• Tidak ada hasil yang ditemukan

NGHIÊN CỨU TỶ LỆ NHIỄM HPV VÀ SỰ PHÂN BỐ CÁC TYPE HPV Ở BỆNH NHÂN KHÁM PHỤ KHOA TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "NGHIÊN CỨU TỶ LỆ NHIỄM HPV VÀ SỰ PHÂN BỐ CÁC TYPE HPV Ở BỆNH NHÂN KHÁM PHỤ KHOA TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH"

Copied!
5
0
0

Teks penuh

(1)

NGHIÊN CỨU TỶ LỆ NHIỄM HPV VÀ SỰ PHÂN BỐ CÁC TYPE HPV Ở BỆNH NHÂN KHÁM PHỤ KHOA TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y DƯỢC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Hữu Huy1, Lê Minh Khôi1,2, Nguyễn Thị Băng Sương1,2, Nguyễn Hoàng Bắc1,2

TÓM TẮT

Mục tiêu: Ung thư cổ tử cung là bệnh ung thư phổ biến thứ 3 ở phụ nữ trên toàn thế giới. Nhiễm các type HPV nguy cơ cao là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất gây ung thư cổ tử cung. Việc phát hiện và định type HPV ngày càng trở nên quan trọng trong việc sàng lọc ung thư cổ tử cung và điều trị tiền ung thư. Xác định tỷ lệ nhiễm và sự phân bố các type HPV ở các bệnh nhân khám phụ khoa tại Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 715 bệnh nhân đến khám phụ khoa tại Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. Các đối tượng tham gia nghiên cứu được khám phụ khoa, xét nghiệm định type HPV bằng kỹ thuật lai phân tử Reverse Dot Blot.

Kết quả: Tỷ lệ nhiễm HPV ở các bệnh nhân khám phụ khoa tại bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh là 16,5%. Tỷ lệ nhiễm 1 type HPV chiếm 58,47%, đồng nhiễm 2 type chiếm 18,64%, nhiễm ≥3 type trở lên chiếm 11,02%, dương tính nhưng không định được type chiếm 11,86%. Trong nhóm HPV nguy cơ cao, type HPV 16 dương tính chiếm tỷ lệ cao nhất 23,72% sau đó là HPV 52 chiếm tỷ lệ 13,46%.

Kết luận: Tỷ lệ nhiễm HPV của bệnh nhân đến khám phụ khoa ở Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh là 16,5%, sự phân bố tỷ lệ nhiễm các type HPV tương tự các nơi khác ở trong nước và trên thế giới.

Từ khóa: HPV, ung thư cổ tử cung, HPV genotyping

ABSTRACT

STUDY ON HPV PREVALENCE AND DISTRIBUTION OF HPV TYPES IN PATIENTS AT UNIVERSITY MEDICAL CENTER HO CHI MINH CITY

Nguyen Huu Huy, Le Minh Khoi, Nguyen Thi Bang Suong, Nguyen Hoang Bac

* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No. 1 - 2021: 270 - 274 Objective: The goal of this study was to determine HPV prevalence and distribution of HPV types in patients at University Medical Center Ho Chi Minh City.

Methods: In A cross-sectional study was conducted on 715 patients at University Medical Center Ho Chi Minh City. All subjects have taken an pelvic examination to get clinical findings, a sample for examining HPV infection by Reverse Dot Blot hybridization assay.

Results: The prevalence of HPV infection on patients at University Medical Center Ho Chi Minh City was 16.5%. Infection by 1 type was 58.47%, coinfection with 2 types is 18.64%; co-infection of ≥ 3 types was 11.02%

and 11.86 % positive but can not typing. In the high risk HPV group, HPV type of 16 was highest (22.73%), the second were type 52 (13.46%).

Conclusions: The prevalence of HPV infection in patients at University Medical Center Ho Chi Minh City was 16.5% and there is similarity in HPV types distribution in Vietnam and in an other regions.

