NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH VÀ ĐÁNH GIÁ KIẾN THỨC, THỰC HÀNH CỦA CÁN BỘ Y TẾ VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN Y TẾ TẠI CÁC CƠ SỞ Y TẾ
CÔNG LẬP TỈNH SÓC TRĂNG NĂM 2018-2019
Trần Lê Hoài Bảo1*, Lê Thành Tài2 1. Bệnh viện Đa khoa tỉnh Sóc Trăng
2. Trường Đại học Y Dược Cần Thơ
*Email: [email protected] TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Chất thải y tế là một trong những loại chất thải nguy hại, phức tạp, có khả năng gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng. Chất thải y tế nếu không được xử lý an toàn sẽ tích tụ lâu dài trong môi trường, gây ô nhiễm đất, nước mặt, nước ngầm và không khí, ảnh hưởng đến các hệ sinh thái và ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người. Mục tiêu: Mô tả thực trạng QLCTRYT tại các CSYT và tỷ lệ kiến thức thực hành chung của NVYT trước và sau can thiệp tại các CSYT công lập trên địa bàn Tỉnh Sóc Trăng năm 2018-2019. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích và nghiên cứu can thiệp. Kết quả: Tỷ lệ nam là 39,2%, nữ là 60,8%. Phần lớn trong độ tuổi 26-35 tuổi là 47,6% với tỷ lệ CSYT thực hành QLCTRYT đúng là 70%. Tỷ lệ kiến thức chung đúng là 45,6%, thực hành chung đúng là 93,2%. Sau can thiệp, tỷ lệ kiến thức chưa đúng là 0,3% và và thực hành chung chưa đúng là 0,8%. Kết luận: Còn đến 30%
CSYT chưa thực hiện đúng về QLCTRYT. Cần đầu tư trang thiết bị và các phương tiện phục vụ việc quản lý CTRYT. Tỷ lệ kiến thức và thực hành chung chưa đúng giảm xuống sau can thiệp lần lượt từ 54,4% xuống 0,5% và 6,8% xuống 0,8%. .Cần tăng cường công tác đào tạo, tập huấn cho tất cả các nhân viên về kiến thức, thực hành quản lý chất thải rắn y tế. Đồng thời đầu tư trang thiết bị và các phương tiện phụ vụ việc quản lý CTRYT.
Từ khóa: quản lý chất thải y tế, quản lý chất thải rắn y tế ABSTRACT
A STUDY OF SITUATION AND EVALUATION ABOUT KNOWLEDGE AND PRACTICE OF HEALTHCARE WORKERS ABOUT SOLID MEDICAL WASTE MANAGEMENT IN PUBLIC MEDICAL CENTERS OF SOCTRANG
PROVINCE, 2018-2019.
Tran Le Hoai Bao1, Le Thanh Tai2 1. Soc Trang General Hospital 2. Can Tho University of Medicine and Pharmacy Introduction: Medical waste is not only a kind of the most hazardous, complex but also potentially polluting the environment and affecting on public health. If medical waste is not disposed of safely, it will accumulate in the environment, which leads to pollute and degradation of soil, surface water, groundwater and even air, disturb the balance of ecosystems and directly affect human's health.
During the courses of medical examination and treatment, hospitals and health centers discharged a large amount of medical waste into the environment. And this is one of the direct risk causing serious problems with the habitat as well as public health. Objectives: To describe the current situation of the management of medical waste, the percentage of knowledge and general practice before and after intervening in public health clinics of SocTrang province, 2018 – 2019. Materials and methods: A descriptive cross-sectional study with analysis and intervention. Results: The rate of male is 39.2%, female is 60.8%. Most objects in 26-35 year-old age is 47.6%. The proportion of health facilities correctly practicing in management of medical waste was 70%. Before intervention, the rate of general correct knowledge is 45.6%, correct common practice is 93.2%. After the intervention, the rate of general incorrect knowledge is 0,3%, correct common practice is 0,8%. Conclusion: Up to 30% of health facilities have not strictly implemented medical waste management. There is a need to invest in equipment and facilities for medical waste management. The proportion of general knowledge and practice did not decrease after the intervention, respectively from 45.6% to 0.5% and 6.8% to 0.8%. It is necessary to enhance training for all healthcare workers about knowledge and
practices on waste management. Besides, investing in several equipment and facilities, timely replacing broken bins, using the clearly labels and regularly renewing blurry texts.
