333 Educational Sciences, 2021, Volume 66, Issue 4AB, pp. 333-341
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn
SỬ DỤNG ÂM NHẠC HỖ TRỢ CHỈNH ÂM LỜI NÓI CHO TRẺ CÓ RỐI LOẠN PHÁT ÂM 5 - 6 TUỔI: NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP
Nguyễn Thị Thảo1 và Trần Thị Minh Thành2
1Trung tâm Tâm Ý, Thành phố Hồ Chí Minh
2Khoa Giáo dục Đặc biệt, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Bài báo này nghiên cứu giải pháp hỗ trợ cải thiện âm lời nói cho 03 trẻ 5 - 6 tuổi có rối loạn phát âm theo hướng tiếp cận sử dụng bài hát kết hợp kĩ thuật chỉnh âm. Sau 10 tuần thực nghiệm, cả 3 trẻ đã có những tiến bộ đáng kể về mặt phát âm. Các bé đã phát âm được đúng cả 5 phụ âm đầu /ʈ/, /x/, /ʗ/, /ɲ/, /ť/ với tỉ lệ khác nhau. Sau thực nghiệm, các em có lời nói dễ hiểu, tự tin hơn trong giao tiếp và hòa nhập.
Từ khóa: âm lời nói, bài hát, chỉnh âm, rối loạn phát âm, trẻ 5 - 6 tuổi.
1. Mở đầu
Giao tiếp bằng lời nói dễ hiểu là một yêu cầu và điều kiện cần yếu để chuẩn bị cho trẻ em độ tuổi mẫu giáo lớn sẵn sàng vào học ở lớp Một. Theo chương trình giáo dục mầm non hiện hành, đến 5 - 6 tuổi, ở lĩnh vực ngôn ngữ và giao tiếp trẻ cần có khả năng lắng nghe, hiểu lời nói trong giao tiếp hằng ngày, có khả năng diễn đạt rõ ràng và giao tiếp có văn hóa trong cuộc sống, có khả năng nghe và kể lại sự việc, kể lại chuyện, có khả năng cảm nhận vần điệu, nhịp điệu của bài thơ, ca dao, đồng dao phù hợp với độ tuổi, và có kĩ năng ban đầu về việc đọc và viết [1]. Với số đông trẻ em 5 - 6 tuổi được theo học mẫu giáo thì những yêu cầu vừa nêu là hoàn toàn có thể đạt được trên cơ sở năng lực lứa tuổi và được giáo dục theo chương trình. Tuy nhiên, một số trẻ dù theo học mầm non từ đầu, nhưng đến 5 - 6 tuổi vẫn không có được lời nói dễ hiểu do rối loạn phát âm. Những em này cần thêm các hoạt động can thiệp cá nhân để cải thiện khả năng phát âm. Rối loạn âm lời nói là khi một người phát âm mất hoặc sai biệt một cách đáng kể các âm vị so với chuẩn mực chung thì lời nói của người đó khiến người nghe cảm nhận sự không dễ hiểu hoặc không thể hiểu được. Rối loạn âm lời nói là một trong những rối loạn có tỉ lệ khá cao hiện nay. Theo nghiên cứu của BS. Hoàng Văn Quyên tại bệnh viện Nhi Đồng 1 và trường Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch, từ tháng 6 đến tháng 11 đã có 65 trường hợp trẻ từ 4 - 7 tuổi có chuẩn đoán rối loạn âm lời nói [2].
Trong thực tiễn can thiệp, trị liệu rối loạn phát âm cho trẻ em lứa tuổi mẫu giáo, nhiều kĩ thuật khác nhau đã được phát triển và sử dụng. Trong số đó có thể kể đến như kĩ thuật tách âm và kĩ thuật sử dụng các cặp từ tối thiểu. Các kĩ thuật này đòi hỏi sự làm mẫu và luyện tập nhiều lần, với mức độ yêu cầu từ thấp đến cao, từ gợi ý tối đa đến tối thiểu.Tuy nhiên, luyện tập nhiều cũng dễ đưa đến sự nhàm chán và thiếu động lực ở trẻ em. Đó là do đặc điểm trẻ em lứa tuổi này. Các em khó duy trì chú ý lâu, và ý chí luyện tập không như ở trẻ lứa tuổi học đường hay người lớn; trong khi tiềm năng cải thiện lời nói và ngôn ngữ ở trẻ mầm non lại là cao nhất.