Keywords: HPV, cervical cancer, HPV genotyping

1Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 2Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh

(2)

ĐẶT VẤN ĐỀ

Ung thư cổ tử cung (CTC) là bệnh ung thư phổ biến thứ 3 ở phụ nữ trên toàn thế giới, ước tính có 569.847 trường hợp mắc mới và 311.365 ca tử vong trong năm 2018. Khoảng 4.177 trường hợp ung thư cổ tử cung mới được chẩn đoán hằng năm và khoảng 2.420 ca tử vong do ung thư này hàng năm tại Việt Nam (dữ liệu GLOBOCAN 2018)(1). Ung thư CTC có liên quan chặt chẽ với nhiễm các type Human papilloma virus (HPV) nguy cơ cao đường sinh dục. Có hơn 150 type Human Papilloma virus được phát hiện, trong đó, type 16, 18, 31, 33, 35, 45, 52 và 58 là nhóm týp nguy cơ cao thường gặp ở cổ tử cung(2). Virus xâm nhập vào biểu mô cổ tử cung tạo nên các biến đổi của tế bào và diễn tiến này kéo dài từ 10 đến 20 năm với biểu hiện từ tổn thương viêm nhiễm đơn giản đến tân sinh trong biểu mô, ung thư tại chỗ và xâm lấn. Do đó, việc phát hiện sớm bằng tế bào học, xét nghiệm Human papilloma virus là cần thiết, giúp tăng khả năng dự phòng, điều trị sớm tổn thương cổ tử cung nhằm giảm tỷ lệ tử vong của bệnh và nghiên cứu triển khai vaccine phòng ngừa Human papilloma virus ở phụ nữ trẻ tuổi(3).

Nghiên cứu cộng đồng ghi nhận tỷ lệ nhiễm Human papilloma virus khoảng 10% nhưng kết quả này khác nhau tùy theo từng vùng, miền, từng quốc gia trên thế giới như tỷ lệ tại Châu Phi là 22,12%, Châu Mỹ chiếm 12,95%, Châu Âu và Châu Á vào khoảng 8%(4).Tại Việt Nam có tỷ lệ mắc HPV tương đối cao, theo nghiên cứu của Lục Thị Vân Bích (2011) tại khu vực TP. Hồ Chí Minh ghi nhận tỷ lệ nhiễm HPV là 19,97%(5). Theo nghiên cứu của Lê Quang Vinh (2015) tại khu vực Hà Nội ghi nhận tỷ lệ nhiễm HPV là 9,73%(6). Do đó, việc phát hiện và xác định các type HPV có vai trò vô cùng quan trọng trong việc đánh giá nguy cơ ung thư cổ tử cung và một số ung thư đường sinh dục khác. Xuất phát từ thực tế đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:

“Nghiên cứu tỷ lệ nhiễm và sự phân bố các type Human papilloma virus ở bệnh nhân khám phụ khoa tại bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí

Minh” có nghĩa và giá trị rất lớn cho việc xây dựng bản đồ dịch tể học chủng HPV ở Việt Nam làm cơ sở cho chương trình phòng chống ung thư cổ tử cung hiệu quả hơn, với mục tiêu là xác định tỷ lệ nhiễm HPV sinh dục, các type HPV ở bệnh nhân đến khám tại Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.

ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu

Trong khoảng thời gian từ tháng 01 năm 2019 đến tháng 11 năm 2020, chúng tôi thu thập (khảo sát) được 715 bệnh nhân đến khám phụ khoa tại bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh đưa vào nhóm nghiên cứu.

Tiêu chuẩn chọn

Phụ nữ đã có quan hệ tình dục.

Hiện tại không có thai.

Không thụt rửa âm đạo trước khi xét nghiệm.

Không đặt thuốc điều trị phụ khoa trước đó ít nhất 7 ngày.

Khi xét nghiệm không trong thời kỳ hành kinh.

Không quan hệ tình dục trước xét nghiệm 3 ngày.

Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu cắt ngang mô tả.

Cỡ mẫu

Cỡ mẫu được tính theo công thức cho nghiên cứu mô tả là ước lượng tỷ lệ:

n ≥ d

q

z

p

2 2

2 / ) 1

( . .

với p= 10%, d=0,05 nên tính được cỡ mẫu là 139 ca bệnh.

Quy trình thực hiện định type HPV

Thu nhận bệnh phẩm: dịch phết cổ tử cung.

Tách chiết DNA tổng số bằng phương pháp Phenol- chloroform.

Thực hiện phản ứng Real-time PCR trên máy Agilent AriaMx.

Sản phẩm PCR dương tính được sử dụng để

(3)

định type HPV bằng kỹ thuật lai phân tử Reverse Dot Blot với các Probe lai đặc hiệu cho 16 type nguy cơ cao (16, 18, 31, 33, 35, 39, 45, 51, 52, 53, 56, 58, 59, 66, 68, 82) và 8 type nguy cơ thấp (6, 11, 42, 43, 61, 70, 71, 81) đã được cố định sẵn trên màng lai Biodyne C. Tín hiệu dương tính được phát hiện qua phản ứng hiện màu.