Keywords: medical waste management, solid medical waste management
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chất thải y tế là một trong những loại chất thải nguy hại, phức tạp, có khả năng gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng, đây cũng là mối quan tâm của toàn thế giới [4].
Sóc Trăng là một trong những tỉnh ven biển thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu long, mạng lưới các cơ sở Y tế của tỉnh được xây dựng từ tỉnh đến phường, xã với các trang thiết bị tương đối cơ bản phục vụ cho sức khoẻ của nhân dân trong tỉnh. Trong quá trình hoạt động khám và chữa bệnh cho người dân các bệnh viện, trung tâm đã thải ra môi trường một khối lượng lớn chất thải y tế. Đây là một trong những nguồn gây ô nhiểm trực tiếp đến sức khỏe cộng đồng.
Xuất phát từ cơ sở trên đây, tôi tiến hành thực hiện đề tài “Nghiên cứu tình hình và đánh giá kiến thức, thực hành của cán bộ y tế về quản lý chất thải rắn y tế tại các bệnh viện công lập tỉnh Sóc Trăng năm 2018-2019”, với 3 mục tiêu:
1. Xác định tỷ lệ các bệnh viện công lập trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng thực hiện đúng việc quản lý chất thải rắn y tế năm 2018-2019.
2. Xác định tỷ lệ nhân viên y tế có kiến thức thực hành đúng về quản lý chải rắn y tế ở các bệnh viện công lập trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng năm 2018-2019.
3. Đánh giá kết quả can thiệp sau 6 tháng về quản lý chất thải rắn y tế của các nhân viên y tế có kiến thức hoặc thực hành chưa đúng tại các bệnh viện công lập trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng năm 2018-2019.
II. ĐỐI TƢƠNG VA PHƢƠNG PHÁP
Đối tƣợng nghiên cứu: Các bệnh viện công lập và trung tâm y tế huyện đang hoạt động trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng.
Các nhân viên y tế có tham gia việc quản lý chất thải rắn y tế đang làm việc tại các cơ sở y tế công lập trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng.
Tiêu chuẩn chọn mẫu:
Mục tiêu 1 Các bệnh viện công lập tuyến tỉnh và bệnh viện trong các Trung tâm y tế tuyến huyện/ thị đang hoạt động ít nhất 6 tháng trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng trong thời gian nghiên cứu.
Mục tiêu 2: Các nhân viên y tế bao gồm Bác sĩ, y sĩ, dược sĩ, điều dưỡng, kỹ thuật viên, hộ lý và các NVYT khác có tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp quản lý chất thải rắn y tế đang làm việc tại các CSYT công lập trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng ít nhất 6 tháng trở lên trong thời gian nghiên cứu.
Mục tiêu 3: Các nhân viên y tế tham gia việc quản lý chất thải rắn y tế có kiến thức hoặc thực hành chưa đúng về quản lý chất thải rắn y tế tại các CSYT công lập trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng.
Tiêu chuẩn loại trừ
Các nhân viên y tế tham gia việc quản lý chất thải rắn y tế nhƣng 3 lần đến bệnh viện không gặp đƣợc.
Phƣơng pháp nghiên cứu: Nghiên cứu ngang mô tả cắt ngang có phân tích và nghiên cứu can thiệp.
Mục tiêu 1:
Toàn bộ các bệnh viện công lập tuyến tỉnh của Sóc Trăng và 5/10 TTYT tuyến huyện/
thị trong các Trung tâm y tế tuyến huyện/ thị của tỉnh Sóc Trăng.
Mục tiêu 2
Cỡ mẫu được tính theo công thức n = Z2 (1 – α/2) x Trong đó:
n là cỡ mẫu của nghiên cứu
Z(1 - α/2): với độ tin cậy 95% thì Z(1 - α/2) = 1,96 d: sai số cho phép, chọn d = 0,05
p = 0,46 (tỷ lệ kiến thức chung đúng của đối tượng nghiên cứu trong nghiên cứu của Đặng Thị Thu Hương và cs (2017) là 46,1%) [26].
Thay vào công thức tính được cỡ mẫu là 266 người. Nhân với hệ số thiết kế D = 1,2 được cỡ mẫu cần điều tra là 320 người. Cỡ mẫu thực tế là 355 người.
