VI NSC KH EC NG NG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
KIẾN THỨC VỀ CHĂM SÓC TRƯỚC SINH CỦA BÀ Mẹ CÓ CON DƯỚI 1 TUỔI TẠI MỘT SỐ xã HUYỆN QUAN HÓA, TỈNH THANH HÓA NĂM 2019
Ngân Thị Hiền1, Nguyễn Xuân Bái2, Vũ Đức Anh2, Lê Đức Cường2 TÓM TẮT
Nghiên cứu cắt ngang 363 phụ nữ có con dưới 1 tuổi tại 5 xã huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa năm 2019, chúng tôi thu được kết quả: Khi được hỏi về các dấu hiệu bất thường khi mang thai có 85,7% đối tượng cho rằng đó là đau bụng; có 79,3% đối tượng cho rằng đó là ra máu âm đạo. Trong các loại vắc-xin được liệt kê thì chỉ có 3 loại vắc-xin được đối tượng cho rằng cần phải tiêm khi mang thai trong đó vắc-xin uốn ván chiếm tỷ lệ cao nhất (chiếm 96,4%), vắc-xin cúm là 3,0% và 2,8% đối tượng không biết cần tiêm vắc-xin nào khi mang thai. Kết quả kiến thức về chăm sóc trước sinh của đối tượng: 39,4% đối tượng có kiến thức tốt và 60,6% đối tượng có kiến thức chưa tốt. Có mối liên quan giữa kiến thức về chăm sóc trước sinh của đối tượng với trình độ học vấn, dân tộc, tình trạng kinh tế.
Không có mối liên quan giữa kiến thức về chăm sóc trước sinh của đối tượng với số lần mang thai.
Từ khóa: Chăm sóc trước sinh ABSTRACT:
THE KNOWLEDGE OF PRENATAL CARE OF MOTHERS WITH CHILDREN UNDER 1 YEAR OF AGE IN SOME COMMUNES OF QUAN HOA DISTRICT, THANH HOA PROVINCE IN 2019
363 women with children under 1 year of age were surveyed in 5 communes, Quan Hóa district, Thanh Hoa province in 2019. We obtained results: 87% of mothers thought that abdominal pain was an abnormal sign during pregnancy, and 79,3% of mother thought it was vaginal bleeding. Among the vaccines, there are 3 types of vaccines that are considered by the subjects to be pregnant. Among the vaccines, there are 3 types of vaccines that subjects thought to be injected during pregnancy, with percentage of tetanus vaccine was the highest (96,4%), percentage of flu vaccine was
3,0% and 2.8% of subjects did not know what vaccine to inject during pregnancy. 39.4% of subjects had good knowledge and 60,6% of subjects had not good knowledge. There was a relation between the knowledge of prenatal care of the subjects with the education level, ethnicity, economic status. There was not a relation between the knowledge of prenatal care of the subjects with number of pregnancies
Key word: Prenatal care I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây, sức khỏe sinh sản (SKSS) đã trở thành một lĩnh vực quan trọng được Đảng, Nhà nước và nhiều tổ chức quan tâm. Tuy nhiên, Báo cáo chiến lược quốc gia về chăm sóc SKSS tại Hội nghị quốc gia về dân số và phát triển bền vững cho thấy tỷ lệ các bà mẹ được khám thai và được cán bộ chuyên môn trợ giúp khi đẻ còn thấp, chăm sóc sau sinh, hướng dẫn cho con bú và cách nuôi con chưa được chú ý làm tốt đặc biệt là ở các vùng sâu dân tộc thiểu số[6]. Quan Hoá là huyện vùng cao, biên giới, cách trung tâm tỉnh Thanh Hoá 140 km về phía Tây. Do phần lớn cư dân là người dân tộc thiểu số nên trình độ dân trí còn thấp, đặc biệt là kiến thức, thực hành về chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU2.1. Địa bàn, đối tượng và thời gian nghiên cứu
2.1.1 Địa bàn: Nghiên cứu được tiến hành tại 5 xã:
Phú Sơn, Thanh Xuân, Thiên Phủ, Hiền Kiệt, Nam Tiến và thị trấn Quan Hóa huyện Quan Hóa.