Ngày nhận bài: 16/7/2021. Ngày sửa bài: 19/8/2021. Ngày nhận đăng: 26/8/2021.
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Thảo. Địa chỉ e-mail: [email protected]
334
Thực tế này đòi hỏi sự tìm tòi, nghiên cứu các cách thức kết hợp của kĩ thuật hỗ trợ cải thiện phát âm với các chiến lược khác sao cho phù hợp với trẻ mầm non. Việc kết hợp với sử dụng bài hát rất có thể là một hướng giải.
Bài hát là một dạng sản phẩm âm nhạc, gồm cả phần lời ca và nhạc điệu. Giai điệu và tiết tấu của phần nhạc điệu có khả năng tác động đến tinh thần và tâm trạng, đến rung cảm ở người nghe; còn phần lời ca lại chứa đựng ý nghĩa và có hình thức hiệp vần. Ở mẫu giáo, cùng với vui chơi là hoạt động chủ đạo thì âm nhạc là lĩnh vực hoạt động trẻ yêu thích. Giáo dục âm nhạc vừa được tổ chức theo các tiết riêng, vừa có thể đan xen trong các hoạt động khác. Bài hát, tức nhạc có lời, chứa đựng tiềm năng kết hợp tốt với các kĩ thuật trị liệu lời nói cho trẻ 5 - 6 tuổi vì bởi những lẽ sau: 1) Trẻ 5 - 6 tuổi đã được học nhiều bài hát trong chương trình giáo dục mầm non; 2) Hát nhạc thường là hoạt động yêu thích với trẻ; 3) Lời các bài hát ở lứa tuổi mầm non có tính vần điệu cao, lại hay có điệp khúc và điệp từ, cùng với phần nhạc điệu với tiết tấu và giai điệu kích thích vận động và trí não trẻ em nên dễ sử dụng để khởi động và củng cố trong hoạt động trị liệu rối loạn phát âm.
Ở nhiều nước như Úc, Anh, Mĩ, Nhật,… âm nhạc được ứng dụng phổ biến như là phương pháp trị liệu chính thức thay vì chỉ là phương pháp điều trị hỗ trợ cho nhiều dạng rối loạn phát triển. Trong trị liệu ngôn ngữ và lời nói, âm nhạc cũng được vận dụng như một kĩ thuật trị liệu quan trọng. Maggie Leung (2008) đã chỉ ra mối liên hệ giữa trị liệu âm nhạc và phục hồi chức năng lời nói [3]. Wibke GroB, Ulrike Lindenvà Thomas Ostermann (2010) đã nghiên cứu thực nghiệm sử dụng trị liệu âm nhạc trong can thiệp trẻ có rối loạn âm lời nói và chỉ ra sự thay đổi đáng kể của các trường hợp tham gia nghiên cứu [4]. Tương tự, Torry Farnell (2015) đã khảo sát 100 nhà trị liệu âm nhạc và khẳng định tính hiệu quả của việc sử dụng trị liệu âm nhạc trong can thiệp ngôn ngữ, lời nói cho trẻ em [5]. Ở Nhật các hoạt động trị liệu âm nhạc còn được đưa vào các trường phổ thông dành cho những trẻ có nhu cầu đặc biệt [6,3-10].
Các nghiên cứu quốc tế về sử dụng âm nhạc trong trị liệu ngôn ngữ và lời nói có thể phục vụ như một nguồn tham khảo quan trọng cho việc vận dụng vào thực tế hỗ trợ cải thiện âm lời nói cho trẻ mẫu giáo có rối loạn phát âm ở nước ta. Những năm gần đây một số chuyên gia giáo dục đặc biệt đã chú ý đến việc sử dụng trị liệu âm nhạc trong can thiệp trẻ rối loạn phổ tự kỉ [7].
Nhìn chung, trị liệu âm nhạc còn là một lĩnh vực mới mẻ ở Việt Nam.
