịch).
Mặt hàng chính trong tuyến giao thương này khá phong phú: “thuyền của họ chủ yếu từ Macao đến đầu kỳ mậu dịch mang theo các hàng đồ sành, đồ sứ, bạc thoi, diêm sinh, lưu huỳnh, chì kẽm, vải nỉ màu xanh, đỏ...Trong số hàng hóa thu được lãi cao nhất
6. Mạc phủ ban hành sắc lệnh trục xuất thừa sai vào ngày 27/1/1614. Theo sắc lệnh này, tất cả các thừa sai ở Nhật Bản buột phải tập trung tại Nagasaki để chuẩn bị cho việc trục xuất và đến cuối năm 1614, hầu như tất cả các nhà thờ đều bị đóng cửa hoặc phá hủy hoàn toàn.
là các hợp kim. Người Bồ mua tổ yến, trầm hương, vải lụa, tơ, gỗ quý, quế, đường...
chở về Macao hay Malacca. Họ chịu một khoảng thuế thương chính cao nhất trong các thương thuyền đến Hội An” [16; 98-99]. Hơn nữa, thương nhân Bồ Đào Nha cực kỳ ưa chuộng các mặt hàng xứ Quảng: “dân bản xứ có thói quen mang đến vào lúc ấy các sản phẩm trong xứ: sợi tơ sống và tơ đã chuốt, gỗ tốt đóng đồ đạc, gỗ trầm hương, đường, xạ hương, quế, hồ tiêu, gạo” [3; 35]. Không chỉ quan tâm đến các mặt hàng phổ biến, thương nhân Bồ (từ kinh nghiệm của thương nhân người Hoa) đặc biệt quan tâm đến kỳ nam hương: “Kỳ nam hương màu đen, có dầu và giá 50cruzados một catty nơi người Bồ Đào Nha, trong khi tại chính nơi sản xuất, nó trị giá ngang với bạc, bao nhiêu kỳ nam hương là bấy nhiêu bạc” [15; 135]. Bên cạnh đó, đồng tiền, vàng thỏi và bạc cũng được thương nhân Bồ Đào Nha quan tâm: “Vào năm 1615, họ đã xuất khẩu 120.000 taels tiền đồng đến Cochinchina và bán được với giá 180.000 taels” [11;118].
Ở chiều ngược lại, mặt hàng của Bồ Đào Nha mà chính quyền nhà Nguyễn ưa chuộng nhất là vũ khí (đặc biệt là đại bác). Cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn (1627- 1672) đã trở thành cơ hội tốt thúc đẩy giao thương của người Bồ ở Hội An. Chúa Nguyễn rất mong muốn mua được loại “súng đồng tốt nhất tại phía Đông” từ xưởng đúc của người Bồ Đào Nha ở Macao (1627-1680). Khi Borri đến Cochinchina (1617- 1622) dưới thời Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên (1613 - khoảng 60 súng đại bác lớn nhất được bố trí trong cung điện nhà vua (chúa Nguyễn Phúc Nguyên)” [7; 1263]; “Nhà vua có một ngàn hai trăm khẩu đại bác, tất cả đều bằng đồng, trong số này người ta thấy nhiều khẩu có kích thước khác nhau, mang huy hiệu của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha...” [15; 69]. Và “ngoài biển họ chiến đấu trên thuyền như đã nói, mỗi thuyền có súng đại bác và nhiều súng musqueton” [5; 84]. Đặc biệt, João da Crux (1610 - 1682) - một thợ đúc đại bác người Bồ Đào Nha đã phục vụ cho chúa Nguyễn từ những năm 1650 đến khi ông qua đời. Những đóng góp của Crux đã góp phần quan trọng cải thiện kỹ thuật đúc súng thần công của người Việt.