Mục tiêu 3
Tất cả các nhân viên y tế được chọn ở mục tiêu 2 có kiến thức hoặc thực hành chưa đúng về quản lý chất thải rắn y tế.
Nội dung nghiên cứu:
- Thực trạng quản lý CTRYT tại các CSYT: có hai giá trị: Đúng và Chưa đúng. Đúng khi đạt 8/10 nội dung về QLCTRYT.
- Kiến thức đúng: Phỏng vấn đối tượng dựa trên BCH có sẳn về các kiến thức cơ bản về CTRYT, thu gom, vận chuyển và phân loại CTRYT, kiến thức đúng khi đúng ≥75% số câu hỏi về kiến thức.
- Thực hành đúng: quan sát và đánh giá thực hành của đối tượng dựa trên bộ quan sát có sẳn về thực hành về thu gom và phân loại CTRYT, thực hành đúng khi đúng ≥75% về hành vi thu gom, phân loại đùn CTRYT.
- Kết quả can thiệp: Đánh giá tỷ lệ kiến thức và thực hành đúng sau can thiệp.
Phƣơng pháp can thiệp:
Can thiệp trên toàn bộ mẫu bằng hình thức truyền thông trực tiếp. Thời gian can thiệp từ tháng 9/2018 đến tháng 3/2019.
Mở 7 lớp tập huấn về công tác quản lý và xử lý CTRYT tại 7 cơ sở y tế công lập trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng.
Đánh giá hiệu quả can thiệp:
Chỉ số hiệu quả can thiệp
CSHQCT = Act - Bct
x 100 Act
Trong đó:
Act : Tỷ lệ THA trước can thiệp Bct : Tỷ lệ THA sau can thiệp
HQCT = CSHQCT - CSHQchứng
Phƣơng pháp phân tích số liệu: SPSS 18.0.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1. Thực trạng QLCTRYT
Bảng 1. Đặc điểm chung và lượng CTRYT phát sinh hằng ngày của CSYT STT Cơ sở y tế
Số nhân
viên
Số giƣờng thực kê
Lƣợt khám chữa bệnh
CTR thông thƣờng
CTR lây nhiễm
CTR nguy hại không lây
nhiễm 1 BV Đa khoa tỉnh Sóc
Trăng 716 900 1100 652,00 170,00 0,20
2 TTYT huyện Mỹ Xuyên 272 252 530 120,00 15,00 0,20
3 BV quân dân Y tỉnh Sóc
Trăng 142 220 800 150,00 20,00 0,10
4 TTYT huyện Mỹ Tú 264 240 500 110,00 14,00 0,10
2
) 1 (
d p p
n = Z2(1 - α/2)
p x (1 - p) d2 n = Z2(1 - α/2)
p x (1 - p) d2 n = Z2(1 - α/2)
p x (1 - p) d2 n = Z2(1 - α/2)
p x (1 - p) d2 n = Z2(1 - α/2)
p x (1 - p) d2 n = Z2(1 - α/2)
p x (1 - p) d2
5 TTYT huyện Ngã Năm 185 200 500 180,00 60,00 0,20
6 TTYT huyện Kế Sách 222 220 298 165,00 12,00 0,00
7 BV chuyên khoa 27 tháng
2 85 100 350 40,00 2,65 0,01
8 BV sản nhi Sóc Trăng 371 520 430 950,00 175,00 2,00
9 TTYT huyện Châu Thành 151 190 500 57,00 7,00 0,07
10 BV 30 tháng 4 119 156 520 15,00* 8,50 1,50
Tổng cộng 2527 2998 5528 2439,0 484,15 4,38
Trung bình 252,7±
58,04
299,8±
75,2 552,8±73,9 243,9 ± 96,98
48,41
± 21,29
0,44 ± 0,22 Nhận xét: NVYT và số giường thực kê cao nhất ở BVĐK tỉnh Sóc Trăng và thấp nhất ở BV chuyên khoa 27 tháng 2. Lượt khám chữa bệnh cao nhất ở bệnh viện Đa khoa tỉnh Sóc Trăng và thấp nhất ở Trung tâm Y tế huyện Kế Sách. Tổng lượng CTRYT thông thường là 2439 kg/ngày, lây nhiễm là 484,15 kg/ngày, không lây nhiễm là 4,38 kg/ngày.