2.1.2. Đối tượng nghiên cứu: Phụ nữ từ 18 đến 49 tuổi, có con nhỏ dưới 1 tuổi ở địa bàn nghiên cứu.
2.1.3. Thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu từ 11/2019 đến 3/2020
1. Trung tâm Y tế huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa Email: [email protected]
2. Trường Đại học Y Dược Thái Bình
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE
2020
2.2 Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: Sử dụng thiết kế nghiên cứu mô tả, dựa vào cuộc điều tra cắt ngang kết hợp hồi cứu
2.2.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu Cỡ mẫu: Áp dụng công thức sau:
n = 2
2 2 /
1 (1 )
e p Z p× −
−α
Với p=0,383 là tỷ lệ phụ nữ có điểm kiến thức về CSTS theo nghiên cứu của tác giả Vũ Văn Hoàn[7] thay vào công thức ta có n = 363 đối tượng nghiên cứu.
Chọn mẫu:
- Lập danh sách phụ nữ từ 18 đến 49 tuổi, có con nhỏ dưới 1 tuổi tai 6 xã. Chọn ngẫu nhiên các bà mẹ vào mẫu nghiên cứu đến khi nào đủ cỡ mẫu thì dừng lại.
2.2.3. Phương pháp thu thập thông tin
- Sử dụng bộ câu hỏi xây dựng sẵn gồm 39 câu hỏi, thông tin chung 8 câu, kiến thức thực hành 31 câu
Các tiêu chuẩn đánh giá trong nghiên cứu
* Kiến thức: Mỗi câu trả lời đúng được 1 điểm, trả lời sai không bị trừ điểm. Tổng điểm tối đa cho phần kiến thức là 37 điểm, trong đó: Tổng điểm > 19 điểm là đạt, tổng điểm <19 điểm là chưa đạt.
2.2.4. Phương pháp xử lý thông tin
Số liệu được nhập bằng phần mềm Epi Data và được xử lý trên phần mềm SPSS. So sánh giữa các tỷ lệ sử dụng kiểm định Khi bình phương. Khoảng tin cậy là 95% được áp dụng cho toàn bộ các kiểm định. Nhận định có sự khác biệt khi giá trị p <0,05
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Bảng 3.1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu
Thông tin Số lượng Tỷ lệ
Nhóm tuổi
18 đến 29 tuổi 275 76,8
30 đến 40 tuổi 80 22,0
Trên 40 tuổi 8 1,2
Dân tộc
Kinh 47 12,9
Thái 212 58,4
Mường 95 26,2
Dân tộc khác 9 2,5
Trình độ học vấn
Chỉ biết đọc, biết viết 10 2,7
Tốt nghiệp tiểu học (cấp 1) 10 2,7
Tốt nghiệp THCS (cấp 2) 161 44,4
Tốt nghiệp THPT (cấp 3) 115 31,7
Trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học, sau đại học 67 18,5
Tình trạng hôn nhân
Bình thường 357 98,3
Ly thân 1 0,3
Ly dị 2 0,6
Góa phụ 3 0,8
Kết quả bảng 3.1 cho thấy một số thông tin chung của đối tượng: Nhóm tuổi từ 18 đến 29 chiếm 76,8%
đối tượng nghiên cứu. Dân tộc chiếm phần lớn đối tượng nghiên cứu là dân tộc Thái và Mường lần lượt
là 58,4% và 26,2%. Về trình độ học vấn của đối tượng cao nhất là THCS chiếm 44,4%; sau đó là THPT chiếm 31,7%. Tình trạng hôn nhân của đối tượng là bình thường chiếm 98,3%.