Hoạt động thương mại của người Bồ Đào Nha ở Hội An tuy không thể so sánh với Macao hay Malacca nhưng cũng đạt nhiều thành tựu. Quan hệ giao thương hòa bình giữa hai bên là một đặc điểm quan trọng trong hoạt động của người Bồ Đào Nha ở Hội An. Từ phía chính quyền bản địa, chúa Nguyễn (Nguyễn Phúc Nguyên) ưu ái cho thương nhân Bồ Đào Nha nhiều nhất. Chúa chủ động cấp đất cho người Bồ xây dựng trụ sở buôn bán và tạm trú như trường hợp của người Hoa và người Nhật. “Fernando da Costa là vị sứ thần được chúa Nguyễn nể trọng nên đã trục xuất thương nhân Hà Lan theo yêu cầu của Costa vì sự cạnh tranh của hai đối thủ phương Tây này tại Hội An vào đầu thế kỷ XVII” [2; 73]. Tuy nhiên khác với người Hà Lan hay Anh sau này, Bồ Đào Nha không thiết lập đại lý thương mại và chỉ thuê văn phòng và nơi cư trú trong khoảng thời gian thu mua hàng hóa tại Faifo-Hội An. Theo nhiều nguồn tài liệu, “văn phòng” của người Bồ Đào Nha lớn hơn tất cả những ngôi nhà khác tại Hội An với mặt trước để kinh doanh, mặt sau là nơi chứa hàng hóa và sinh hoạt [13; 157]. Do đó, người Bồ Đào Nha cũng chỉ sử dụng môi giới hay đại diện đứng ra để mua các loại hàng hóa
cần thiết mà thôi.
Thế nhưng, sau giai đoạn buôn bán tương đối ngắn ngủi ở Hội An, đến nửa cuối thế kỷ XVII, cùng với sự xuất hiện của người Hà Lan, sự suy yếu của mạng lưới thương điếm Bồ Đào Nha trên toàn châu Á, hoạt động thương mại của Bồ Đào Nha ở Hội An cũng đi dần vào con đường suy tàn và chấm dứt.
2.3. Hoạt động truyền giáo của các giáo sĩ Bồ Đào Nha ở Hội An (thế kỷ XVI - XVII)
Song hành với hoạt động thương mại, các linh mục dòng Tên Bồ Đào Nha (the Jesuits) cũng mở rộng công cuộc truyền giáo của mình đến Hội An. Theo chân các giáo dân người Nhật Bản di cư đến Hội An sau sắc lệnh “cấm đạo” năm 1614 của Mạc Phủ,
“ngày 6/1/1615, ba tu sĩ dòng Tên là hai L.m Francesco Buzomi (Ý), Diego Carvalho (Bồ Đào Nha) và thầy Antonio Dias (Bồ Đào Nha), đáp tàu buôn Bồ Đào Nha từ Áo Môn đi Đàng Trong và tới Cửa Hàn ngày 18/1/1615. Sau đó mấy tháng, các ông đến ở Hội An” [4, tr.24]. Khi đến đây, các linh mục đã “làm thánh lễ với số dân Nhật Bản và 1 năm sau họ đã cải giáo được 300 người Việt xung quanh khu vực này” [16, tr.270].
Năm 1615 đi vào lịch sử truyền giáo của người Bồ Đào Nha như mốc thời gian chính thức đánh dấu sự thành lập cư sở Hội An - cư sở chính thức đầu tiên của Dòng Tên (the Jesuits) ở Việt Nam7. Nhận thấy tiềm năng của Hội An, trong những năm tiếp theo, giáo phận Macao liên tiếp gửi đến Hội An thêm nhiều nhà truyền giáo thuộc Dòng Tên (the Jesuits), bao gồm: hai giáo sĩ Francisco Barreto và Francisco de Pina (1617); phái đoàn gồm giáo sĩ Pedro Marquez làm tuyên uý và Christofo Borri (1618); 4 giáo sĩ Giovani de Leira (người Ý), Romano Niti (Nhật Bản), Emmanuel Borges và Emmanuel Fernandez đến Hội An năm 1622.