Bảng 2. Thực trạng QLCTRYT
Các tiêu chí về QLCTRYT (n= 10 cơ sở y tế) Đạt Không Đạt
N % n %
Tiêu chí dụng cụ thu gom CTRYT lây nhiễm 10 100,0 0 0,0
Tiêu chí dụng cụ thu gom CTRYT sắc nhọn 10 100,0 0 0,0
Tiêu chí dụng cụ thu gom CTRYT hóa học 7 70,0 3 30,0
Tiêu chí phân loại và thu gom CTRYT 7 70,0 3 30,0
Tiêu chí vận chuyển, lưu giữ CTRYT 8 80,0 2 20,0
Thực trạng QLCTRYT 7 70,0 3 30,0
Nhận xét: Trong nghiên cứu, 70% CSYT có thực trạng quản lý CTRYT đạt.
3.2. Kiến thức và thực hành chung của đối tƣợng nghiên cứu Bảng 3. Đặc điểm chung về giới tính và tuổi của NVYT
Thông tin chung (n=355) Tần suất Tỷ lệ
Giới Nam 139 39,2
Nữ 216 60,8
Tuổi
18-25 tuổi 49 13,8
26-35 tuổi 169 47,6
36-45 tuổi 67 18,9
46-55 tuổi 70 19,7
Nhận xét: Nữ chiếm tỷ lệ cao hơn (60,8%). Phần lớn đối tượng từ 26-35 tuổi (47,6%) Bảng 4. Tỷ lệ kiến thức đúng của đối tượng nghiên cứu
Kiến thức (n=355) Đúng Chƣa đúng
n % n %
Cơ bản về CTRYT 317 89,3 38 10,7
Vận chuyển CTRYT 283 79,7 72 20,3
Thu gom và phân loại CTRYT 84 23,7 271 76,3
Kiến thức chung 162 45,6 193 54,4
Thực hành chung
Thu gom 338 95,2 17 4,8
Phân loại 348 98,0 7 2,0
Thu gom và phân loại CTRYT lây nhiễm 350 98,6 5 1,4
Thu gom và phân loại CTRYT hóa học 334 94,1 21 5,9
Thu gom và phân loại CTRYT sinh hoạt 346 97,5 9 2,5
Thu gom và phân loại CTRYT sắc nhọn 341 96,1 14 3,9
Thu gom 347 97,7 8 2,3
Thực hành chung 331 93,2 24 6,8
Nhận xét: Tỷ lệ đối tượng nghiên cứu của kiến thức chung đúng là 45,6%, thực hành chung đúng là 93,2%.
Bảng 5. Mối liên quan giữa kiến thức và thực hành chung của NVYT Kiến thức chung
Thực hành chung
OR (KTC 95%) p
Chƣa đúng Đúng
n % n %
Chưa đúng 17 8,8 176 91,2
2,139
(0,864-5,294) 0,093*
Đúng 7 4,3 155 95,7
Tổng 24 6,8 331 93,2
Nhận xét: Nghiên cứu chưa ghi nhận mối liên quan giữa kiến thức và thực hành.
3.3. Tỷ lệ kiến thức, thực hành sau can thiệp Bảng 6. Tỷ lệ kiến thức và thực hành sau can thiẹp
Trƣớc can thiệp Sau can thiệp χ2 p* CSHQ (%)
n % n %
Kiến thức chung
Chưa đúng 193 54,4 1 0,3
190,005 <0,001 99,34
Đúng 162 45,6 354 99,7
Thực hành chung
Chưa đúng 24 6,8 3 0,8
41,728 <0,001 88,23
Đúng 331 93,2 352 99,2
Tổng 355 100 355 100
* Fisher test
Nhận xét : Tỷ lệ đối tượng có kiến thức chung chưa đúng trước can thiệp là 54,4%.
Sau can thiệp, tỷ lệ này giảm xuống còn 0,3%. Tỷ lệ thực hành chung chưa đúng trước can thiệp là 6,8%. Tỷ lệ này sau can thiệp là 0,8%. Sự thay đổi có ý nghĩa thống kê (p<0,001).