VI NSC KH EC NG NG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Bảng 3.2. Tỷ lệ đối tượng nghiên cứu biết các dấu hiệu bất thường cần phải đi khám thai (n=363)
Bệnh lý Số lượng Tỷ lệ
Không biết 32 8,8
Ra máu âm đạo 288 79,3
Đau bụng 311 85,7
Sốt, nôn 135 37,2
Phù hai chân 149 41,0
Đau đầu 61 16,8
Bảng 3.3. Tỷ lệ đối tượng nghiên cứu biết về các loại vacxin cần phải tiêm khi mang thai (n=363)
Vacxin Số lượng Tỷ lệ
Không biết 10 2,8
Uốn ván 350 96,4
Thủy đậu, sởi, quai bị, rubella 6 1,7
Cúm 11 3,0
Biểu đồ 3.1. Tỷ lệ số lần cần đi khám thai mà đối tượng biết (n=363)
Khi được hỏi về các dấu hiệu bất thường khi mang thai có 85,7% đối tượng cho rằng đó là đau bụng; có 79,3%
đối tượng cho rằng đó là ra máu âm đạo.
Tỷ lệ đối tượng biết cần đi khám thai ít nhất 3 lần là 71,6% và trên ba lần chiếm 21,5%.
Vacxin mà nhiều đối tượng biết đến cần tiêm khi
mang thai là uốn ván chiếm 96,4%. Và chỉ có 1,7% đối tượng nghiên cứu biết phải tiêm vacxin thủy đậu, sởi, quai bị và rubella.
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE
2020
Xét nghiệm khi mang thai mà nhiều đối tượng cho rằng cần phải thực hiện nhiều nhất là xét nghiệm HIV chiếm 93,9%; tiếp đến là xét nghiệm nước tiểu chiếm 76,6%; xét nghiệm huyết học chiếm 33,6%. Các xét
nghiệm còn lại có từ 0,8% -15,7% đối tượng cho rằng cần làm. Có 3,0% đối tượng không biết cần làm xét nghiệm gì khi mang thai.
Qua khảo sát 363 đối tượng về kiến thức chăm sóc trước sinh thì có 39,4% đối tượng có kiến thức tốt và 60,6%
đối tượng có kiến thức không tốt.
Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ kiến thức tốt, chưa tốt theo tiêu chuẩn đánh giá (n=363) Biểu đồ 3.1. Tỷ lệ số lần cần đi khám thai mà đối tượng biết (n=363)
Bảng 3.4. Mối liên quan giữa kiến thức và trình độ học vấn (n=363)
Trình độ học vấn Kiến thức chưa tốt Kiến thức tốt
Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ
≤ THCS 145 80,1 36 19,9
≥ THPT 75 41,2 107 58,8
OR = 5,7 (95% CI : 3,6 - 9,2)
VI NSC KH EC NG NG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Bảng 3.5. Mối liên quan giữa kiến thức và dân tộc (n=363)
Trình độ học vấn Kiến thức chưa tốt Kiến thức tốt
Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ
Các dân tộc 213 67,4 103 32,6
Kinh 7 14,9 40 85,1
OR = 11,8 (95% CI : 5,1 - 27,3) Có mối liên quan giữa kiến thức của đối tượng với trình
độ học vấn OR= 5,7 (95% CI : 3,6 - 9,2). Những đối tượng có trình độ THCS trở xuống có kiến thức chưa tốt cao gấp 5,7 lần những đối tượng có trình độ từ THPT trở lên.
Có mối liên quan giữa kiến thức của đối tượng và dân tộc (OR=11,8 (95% CI : 5,1 - 27,3). Nhóm đối tượng dân tộc Kinh có kiến thức tốt hơn nhóm dân tộc khác 11,8 lần.
IV. BÀN LUẬN
Nhận thức được sự rủi ro khi mang thai và sự cần thiết của việc đến CSYT để tư vấn và khám thai là việc làm cần thiết để giảm nguy cơ biến chứng trong khi mang thai và sinh đẻ. Kết quả này cao hơn kết quả nghiên cứu tại khu vực miền Nam: tỷ lệ phụ nữ không biết một dấu hiệu nguy hiểm nào ở các tỉnh này giao động từ 15-30%.