Bài báo này nghiên cứu giải pháp hỗ trợ cải thiện âm lời nói cho 03 trẻ 5 - 6 tuổi có rối loạn phát âm theo hướng tiếp cận sử dụng bài hát kết hợp kĩ thuật chỉnh âm vào quá trình hỗ trợ giáo dục các em này; góp phần ý nghĩa giúp các em có lời nói dễ hiểu, tự tin hơn trong giao tiếp và hòa nhập.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Phương pháp nghiên cứu* Đối tượng tham gia: 03 trẻ có rối loạn âm lời nói 5 - 6 tuổi tham gia thực nghiệm với sự đồng ý của gia đình.
* Công cụ đánh giá:
Bảng từ thử với 60 từ bao chứa hầu hết các âm vị tiếng Việt. Bảng này được nhóm nghiên cứu xây dựng dựa trên các từ thông dụng, quen thuộc với trẻ.
* Tiến trình nghiên cứu: Tiến trình nghiên cứu được thực hiện qua các bước sau:
Bước 1. Xây dựng bảng từ thử. Nhóm nghiên cứu đã dựa trên một số bảng từ thử đã có trước đó, điều chỉnh cho phù hợp với địa phương và sử dụng thử. Bảng từ thử có 60 từ thuộc 4 loại âm tiết (âm tiết mở, ½ mở, ½ khép và khép) có chứa 5 âm vị đích (/ʈ/, /x/, /ʗ/, /ɲ/, /ť/).
335 Bước 2. Lấy mẫu lời nói. Ghi âm lời nói của trẻ nhằm xác định các âm trẻ còn mắc lỗi.
Cách thức lượng giá dựa trên tỉ lệ % các từ trẻ nói ra mà các nhóm đối tượng khác nhau (người thân, người quen, người lạ) có thể nghe và hiểu được.
Bước 3. Lựa chọn đối tượng để thực nghiệm: Sau khi đánh giá, nghiên cứu chọn ra 3 trường hợp trẻ 5-6 tuổi, đáp ứng tiêu chí có rối loạn tương ứng là có cùng lỗi phát âm âm đầu:
/ʈ/, /x/, /ʗ/, /ɲ/, /ť/.
Bước 4. Tiến hành thực nghiệm, bao gồm đánh giá đầu vào, tiến hành các biện pháp sử dụng âm nhạc hỗ trợ chỉnh các âm trẻ bị lỗi và đánh giá sự tiến bộ của trẻ sau thời gian can thiệp.
Bước 5. Đánh giá toàn bộ quá trình thực nghiệm và rút ra kết luận.
2.2. Các biện pháp sử dụng âm nhạc và chỉnh âm cho 3 trường hợp
* Nhóm biện pháp sử dụng bài hát
- Biện pháp 1. Sử dụng bài hát nhằm phát triển kĩ năng nghe.
Mục đích: Giúp trẻ tập trung chú ý lắng nghe và cảm nhận qua các giai điệu, tiết tấu, nhanh chậm khác nhau hay là tiếng kêu phát ra trong môi trường.
Giúp trẻ phản ứng với âm thanh một cách nhanh chóng và chủ động tham gia hoạt động.
Kích thích sự tập trung, hứng thú của trẻ vào những giai điệu hay bản nhạc mà trẻ yêu thích.
Cách tiến hành:
Bước 1: Giáo viên chuẩn bị sẵn sàng các nhạc cụ và thiết bị hỗ trợ cần thiết để tổ chức hoạt động.
Bước 2: Giới thiệu nội dung nghe nhạc.
Bước 3: Cho trẻ nghe nhạc và đong đưa theo giai điệu bài hát.
Bước 4: Tắt nhạc, nhận xét chuyển sang hoạt động khác.
- Biện pháp 2. Sử dụng bài hát rèn luyện hơi, luyện giọng và thể dục cấu âm.
Mục đích: Giúp trẻ luyện hơi, luyện giọng và thể dục cấu âm giúp hỗ trợ việc phát âm đúng, điều chỉnh giọng và tạo thuận lợi hơn cho hoạt động của cơ quan phát âm.
Cách tiến hành:
Bước 1: Giáo viên đàn cho trẻ nghe tiết tấu ngắn.
Bước 2: Giáo viên vừa đàn vừa hát mẫu tiết tấu.
Bước 3: Trẻ bắt chước lại tiết tấu nhạc cô vừa hát.
- Biện pháp 3. Sử dụng bài hát nhằm rèn luyện kĩ năng phát âm.