IV. BÀN LUẬN
4.1. Thực trạng quản lý CTRYT
Tổng lượng CTRYT thông thường là 2439 kg/ngày trung bình là 243,9 ± 96,98 kg/ngày, lây nhiễm là 484,15 kg/ngày trung bình là 48,41 ± 21,29 kg/ngày, không lây nhiễm là 4,38 kg/ngày, trung bình là 0,44 ± 0,22 kg/ngày. Kết quả này thấp hơn nghiên cứu của nghiên cứu của Đặng Ngọc Chánh và cs (2012) có trung bình CTRYT thông thường 1237,5 kg/ngày và lượng CTRYT lây nhiễm là 230,5 kg/ngày [5].
Trong nghiên cứu, 70% CSYT có thực trạng quản lý CTRYT đạt. Kết quả này tương đối tốt hơn nghiên cứu của Hoàng Thị Thúy (2011) cho thấy công tác quản lý CTRYT tại bệnh viện chưa đáp ứng các tiêu chí của BYT ban hành [9].
4.2. Đặc điểm chung của đối tƣợng nghiên cứu
Giới tính: Nghiên cứu tiến hành trên 355 NVYT. Trong đó, 139 đối tượng nghiên cứu là nam giới chiếm tỷ lệ 39,2% và 216 đối tượng nghiên cứu là nữ chiếm 60,8%. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương tự một số nghiên cứu tại Việt Nam như nghiên cứu của Dương Duy Quang (2014) với tỷ lệ nam giới là 30% và nữ là 70% [8] và nghiên cứu của Phạm Đức Khang (2016) với tỷ lệ nam giới là 31,5% và nữ giới là 68,5% [7]. Nghiên cứu của Trần Đại Ái (2016) cũng cho kết quả tương tự với tỷ lệ nam là 32,7% và nữ là 67,3% [1], nghiên cứu của Tanmay K Mehta (2018) tại Ấn Độ có tỷ lệ nam là 30,4% và nữ 69,5% [14].
Độ tuổi: 13,8% đối tượng nghiên cứu trong độ tuổi 18-25 tuổi; 47,6% đối tượng nghiên cứu trong độ tuổi 26-35; 18,9% đối tượng nghiên cứu từ 36-45 tuổi và 19,7% đối tượng nghiên cứu từ 46 tuổi trở lên. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương tự nghiên cứu của Dương Duy Quang (2014) tại bệnh viện Đa khoa Định Quán với tỷ lệ 71,6% đối tượng nghiên cứu từ 20-40 tuổi và 28,4% đối tượng nghiên cứu từ 40 tuổi trở lên [8]; nghiên cứu của Phạm Đức Khang (2016) với tỷ lệ đối tượng từ 26-35 tuổi là 36,2% [7]; nghiên cứu của
Ancia Manwere và cs (2012) tại Iran cho tỷ lệ đối tượng nghiên cứu trong độ tuổi 20-30 chiếm 44%, tỷ lệ đối tượng từ 31-40 tuổi chiếm 32% và tỷ lệ đối tượng nghiên cứu từ 40 tuổi trở lên chiếm 22% [13], nghiên cứu Rajesh K Chudasama và cs (2013) tại India có tỷ lệ đối tượng nghiên cứu trong độ tuổi 21-25 tuổi là 23,76%, 26-30 tuổi là 37,23%, 31-35 tuổi là 12,76%, 36-40 tuổi ;à 11,34% và > 40 tuôi là 14,89% [13]; nghiên cứu của M. Junaid Khan (2017) tại Pakistan có tỷ lệ đối tượng nghiên cứu < 40 tuổi là 84% và tỷ lệ đối tượng nghiên cứu > 40 tuổi là 16% [11].
4.3. Kiến thức và thực hành chung của đối tƣợng nghiên cứu
Kiến thức: Trong nghiên cứu của chúng tôi, 54,4% đối tượng nghiên cứu có kiến thức chung chưa đúng. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương tự nghiên cứu của Đặng Thị Thu Hương (2017) với tỷ lệ đối tượng nghiên cứu 46,1% [6]. Mặc dù trong nghiên cứu của chúng tôi có tỷ lệ kiến thức chung về chất thải rắn y tế chưa đúng khá cao, nhưng phần lớn chủ yếu tập trung vào các kiến thức về xử lý chất thải rắn y tế chưa đúng còn các kiến thức về khác thì nghiên cứu của chúng tôi đạt tỷ lệ khá và cao. Cụ thể trong nghiên cứu của chúng tôi, 76,3%
đối tượng nghiên cứu có kiến thức về thu gom, phân loại và xử lý chất thải rắn y tế chưa đúng. Nguyên nhân của điều này có thể là do đặc điểm của đối tượng tham gia nghiên cứu.