Hai dấu hiệu được phụ nữ đề cập đến nhiều nhất là đau bụng (từ 60 đến 70%) [5], [2].
Tiêm phòng uốn ván đảm bảo cho bà mẹ không bị uốn ván sau đẻ và đảm bảo cho con không bị uốn ván sơ sinh. Vì thế đây là một nội dung quan trọng của công tác chăm sóc thai sản. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy Vaccine mà nhiều đối tượng biết đến cần tiêm khi mang thai là uốn ván chiếm 96,4% tương tự so với 95%
bà mẹ được tiêm phòng uốn ván theo thống kê toàn quốc năm 2016[1]. Tuy nhiên tỷ lệ đối tượng nghiên cứu biết lịch tiêm phòng uốn ván đối với phụ nữ chưa tiêm hoặc không rõ tiền sử tiêm: Tiêm 2 mũi, mũi đầu khi biết có bầu, mũi thứ 2 sau mũi đầu 1 tháng có 53,7% đối tượng lựa chọn; Tiêm 3 mũi, mũi đầu khi biết có bầu, mũi 2 sau mũi đầu 1 tháng, mũi thứ 3 cách mũi thứ hai 6 tháng, hoặc tiêm ở lần thai kì sau: có 37,5% đối tượng lựa chọn. Như vậy việc tiêm phòng uốn ván của các bà mẹ mang thai đã được thực hiện chưa đầy đủ. Việc tiêm phòng uốn ván được thực hiện khi bà mẹ đi khám thai. Những trường hợp không tiêm phòng đủ số lần đều do bà mẹ không đi khám thai không đủ số lần (số liệu về việc khám thai đã cho biết 17,1% bà mẹ không khám thai đủ 3 lần) do đó cần tích
cực tuyên truyền giáo dục để người phụ nữ đi khám thai và tiêm phòng uốn ván đầy đủ hơn.
Về cách uống viên sắt/folic: có 78,8% đối tượng cho rằng uống viên sắt/folic từ khi biết có bầu và uống hàng ngày. Kết quả này của chúng tôi tương tự với tác giả Nguyễn Văn Hải[4] khi cho biết chỉ có 10,5% bà mẹ bỏ không uống viên sắt.
Trình độ học vấn có mối liên quan với kiến thức, thái độ và thực hành về CSTS và được công bố phổ biến ở các quốc gia[8]. Trong mối quan hệ với kiến thức và thái độ CSTS, những phụ nữ có học vấn cao hơn thì cũng có kiến thức, thái độ về CSTS tốt hơn. Tại Sierra Leone, có tới 65% phụ nữ không biết DHNH nào, tập trung ở nhóm có học vấn thấp. Các NC tại Việt Nam cũng cho các kết quả tương tự.
Việt Nam hiện nay được xếp vào nhóm nước có thu nhập trung bình thấp. Việt Nam có 75% dân số sống ở khu vực nông thôn và khoảng 19% dân số là người DTTS (không phải người Kinh). Hiện vẫn còn sự khác biệt về tỷ lệ biết chữ giữa đô thị và nông thôn, giữa các vùng có mức độ phát triển KTXH khác nhau, nam và nữ, và giữa các nhóm dân tộc, đặc biệt là ở dân tộc H’Mông. Việt Nam là quê hương của 53 nhóm DTTS và hầu hết các dân tộc này đều sống ở những vùng núi, vùng sâu vùng xa với sự phát triển KTXH hạn chế và điều kiện giao thông khó khăn. Do đó, việc đảm bảo tất cả phụ nữ có thể tiếp cận bình đẳng tới các dịch vụ y tế chất lượng trong quá trình mang thai và sinh con là một thách thức rất lớn mặc dù đã có nhiều chính sách can thiệp [3]. Các trung tâm y tế chất lượng cao thường được đặt tại các khu vực đô thị, chứ không đặt ở các vùng nông thôn và miền núi. Các yếu tố về phía cung cấp dịch vụ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giải thích sự bất bình đẳng trong việc tiếp cận các dịch vụ CSSKBM. Các dịch vụ y tế có chất lượng
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE
2020
kém, chi phí quá cao, không thích hợp với bối cảnh địa phương hoặc không đáp ứng nhu cầu cụ thể của người dân địa phương thường dẫn tới tình trạng người dân ít sử dụng. Đối với những phụ nữ DTTS có mong muốn tiếp cận hệ thống y tế công, thì nhân viên y tế có thể tỏ ra thiếu khoan dung và ít nhạy cảm với các đặc điểm văn hóa, tín ngưỡng và tập quán truyền thống của các DTTS và có thể đối xử thiếu tôn trọng phụ nữ nghèo và DTTS so với phụ nữ người Kinh.