Mục tiêu: Trong khi ca hát trẻ được thể hiện bản thân, hơn nữa hoạt động này còn giúp trẻ học được từ đối với những trẻ nói được và phát nguyên âm theo khẩu hình miệng cho những trẻ chưa nói được. Đặc biệt, trong khi ca hát trẻ được đắm mình trong môi trường ngôn ngữ với những lời ca hay là những giai điệu ngọt ngào giúp trẻ dễ nhớ dễ học hơn. Lời bài hát được lặp đi lặp lại giúp trẻ rèn luyện phát âm một cách tự nhiên và nhẹ nhàng nhất. Cùng với việc cho trẻ được thao tác với vật thật, thẻ hình, thẻ từ tương ứng giúp trẻ hiểu được ý nghĩa của từ.
Cách tiến hành:
Bước 1: Thành lập hộp âm cần chỉnh cho trẻ.
Bước 2: Giáo viên làm mẫu: Sờ lên âm cần chỉnh và hát bài hát có chứa âm đó một cách tròn trịa. Cho trẻ sờ và lặp lại âm vừa được nghe.
Bước 3: Giáo viên cầm từng vật thật trong hộp âm có chưa âm cần chỉnh, hát lại bài hát ở bước 1 rồi đọc mẫu tên của vật thật. Cho trẻ sờ và lặp lại.
Bước 4: Giáo viên cầm thẻ hình của vật thật vừa đọc ở bước 3 lên, hát lại bài hát ở bước 1 rồi đọc mẫu tên của thẻ hình. Cho trẻ lặp lại rồi ghép hình với vật thật.
Bước 5: Giáo viên cầm thẻ từ của thẻ hình vừa đọc ở bước 4 lên, hát lại bài hát ở bước 1 rồi đọc mẫu tên của thẻ từ. Cho trẻ nhìn và lặp lại, ghép thẻ từ với thẻ hình tương ưng.
336
Bước 6: Cho trẻ được tự thực hiện lại các bước từ 2 - 5 bao nhiêu lần tùy thích, sau đó bê hộp âm đặt lên kệ (khi nào trẻ thích thì tự đem ra ôn luyện).
- Biện pháp 4. Sử dụng bài hát nhằm rèn luyện phát âm kết hợp trò chơi âm nhạc.
Mục tiêu: Các bài hát hướng tới phát triển kĩ năng rèn luyện phát âm khi trẻ tham gia trò chơi âm nhạc. Ngoài ra với một số các trò chơi âm nhạc cũng có thể giúp trẻ phát triển kĩ năng tương tác xã hội rất tốt như bài vè, đoán nhạc cụ…
Cách tiến hành:
Bước 1: Hướng dẫn trẻ luật chơi.
Bước 2: Giáo viên chơi mẫu.
Bước 3: Trẻ chơi.
Bước 4: Thi đua giữa các trẻ, đội chơi.
* Biện pháp sử dụng kĩ thuật chỉnh âm
Trong nghiên cứu này, các kĩ thuật tách âm và kĩ thuật sử dụng cặp tối thiểu được sử dụng kết hợp với bài hát để chỉnh âm cho trẻ. Các kĩ thuật chỉnh âm được tham khảo từ công trình của Bùi Thế Hợp và đồng nghiệp [8].
- Kĩ thuật tách âm: tách các âm chứa âm vị mà trẻ phát âm sai để chỉnh âm riêng. Kĩ thuật này thường sử dụng đối với lỗi phát âm thay thế hoặc sai âm vị đích (phụ âm đầu)
Cách tiến hành:
Bước 1: Làm xuất hiện từ khóa chứa âm vị đích (bị mất hoặc sai).
Bước 2: Phát âm mẫu từ đó để trẻ bắt chước và phát âm theo (nếu trẻ làm đúng thì chuyển sang bước 5).
Bước 3: Tách âm vị đích để hướng dẫn & luyện phát âm.
- Phát âm mẫu cho trẻ nghe 3 lần âm vị đích, cho trẻ lặp lại âm vừa được nghe (được thì chuyển bước 4) Nếu vẫn không được thì:
- Hướng dẫn trẻ nghe - nhìn để xác định được vị trí và phương thức cấu âm âm vị đích (sử dụng sơ đồ cấu âm) (được thì chuyển sang bước 4).