Năm 1624, đánh dấu một giai đoạn quan trọng trong công cuộc truyền bá Thiên Chúa giáo tại Hội An với sự xuất hiện một đoàn truyền giáo gồm 6 giáo sĩ do Gabriel Mattos cầm đầu (trong đó có Alexandre de Rhodes). Đến năm 1625, tổng số Jésuites hữu ở Đàng Trong là 15 thì ở Hội An có 6, năm 1625, các giáo dân được rửa tội là 325 người [8, tr. 65]. Năm 1628, giáo sĩ “Gaspar de Amaral cùng với 2 người Nhật gốc Bồ Đào Nha là Michael Machi và Matthias Machide” [18, tr.118] và năm 1636 linh mục Antonio Barbosa đến Hội An. Vai trò của giáo đoàn này được thể hiện thông qua linh mục Gaspa de Amaral và Antonio Barbosa - những người có vị trí quan trọng trong tiến trình sáng tạo nên chữ Quốc ngữ ở Việt Nam. Hoạt động thường xuyên và tích cực của Dòng Tên ở Hội An đã đem đến cho công cuộc truyền giáo nơi đây nhiều thành tựu nổi bật. Cho đến trước khi Hội truyền giáo Thừa sai Paris (MEP) thay thế vai trò của các linh mục Bồ Đào Nha tại Hội An thì “trong những năm từ 1615 - 1665, ở Hội An có 3 cộng đoàn theo đạo Thiên Chúa gồm cộng đoàn người Nhật, cộng đoàn người Hoa và cộng đoàn người Việt. Mỗi cộng đoàn có cơ sở thờ tự riêng.” [17].
7. Hai cư sở còn lại là: Nước Mặn (1618) và Thanh Chiêm (1623).
Để lý giải nguyên nhân khiến Hội An trở thành một trong những trung tâm truyền giáo quan trọng ở khu vực Viễn Đông, chúng ta cần nhận thức đầy đủ về bối cảnh lịch sử của khung thời gian này. Từ sau khi nắm được quyền bảo trợ hoạt động truyền giáo, người Bồ Đào Nha cũng được Giáo hoàng chính thức thừa nhận quyền sở hữu của họ trên tất cả các vùng đất đai mà họ khai phá được từ sau cuộc phát kiến địa lý của Vasco da Gama. Sự kết hợp giữa thế quyền và thần quyền, giữa “hạt tiêu và linh hồn” là đặc trưng chung của đế quốc Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha vào thời điểm lịch sử này. Với mục đích xây dựng một đế chế mậu dịch hàng hải, người Bồ Đào Nha đã tiến hành xâm chiếm những vị trí chiến lược nằm ven biển, kết nối giao thương và nắm độc quyền việc buôn bán hương liệu và truyền giáo từ Ấn Độ - Đông Nam Á - Trung Quốc - Nhật Bản.
Vì thế, Hội An - với vị trí địa chính trị quan trọng, là một trong những thương cảng mà thương nhân Trung Quốc, Nhật Bản thường xuyên lui tới và có quan hệ thương mại nhộn nhịp với Ấn Độ và Đông Nam Á rất thích hợp để Bồ Đào Nha đến đây thu mua hàng hóa. Bên cạnh đó, Hội An nằm ở cửa ngõ của Quảng Nam - vùng đất từng nổi tiếng trong lịch sử với các sản phẩm bản địa như tơ lụa, vàng và đặc biệt là trầm hương - một mặt hàng có giá trị cao trên thị trường thế giới, nên càng trở thành điểm thu hút thương nhân người Bồ. Chính sách đối ngoại rộng mở, mềm mỏng của chúa Nguyễn đã góp phần quan trọng kích thích sự quan tâm của chính quyền Bồ Đào Nha khi các thương điếm lân cận như Macao hoặc Malacca gặp nhiều cạnh tranh. Chúa Nguyễn với sự nắm bắt được mọi khả năng, ưu thế của mình, cộng với nhu cầu xu thế của thời đại đã tạo nên sự giao kết độc đáo, hoàn chỉnh giữa hai yếu tố “nội sinh” và “ngoại sinh”. Điều này góp phần tạo nên một cảng thị Hội An có hấp lực lớn như trong Hải Ngọai Ký sự, Thích Đại Sán đã từng miêu tả: “Vì Hội An là một mã đầu lớn, nơi tập hợp của khách hàng các nước, thẳng bờ sông, một con đường dài ba bốn dặm, gọi là đại đường cái, hai bên đường hàng phố ở liền nhau khít rịt, chủ phố thảy đều người Phúc Kiến, vẫn ăn mặc theo lối tiền triều (nhà Minh). Phần đông phụ nữ coi việc mua bán. Những khách trú ở đây hay cưới vợ bản xứ cho tiện việc thương mãi. Cuối đường là cầu Nhật Bản, tức Cẩm Phố, cách bờ bên kia tức Trà Nhiêu, nơi đình bạc của các tàu ngoại quốc. Nhân dân đông đúc, cá tôm, rau quả tập họp buôn bán suốt ngày. Thuốc Bắc hay các món khác tìm mua ở Thuận Hoá không có thì người ta vào mua ở đây” [14, tr.154]. Nên mặc dù không phải là thương điếm chính thức của Bồ Đào Nha, Hội An vẫn đóng vai trò nhất định trong hoạt động thương mại và truyền giáo của đế quốc này. Vì thế, Hội An đã trở thành không chỉ là địa điểm giao thương quan trọng nhất của Bồ Đào Nha mà đồng thời là một trong những trung tâm truyền giáo gặt hái được nhiều thành công nhất.