Nghiên cứu được tiến hành trên các đối tượng có tham gia vào công tác quản lý chất thải rắn y tế mà chỉ số ít đối tượng nghiên cứu có tham gia và khâu xử lý chất thải rắn y tế. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy rằng tỷ lệ đối tượng nghiên cứu có kiến thức về cơ bản về chất thải rắn y tế đúng là 89,3%, kiến thức về vận chuyển và lưu trữ chất thải rắn y tế là 79,7%.
Thực hành: Trong nghiên cứu, tỷ lệ đối tượng nghiên cứu có thực hành chung chưa đúng là 6,8%. Kết quả nghiên cứu của Trần Đại Ái (2016) tương tự với tỷ lệ đối tượng nghiên cứu thực hành chung đúng về quản lý CTYT là 97%, thực hành về phân loại và thu gom CTRYT là 97%, vận chuyển 2% [1]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cao hơn nghiên cứu của Đặng Thị Thu Hương (2017) với tỷ lệ thực hành chưa đúng về mã màu là 62,3%, nhóm CTRYT là 64,9%, thu gom và vận chuyển là 65% [6]; nghiên cứu của tác giả Phạm Đức Khang (2016) với tỷ lệ thực hành chưa đúng về phân loại là 31,9%, phân loại CTRYT lây nhiễm không sắc nhọn là 13,5%, sắc nhọn là 38,7%, thông thường là 10% và tái chế là 54,6%
[7]. Nghiên cứu của Rajesh K Chudasama và cs (2013 với tỷ lệ đối tượng nghiên cứu thực hành chưa đúng về phân loại CTRYT sắc nhọn là 36,9% và chất thải giải phẫu là 29,4% [13].
Mối liên quan giữa kiến thức và thực hành: Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, tỷ lệ đối tượng nghiên cứu có thực hành chung chưa đúng cao ở nhóm có kiến thức chung chưa đúng. Tuy nhiên sự khác biệt này chưa có ý nghĩa thống kê (p=0,093). Nghiên cứu của Phạm Đức Khang (2016) cũng chưa ghi nhận mối liên quan này [7].
4.4. Kết quả sau can thiệp
Kiến thức: Chúng tôi tiến hành can thiệp trên 193 đối tượng nghiên cứu có kiến thức chung chưa đúng. Sau can thiệp, tỷ lệ kiến thức chung 1 trên tổng số 193 đối tượng. Tỷ lệ đối tượng có kiến thức chung chưa đúng trước can thiệp là 54,4%. Sau can thiệp, tỷ lệ này giảm xuống còn 0,3%. Sự thay đổi có ý nghĩa thống kê (p<0,001).
Thực hành: Chúng tôi tiến hành can thiệp trên 24 đối tượng nghiên cứu có thực hành chung chưa đúng. Sau can thiệp, tỷ lệ đối tượng nghiên cứu có thực hành chung chưa đúng là 3 trên tổng số 24 đối tượng. Tỷ lệ thực hành chung chưa đúng trước can thiệp là 6,8%. Tỷ lệ này sau can thiệp là 0,8%. Sự thay đổi có ý nghĩa thống kê (p<0,001).
V. KẾT LUẬN
- 70% CSYT có thực trạng quản lý CTRYT đạt tiêu chí theo quy định. Do đó, cần đầu tư trang thiết bị và các phương tiện phục vụ việc quản lý CTRYT. Đảm bảo các dụng cụ thu gom CTRYT có nắp đậy, có đạp chân, bảng phân loại. Thay thế kịp thời các thùng rác bị hư hỏng, nhãn ghi trên mỗi thùng phải rõ ràng và dán mới khi hư.
- Tỷ lệ đối tượng nghiên cứu có kiến thức chung đúng 45,6%. Tỷ lệ đối tượng nghiên cứu có thực hành chung chưa đúng là 93,2%.
- Tỷ lệ đối tượng có kiến thức chung chưa đúng trước can thiệp là 45,6%. Sau can thiệp, tỷ lệ này giảm xuống còn 0,3%. Tỷ lệ thực hành chung chưa đúng trước can thiệp là 6,8%.