Nếu vẫn không được thì:
- Cho trẻ nghe - nhìn - sờ (luồng hơi thoát ra và sự rung của dây thanh) để xác định âm vị đó và phát âm
Bước 4: Yêu cầu trẻ phát âm lại từ khóa.
Bước 5: Luyện tập mở rộng. Cho trẻ phát âm các từ &câu ngắn có tiếng chứa âm vị đích.
- Kĩ thuật sử dụng cặp tối thiểu
Kĩ thuật sử dụng cặp tối thiểu ap dụng cho trẻ mất/sai loạt âm vị có cùng đặc điểm khu biệt giúp trẻ nghe, phát âm các âm tiết gần giống nhau, chỉ khác nhau một đặc điểm khu biệt.
Cách tiến hành:
Bước 1: Nghe - phân biệt.
Bước 2: Phát âm - phân biệt.
Bước 3: Nghe - phân biệt (dễ => khó => dễ).
* Cách thức phối hợp âm nhạc và các kĩ thuật chỉnh âm
Sau khi thực hiện đánh giá trẻ, xác định âm cần chỉnh cho trẻ, chọn bài hát và kĩ thuật chỉnh âm phù hợp, tiến hành hỗ trợ chỉnh âm cho trẻ bằng bài hát kết hợp chỉnh âm cho trẻ theo tiến trình sau:
Bước 1: Sử dụng bài hát nhằm phát triển kĩ năng nghe, luyện hơi, luyện giọng và thể dục cấu âm, luyện kĩ năng phát âm trong khoảng 15 phút.
Bước 2: Sử dụng các kĩ thuật chỉnh âm để chỉnh lỗi phát âm cho trẻ trong khoảng 10 phút.
337 Bước 3: Ôn luyện phát âm thông qua các bài hát với trò chơi âm nhạc trong khoảng 10 phút.
Số phút chỉnh âm cho trẻ có thể linh hoạt tùy theo mức độ tập trung, hứng thú, sức khỏe và môi trường chỉnh âm
2.3. Kết quả nghiên cứu
* Trường hợp 1
PH là một bé trai sinh ngày 18/11/2014. PH là con trai đầu tiên duy nhất trong gia đình có bố và mẹ, cả hai bố mẹ đều rất yêu thương và quan tâm chăm sóc PH.
Trong qua trình mang thai mẹ PH có sức khỏe hoàn toàn bình thường và không bị bất cứ một bệnh tật nào.
Khi được 1 tuổi, PH vẫn chưa phát âm, có tiếp xúc mắt, có chỉ ngón trỏ. Đến 2 tuổi PH phát ra được một số nguyên âm. Đến 3 tuổi mẹ cho PH đi nhà trẻ, PH vẫn chưa nói được gì, nhưng chỉ ú ớ, chỉ chỏ khi cần thiết. Đến 4 tuổi, PH nói được 1 vài từ có nghĩa nhưng lược bỏ hoàn toàn âm đầu. 5 tuổi, PH nói được vài câu ngắn khi cần thiết cũng lược bỏ hoàn toàn phụ âm đầu.
Ba mẹ cũng biết là bé nói ngọng, chậm nói nhưng không biết cách can thiệp cũng như không tìm kiếm đến nhà chuyên môn. Giáo viên mầm non có phát hiện nhưng cũng chưa có biện pháp hỗ trợ kịp thời.
Kết quả thực nghiệm với PH
Dùng bảng 60 từ chứa âm vị đích ở 4 loại âm tiết mở, 1⁄2 mở, 1⁄2 khép, khép để đánh giá trước và sau thực nghiệm cũng như sử dụng chỉnh âm cho trẻ trong quá trình thực nghiệm bằng biện pháp sử dụng bài hát kết hợp kĩ thuật chỉnh âm đã đem lại kết quả sau:
Bảng 1. Kết quả thực nghiệm trường hợp bé PH
Âm Trước TN Sau TN
Số từ phát âm đúng Tỉ lệ % Số từ phát âm đúng Tỉ lệ %
/ ť / (th) 3 25 10 83
/ ɲ / (nh) 4 33 11 92
/ ʗ / (ch) 2 17 10 83
/x/ (kh) 0 0 6 50
/ ʈ / (tr) 1 8 8 67
Hình 1. Kết quả thực nghiệm với bé PH 25 33
17
0 8 83 92
83
50 67
0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 100
th nh ch kh tr
% từ PÂ đúng
Trước TN Sau TN
338
Sau 10 tuần thực nghiệm sử dụng bài hát kết hợp chỉnh âm, tỉ lệ phát âm sai từ chứa 5 âm vị đích với PH đã giảm xuống đáng kể. Em đã phát âm đúng các âm này trong hầu hết các âm tiết mở và nửa mở; tuy nhiên, vẫn còn phát âm sai ở các âm tiết khó, nhất là các âm tiết khép.