Đến giữa thế kỷ XVII, do sự thay đổi của tình hình chính trị thế giới, các giáo sĩ thừa sai người Pháp đã được Tòa thánh La Mã cho phép thay thế vai trò truyền giáo của các linh mục Dòng Tên ở Hội An. Cùng với sự thất bại của Bồ Đào Nha về thương mại và quân sự trước các đối thủ người châu Âu khác, hoạt động truyền giáo của các giáo đoàn Bồ Đào Nha ở Hội An cũng chấm dứt.
3. Kết luận
Từ những phân tích thông qua các sự kiện ở trên chúng ta có thể thấy:
Thứ nhất, trong thời kỳ đầu xâm nhập, Hội An không phải là trọng điểm ưu tiên thiết lập quan hệ thương mại và truyền giáo của Bồ Đào Nha. Vì thế, mặc dù đã có những cuộc tiếp xúc với Hội An từ đầu thề kỷ XVI, nhưng phải đến gần một thế kỷ sau đó, người Bồ Đào Nha mới xuất hiện thường xuyên ở thương cảng quốc tế này.
Thứ hai, khác với nhiều thương điếm khác trong Estado da India, quan hệ thương mại và truyền giáo của Bồ Đào Nha ở Hội An diễn ra trong khung cảnh hòa bình, gần như không có bất kỳ xung đột nào với nhà cai trị bản địa - chúa Nguyễn. Không những thế, sự phân chia Đàng Trong - Đàng Ngoài và cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn vô tình lại trở thành cơ hội để người Bồ Đào Nha xác lập ảnh hưởng của mình tại Hội An trên cả hai phương diện thương mại và truyền giáo.
Thứ ba, nếu so sánh với hoạt động thương mại thì công cuộc truyền giáo của giáo đoàn dòng Tên Bồ Đào Nha tại Hội An thu được nhiều thành tựu khởi sắc hơn. Một trong những dấu ấn sâu sắc nhất mà các linh mục dòng Tên Bồ Đào Nha để lại đó là việc phát minh ra chữ Quốc ngữ - loại chữ viết ban đầu chủ yếu phục vụ cho công việc truyền giảng kinh thánh nhưng sau đó đã trở thành chữ viết chính thức của một dân tộc.
Lịch sử đã ghi nhận các công trình của Francisco de Pina thực hiện ở Hội An và dinh trấn Thanh Chiêm đã ra đời sớm nhất, đặt những nền tảng đầu tiên cho sự ra đời của chữ Quốc ngữ theo chữ Latinh. Và A. de Rhodes là người kế thừa và hoàn chỉnh một cách hệ thống cho sự ra đời của chữ Quốc ngữ. Trong không gian văn hóa của dinh Quảng Nam vào thế kỷ XVII, Hội An được xem là cư sở đầu tiên của Thiên Chúa giáo ở Việt Nam và như nhận định của GS. Phan Huy Lê: “Dòng sông chữ Quốc ngữ do nhiều con suối tạo nên, trong đó Nước Mặn là 1 con suối, Thanh Chiêm là 1 con suối, Hội An là 1 con suối”. Chính điều này đã một lần nữa cho thấy vị trí của Hội An trong quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa một cách đầy tinh tế và uyển chuyển dựa trên cơ tầng của văn minh nông nghiệp lúa nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Diffie, W. Baileys và Winius, D. George (1977), “Foundations of the Portuguese Empire”, 1415-1580, Mineapolis: University of Minnesota.