V. KẾT LUẬN
Khi được hỏi về các dấu hiệu bất thường khi mang thai có 85,7% đối tượng cho rằng đó là đau bụng; có
79,3% đối tượng cho rằng đó là ra máu âm đạo
Trong các loại vắc-xin được liệt kê thì chỉ có 3 loại vắc-xin được đối tượng cho rằng cần phải tiêm khi mang thai trong đó vắc-xin uốn ván chiếm tỷ lệ cao nhất (chiếm 96,4%), vắc-xin cúm là 3,0% và 2,8% đối tượng không biết cần tiêm vắc-xin nào khi mang thai.
Kết quả kiến thức về chăm sóc trước sinh của đối tượng: 39,4% đối tượng có kiến thức tốt và 60,6% đối tượng có kiến thức chưa tốt.
Có mối liên quan giữa kiến thức về chăm sóc trước sinh của đối tượng với trình độ học vấn, dân tộc, tình trạng kinh tế. Không có mối liên quan giữa kiến thức, thực hành về chăm sóc trước sinh của đối tượng với số lần mang thai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ môn Sản (2013), Bài giảng sản khoa, Vol. 1, NXB Y Học, Hà Nội.
2. Tổng Cục thống kê và UNICEF (2015), Điều tra đánh giá các mục tiêu trẻ em và phụ nữ Việt Nam 2014, Báo cáo cuối cùng, Hà Nội.
3. Trần Xuân Lương (2012), “Chiến lược Dân số và Sức khỏe sinh sản Việt Nam giai đoạn 2011-2020”, Tạp chí Chính sách Y tế. 9.
4. Nguyễn Văn Hải (2013), Thực hành về chăm sóc sức khoẻ mẹ trước, trong, sau sinh và chăm sóc trẻ sơ sinh của bà mẹ có con dưới 1 tuổi tại 3 xã Phủ Lý, Hợp Thành, Ôn Lương, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên.
5. Nguyễn Viết Tiến (2009), “Hiểu biết về các dấu hiệu nguy hiểm khi mang thai, khi sinh và sau sinh của các bà mẹ và ông bố có con nhỏ dưới 24 tháng tại 7 tình”, Tạp chí Y học thực hành.
6. UNFPA và Bộ Y tế (2017), Những rào cản trong tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ và kế hoạch hóa gia đình của đồng bào dân tộc thiểu số Việt Nam
7. Vũ Văn Hoàn (2017), Thực trạng và hiệu quả can thiệp nâng cao kiến thức, thái độ, thực hành làm mẹ an toàn cho phụ nữ H’mông tỉnh Sơn La, Luận án Tiến sỹ Y tế Công cộng, Hà Nội
8. Umar N. Jibril và các cộng sự. (2018), “Health Education Intervention on Knowledge and Accessibility of Pregnant Women to Antenatal Care Services in Edu, Kwara State, Nigeria”, International Journal of Women’s Health and Reproduction Sciences. 6(2), tr. 154-160.