Sự cải thiện khả năng phát âm của các âm này trong từ đã thay đổi từ mức 0 - 33% chính xác ở trước thực nghiệm lên 50 - 92% chính xác sau thực nghiệm (xem Bảng 1 và Hình 1).
Quan sát sự thay đổi của PH qua quá trình thực nghiệm cũng cho thấy thêm nhiều thông tin có ý nghĩa. Là một trường hợp điển hình nhất và thấy được rõ ràng kết quả tiến bộ sau từng buổi tham gia vào hoạt động âm nhạc. Đầu tiên PH có biểu hiện không hợp tác nhưng chỉ sau 3 buổi liên tục tham gia trẻ không còn chống đối mà đáp ứng một cách tích cực và chủ động tham gia hào hứng vào các hoạt động. Đặc biệt, trẻ còn phát triển kĩ năng về vận động theo nhạc và sử dụng từ ngữ rất tốt.Có được kết quả như vậy là do giáo viên đã tác động đúng cách và sự phối hợp tích cực từ phía gia đình trẻ cũng như sự nỗ lực của chính bản thân trẻ.
* Trường hợp 2
HN sinh ngày 27/12/2014, tính đến ngày bắt đầu chương trình thực nghiệm cháu được 5 tuổi. HN là con trai đầu của gia đình có ba, mẹ kế, bà nội. Trong quá trình mang thai, mẹ của HN có sức khỏe bình thường, tuy nhiên HN phải sinh mổ vì bị thiếu ngày. HN sống cùng với bố khi mẹ mới sinh được vài tháng. Mẹ lập gia đình khác, ba cũng cưới vợ hai, HN chủ yếu do bà nội chăm sóc. Cả ba và mẹ kế rất yêu thương và quan tâm HN, chính người mẹ kế phát hiện HN có vấn đề và thuyết phục bà nội cũng như ba của HN cho bé đi can thiệp. Trẻ có những khó khăn đó là hạn chế tương tác với người xung quanh. Bé hiếu động.
Trước thực nghiệm, với mỗi trong số 5 âm vị đích ở bảng 60 từ thử, tỉ lệ phát âm chính xác của HN ở mức 25 - 42%.
Kết quả thực nghiệm với trường hợp bé HN được phản ánh qua Bảng 2 và Hình 2. Sau thực nghiệm, tỉ lệ phát âm chính xác từ chứa mỗi trong số 5 âm vị đích đạt mức từ 75 - 100%.
Bảng 2. Kết quả thực nghiệm với trường hợp HN
Âm Trước thực nghiệm Sau thực nghiệm
Từ PÂ đúng Tỉ lệ % Từ PÂ đúng Tỉ lệ %
/ ť / (th) 5 42 12 100
/ ɲ / (nh) 4 33 11 92
/ ʗ / (ch) 3 25 11 92
/x/ (kh) 3 25 9 75
/ ʈ / (tr) 4 33 10 83
Hình 2. Kết quả thực nghiệm với trường hợp bé HN 42 33
25 25 33
100 92 92
75 83
0 20 40 60 80 100
th nh ch kh tr
% từ PÂ đúng
Trước TN Sau TN
339 HN tiến bộ lại rất nhanh do trẻ có ngôn ngữ và tính tình cũng rất vui vẻ dễ dàng tương tác với giáo viên. Tuy nhiên do vấn đề về sức khỏe nên trẻ không thường xuyên duy trì được các hoạt động một cách thường xuyên và liên tục. Nếu thực sự giải quyết được vấn đề này thì sẽ rất có lợi cho trẻ để phát triển kĩ năng giao tiếp cho trẻ.