Tỷ lệ này sau can thiệp là 0,8%. Do đó, cần tăng cường công tác đào tạo, tập huấn cho tất cả các nhân viên về kiến thức, thực hành quản lý chất thải rắn y tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Đại Ái (2016), “Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp quản lý CTRYT tại bệnh viện Phú Vang năm 2016”, Trung tâm Y tế huyện Phú vang.
2. Bộ Y tế - Bộ Tài Nguyên và Môi Trường (2015), Thông tư liên tịch số 58/2015/TTLT-BYT- BTNMT quy định về quản lý chất thải y tế, Hà Nội.
3. Bộ Y tế (2007), Quyết định số 43/2007/QĐ-BYT về việc ban hành Quy chế quản lý chất thải y tế, Hà Nội.
4. Bộ Y tế (2015), Sổ tay hướng dẫn quản lý chất thải y tế trong bệnh viện, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.
5. Đặng Ngọc Chánh, Lê Ngọc Diệp, Lê Việt Anh, Hồ Nguyễn Thanh Thảo (2012),
“Kiến thức, thực hành về quản lý và xử lý chất thải y tế của nhân viên y tế tại một số bệnh việ n tuyến tỉnh năm 2012”, Tạp chí Y học Thành Phố Hồ Chí Minh, Tập 18, Phụ bản số 6, năm 2014.
6. Đặng Thị Thu Hương (2017), “Quản lý chất thải y tế dựa trên kiến thức và thực hành của nhân viên y tế tại bệnh viện Nhi Trung Ương”, Nghiên cứu Khoa học Bệnh viện Nhi Trung Ương.
7. Phạm Đức Khang (2016), “khảo sát kiến thức, thái độ, thực hành và các yếu tố liên quan đến phân loại, thu gom chất thải rắn của nhân viên y tế tại bệnh viện Y Học Cổ Truyền Kiên Giang”, Báo cáo khoa học.
8. Dương Duy Quang (2014), “Khảo sát kiến thức, thái độ, hành vi về chất thải y tế của nhân viên y tế”, Bệnh viện Định Quán.
9. Hoàng Thị Thúy, Phan Văn Tường (2011), “Thực trạng quản lý Chất thải rắn y tế và Kiến thức, thực hành của nhân viên y tế bệnh viện Đa khoa Đông Anh năm 2011”, Tạp chí Y học Thực hành (816), số 4/2012, Trang 145-150.
10. Adekunle Olaifa, Romona D Govender & Andrew J Ross (2018), “Knowledge, attitudes and practices of healthcare workers about healthcare waste management at a district hospital in KwaZulu-Natal”, South African Family Practice, 60:5, 137-145.
11. M. Junaid Khan, M. Asim Hamza, Bilal Zafar, Rashid Mehmod, Sharjeel Mushtaq (2017),
“Knowledge, attitude and practices of health care staff regarding hospital waste handling in tertiary care hospitals of Muzaffarabad, AJK, Pakistan”, International Journal of Scientific Reports Khan MJ et al. Int J Sci Rep. 2017 Jul;3(7):220-226, Pakistan.
12. Norouz Mahmoudi, Mojtaba Sepandi , Mohsen Saffari, Nematollah Jonaidi Jafari, Hossein Masoumbeigi (2012), “Knowledge and Practice of Nursing Staff about Sharp Waste Management in Selected Hospitals of Military (Tehran) and NonMilitary (Qom) in 2012”, Iranian Journal of Health, Safety & Environment, Vol.4, No.1, pp.689-694.
13. Rajesh K Chudasama, Matib Rangoonwala, Ankit Sheth, SKC Misra, A M Kadri, Umed V Patel (2013), “Biomedical Waste Management: A study of knowledge, attitude and practice among health care personnel at tertiary care hospital in Rajkot”, Journal of Research in Medical and Dental Science, Vol. 1, Issue 1, India.
14. Tanmay K Mehta, Parul D Shah, Kanupriya D Tiwari (2018), “A Knowledge, Attitude and Practice Study of Biomedical Waste Management and Bio-safety among Healthcare Workers in a Tertiary Care Government Hospital in Western India”, National Journal of Community Medicine, Volume 9, Issue 5, India.
(Ngày nhận bài: 5/9/2019 - Ngày duyệt đăng bài: 8/10/2019)