[2] Đỗ Bang (1996), “Phố cảng vùng Thuận Quảng (Hội An - Thanh Hà - Nước Mặn) thế kỷ XVII-XVIII”, NXB Thuận Hóa, Huế.
[3] Maybon, B. Charles (2016), “Những người châu Âu ở nước An Nam”, Nguyễn Thừa Hỷ dịch, NXB Thế giới, TP. Hồ Chí Minh
[4] Đỗ Quang Chính (2008), “Lịch sử chữ Quốc Ngữ 1620 - 1659”, NXB Tôn giáo, tp Hồ Chí Minh.
[5] Borri, Christoforo (1999), “Xứ Đàng Trong năm 1621”, Dịch giả Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên và Nguyễn Nghị, NXB TP. Hồ Chí Minh.
[6]. Hall, G.E. Daniel (1997), “Lịch sử Đông Nam Á”, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[7]. Lach, F. Donald và Kley, J. Van. Edwin (1998), “Asia in the Making of Europe, Volume III: A Century of Advance”, University of Chicago Press
[8]. Hoàng Thị Anh Đào (2017), “Hoạt động thương mại - truyền giáo của Bồ Đào Nha và Pháp ở Việt Nam (thế kỷ XVI - XVIII)”, Đại học Khoa học Huế, Luận án tiến sĩ.
[9] Pinto, Mendes Fernão (2013), “The Travels of Mendes Pinto”, University of Chicago Press.
[10] Danvers, Charles Frederick (1894), “The Portuguese in India: A.D. 1481-1571”, W.H. Allen & Company.
[11] Souza, B. George (2004), “The Survival of Empire: Portuguese Trade and Society in China and the South China sea 1630 - 1754”, Cambridge University press, London, 304 pp.
[12] Matsuda, Koichiro (2017), Japan and the Pacific, 1540–1920: Threat and Opportunity, Routledge.
[13]. Li, Qingxin (2006), Maritime Silk Road, Translated by William W.Wang, China:
Intercontinental Press.
[14] Thích Đại Sán (1963), “Hải ngoại ký sự”, Viện Đại học Huế, Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam.
[15] Li, Tana (1999), “Xứ Đàng Trong, Lịch sử Kinh tế - Xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18”, Nguyễn Nghị dịch, NXB Trẻ, Hồ Chí Minh.
[16] Nguyễn Chí Trung (2010), “Cư dân FaiFo - Hội An trong lịch sử”, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng.
[17]. Võ Hồng Việt (2014), “400 năm Thiên chúa giáo du nhập vào Hội An”, Đặc san Nghiên cứu lịch sử xứ Quảng, số 5.
https://hoianheritage.net/vi/trao-doi-chuyen-nganh/chuyen-de-nghien-cuu-trao- doi/400-nam-Thien-Chu-a-gia-o-Du-nha-p-va-o-Ho-i-An-380.html
[18] Hoàng Xuân Việt biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính (2012), “Tìm hiểu lịch sử chữ Quốc Ngữ”, NXB Văn hóa thông tin, tp.HCM.
Title: COMMERCIAL AND MISSIONARY ACTIVITIES OF PORTUGAL IN HOI AN (XVI - XVII CENTURIES)
NGUYEN THI VINH LINH Quang Nam University Abstract: In the sixteenth and seventeenth centuries, Hoi An (Quang Nam) was an bustling international port that attracted foreign merchants to purchase goods.
Meanwhile, in Europe, Portugal and its powerful fleets successfully discovered the new maritime route to India, Southeast Asia and the Far East. As a historical opportunity, along with the open-door policy of Nguyen lords, Hoi An became one of the first places in Cochinchina to establish trade and missionary relationships with Portugal. In this paper, we will analyze trading activities and the process of spreading Christianity by Portugal in Hoi An from the sixteenth century to the seventeenth century. We will then explain the reasons why the development and progress of these activities in Hoi An port during the historical period were successful.
Keywords: Commerce, Missionary activity, Portugal, Hoi An port.