* Trường hợp 3
Bé TL sinh ngày 4/6/2014, là con thứ 2 trong gia đình có 2 chị em. TL sống với ba mẹ và chị Hai. Chị của TL giai đoạn 5 - 6 tuổi cũng có biểu hiện ngọng, chị nói lúc 3 tuổi. Mẹ là người chỉnh ngọng cho chị Hai. Nay chị Hai cũng nói rõ ràng hơn nhưng vẫn còn lỗi ở các âm cuối và thanh điệu.
Mẹ em từ khi mang thai đến khi sinh em trải qua quá trình bình thường TL 5 tuổi mới đi học mẫu giáo.
Trước thực nghiệm, tỉ lệ phát âm đúng từ chứa mỗi trong số các âm vị đích ở mức từ 17 - 33%.
Kết quả thực nghiệm với trường hợp bé TL được phản ánh ở Bảng 3 và Hình 3.
Bảng 3. Kết quả thực nghiệm với trường hợp TL
Âm Trước thực nghiệm Sau thực nghiệm
Từ phát âm đúng Tỉ lệ % Từ phát âm đúng Tỉ lệ %
/ ť / (th) 3 25 11 92
/ ɲ / (nh) 4 33 12 100
/ ʗ / (ch) 5 42 12 100
/x/ (kh) 2 17 9 75
/ ʈ / (tr) 4 33 10 83
Trường hợp bé TL cũng tiến bộ rất nhanh. Một mặt, em này có ngôn ngữ và tính tình cũng rất vui vẻ nên dễ dàng tương tác với giáo viên. Mặt khác, em được ba mẹ quan tâm và có nổ lực chỉnh âm cho TL nên cơ hội cải thiện là rất sớm.
Hình 3. Kết quả thực nghiệm với trường hợp bé TL
Như vậy, sau 10 tuần thực nghiệm, TL đạt tỉ lệ phát âm đúng mỗi trong số 5 âm vị đích trong tiếng, từ là 75 - 100%. Đặc biệt các âm /nh/ và /ch/ cháu phát âm đúng hoàn toàn. Âm /kh/
vẫn là âm khó khăn nhất đối với TL.
25 33 42
17
33 92 100 100
75 83
0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 100
th nh ch kh tr
% từ PÂ đúng
Trước TN Sau TN
340
2.4. Thảo luận
Qua quá trình thực nghiệm trên 3 trường hợp trẻ được chọn làm nghiên cứu cho thấy:
- Kết quả nghiên cứu khẳng định rằng sử dụng các biện pháp tổ chức hoạt động chỉnh âm cho trẻ 5 - 6 tuổi bằng bài hát kết hợp chỉnh âm là hợp lí và có hiệu quả trong việc hỗ trợ cải thiện âm lời nói cho trẻ rối loạn phát âm.
- Âm kh và tr vẫn là những âm khó khăn đối với cả 3 trường hợp nghiên cứu. Sau 10 tuần thực nghiệm các âm khác đạt được tỉ lệ phát âm đúng từ 90 - 100% thì ở cả 3 trường hợp, tỉ lệ phát âm là 50 - 80%.
- Kết quả TN cho thấy việc áp dụng các biện pháp tổ chức hoạt chỉnh âm đẫ đề ra thì các trẻ được lựa chọn trong quá trình thực nghiệm đều có sự thay đổi theo hướng tích cực về kĩ năng phát âm và giao tiếp.
- Khả năng đáp ứng với âm nhạc của mỗi trẻ và năng lực tổ chức của giáo viên cùng với các phương tiện hỗ trợ cần thiết sẽ mang lại hiệu quả phát triển kĩ năng phát âm tốt hơn cho trẻ rối loạn phát âm, giúp trẻ tự tin bước vào môi trường hòa nhập lớp 1.
3. Kết luận
Trẻ có rối loạn âm lời nói thường rất khó khăn khi phát âm khiến lời nói của trẻ khó hiểu, diễn đạt kém lưu loát. Chỉnh âm là một việc làm cần thiết đối với trẻ trước khi trẻ đến trường phổ thông vì nó sẽ giúp trẻ giao tiếp và học tập tốt hơn. Âm nhạc là một phương tiện giáo dục hiệu quả đối với trẻ em, giúp các em tập trung chú ý, biết lắng nghe, phân biệt âm thanh, biết lấy hơi và phát âm một cách tự nhiên. Với mục đích giúp cho việc chỉnh âm cho trẻ trở nên nhẹ nhàng, vui vẻ, nghiên cứu đã xây dựng các biện pháp sử dụng bài hát kết hợp với hai kĩ thuật chỉnh âm để hỗ trợ cải thiện âm lời nói cho ba trẻ 5 - 6 tuổi có rối loạn phát âm. Sau 10 tuần áp dụng, ba trẻ 5 - 6 tuổi có lỗi phát âm 5 phụ âm đầu đều có tiến bộ rất lớn, các bé đã phát âm được và chuẩn hầu hết các âm. Kết quả thực nghiệm cho thấy việc áp dụng 2 kĩ thuật chỉnh âm gồm kĩ thuật tách âm và kĩ thuật các cặp tối thiểu, kết hợp với các bài hát chọn sẵn phù hợp và hiệu quả trong luyện tập chỉnh âm cho trẻ 5 - 6 tuổi. Các kết quả nghiên cứu đã hỗ trợ cho việc kiểm tra giả thuyết khoa học của đề tài đề ra là phù hợp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ Giáo dục và đào tạo, 2016. Chương trình giáo dục Mầm non. NXB Giáo dục Việt Nam, tr. 34 - 35. Ban hành kèm thông tư số 17/2009/TT _ BGDĐT ngày 25 tháng 7 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo và Thông tư số 28/2016/TT _ BGDĐT ngaày 30 tháng 12 năm 2016 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
[2] Hoàng Văn Quyên và các cộng sự, 2018. Đặc điểm âm lời nói của trẻ rối loạn âm lời nói tại Bệnh viện NĐ1 và trường ĐHYK Phạm Ngọc Thạch TP.HCM. Kỉ yếu Hội Thảo Khoa học Quốc tế Lượng giá âm lời nói của trẻ em từ 2 - 7 ở Thành phố Hồ Chí Minh Sở Khoa học - Công nghệ TP.HCM, Trường ĐHYK Phạm Ngọc Thạch, Trường ĐHSP TP.HCM, Trường CĐSP.TWTP.HCM, 6/2018.
[3] Maggie Leung, 2008. A Collaboration Between Music Therapy and Speech Pathology in a Paediatric Rehabilitation Setting. https://voices.no/index.php/voices/article/view/1769/1529.
[4] Torry Farnell, 2015. The Inclusion of Music Therapy in Speech - Language Intervention.
http://scholarworks.uark.edu/rhrcuht.
341 [5] Wibke Groß, Ulrike Linden,and Thomas Ostermann, 2010. Effects of music therapy in the treatment of children with delayed speech development - results of a pilot study. Published online 2010 Jul 21. Doi: 10.1186/1472-6882-10-39.
[6] Tomoko Ueno, Michiko Kan and Yukari Yamazaki, 2017. Musical therapeutic activities for students of a junior high school special needs education class including children with autism spectrum disorders. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Vol. 62, Issue 9AB, ISSN 2354-1075, pp. 3-10.
[7] Nguyễn Nữ Tâm An & Trần Thị Thùy, 2015. Một số biện pháp trị liệu âm nhạc cho trẻ rối loạn phổ tự kỉ. Kỉ yếu hội thảo 20 năm giáo dục trẻ khuyết tật Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo.
[8] Trần Đình Châu, Lê Văn Tạc, Bùi Thế Hợp, 2012. Dạy học hòa nhập học sinh có tật ngôn ngữ cấp trung học cơ sở. NXB Giáo dục Việt Nam.
ABSTRACT
Using songs in speech-sound correction for children with speech disorder aged 5 - 6: case studies
Nguyen Thi Thao1 and Tran Thi Minh Thanh2
1Tam Y center, Ho Chi Minh city
2Faculty of Special Education, Hanoi National University of Education This article shows the case studies of solutions improving pronuciation for 03 children aged 5 - 6 years with speech sound disorders. The approach of using songs combined with sound correction techniques was in use. After 10-week piloting, these children made significant improvement in pronunciation. They could pronounced all 5 consonants /ʈ/, /x/, /ʗ/, /ɲ/, /ť/ with different ratio of accuracy. After the piloting, the children’s speech became more intelligeble, and they showed more confident in communication and integration as a result.
Keywords: speech sounds, song, sound speech correction, speech sound disorder, children aged 5 - 6 years.