Xử lý và phân tích số liệu

Sử dụng phần mềm SPSS version 20.0 cho các phân tích thống kê.

Y đức

Nghiên cứu này được thông qua bởi Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Đại học Y Dược TP. HCM, số 55/GCN-HĐĐĐ, ngày 5/12/2020.

KẾT QUẢ

Tỷ lệ nhiễm HPV

Hình 1: Tỷ lệ HPV- DNA (+) của bệnh nhân đến khám tại Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM Qua khảo sát 715 phụ nữ trong độ tuổi từ 19 đến 78 tuổi, chúng tôi ghi nhận có 118 trường hợp dương tính với HPV, chiếm tỷ lệ 16,5%. Có 83,5% trường hợp âm tính với HPV (Hình 1).

Tỷ lệ nhiễm HPV theo nhóm tuổi

Bảng 1: Liên quan giữa tình trạng nhiễm HPV với nhóm tuổi

Tuổi HPV dương tính n (%)

HPV âm tính n (%)

Tổng n (%)

≤ 25 8 (21,6) 29 (78,4) 37 (100) 26– 35 34 (16,9) 167 (83,1) 201 (100)

> 35 76 (15,9) 401 (84,1) 477 (100) Tổng 118 (16,5) 597 (83,5) 715 (100)

Bảng 1 cho thấy phụ nữ có độ tuổi dưới 25 tuổi có tỷ lệ nhiễm HPV cao hơn so các nhóm tuổi khác, kế đến là nhóm tuổi 26 - 35 tuổi; thấp nhất ở nhóm phụ nữ trên 35 tuổi nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê, p >0,05.

Tỷ lệ nhiễm HPV đơn type và đa type Bảng 2: Tỷ lệ nhiễm HPV đơn type và đa type

Kết quả định type Số lượng Tỷ lệ %

1 type 69 58,47

2 type 22 18,64

≥ 3 type 13 11,02

Không định type 14 11,86

Tổng số 118 100

Bảng 2 cho thấy: nhiễm 1 type HPV chiếm đa số với 69/118 ca (58,47%), đồng nhiễm 2 type có 22/118 ca (18,64%), nhiễm ≥3 type trở lên có 14/118 ca (11,02%), 14/118 ca (11,86%) dương tính nhưng không định được type do thuộc các type ngoài 24 type có thể xác định được bằng xét nghiệm.

Bảng 3: Tỷ lệ nhiễm các type HPV (n = 156)

Type HPV Số type HPV được xác định

Tỷ lệ (%)/ số type HPV đuợc xác dịnh

HPV 16 37 23,72

HPV 18 15 9,62

HPV 31 3 1,92

HPV 35 4 2,56

HPV 39 4 2,56

HPV 45 4 2,56

HPV 51 10 6,41

HPV 52 21 13,46

HPV 53 7 4,49

HPV 56 5 3,21

HPV 58 2 1,28

HPV 59 6 3,85

HPV 66 8 5,13

HPV 68 5 3,21

HPV 6 8 5,13

HPV 11 8 5,13

HPV 42 2 1,28

HPV 43 1 0,64

HPV 61 2 1,28

HPV 70 1 0,64

HPV 71 2 1,28

HPV 81 1 0,64

Tổng số 156 100

Từ Bảng 3, chúng tôi đã phát hiện được 22 type HPV trong số 24 type có thể xác định được

(4)

bằng kỹ thuật này. Trong nhóm HPV nguy cơ cao, type HPV 16 dương tính chiếm tỷ lệ cao nhất 23,72% sau đó là HPV 52 chiếm tỷ lệ 13,46%

còn trong nhóm HPV nguy cơ thấp thì HPV type 6 và HPV type 11 cùng chiếm tỷ lệ 5,13%.

BÀN LUẬN

Trong nghiên cứu của chúng tôi đã phát hiện được 16,5% trường hợp bị nhiễm HPV qua kỹ thuật Reverse Dot Blot, kết quả này phù hợp với tần suất nhiễm HPV trong nước, các nước khu vực và trên thế giới. Theo nghiên cứu của Lục Thị Vân Bích (2011) tại khu vực TP. Hồ Chí Minh ghi nhận tỷ lệ nhiễm HPV là 19,97%(5). Theo nghiên cứu của Lê Quang Vinh (2015) tại khu vực Hà Nội ghi nhận tỷ lệ nhiễm HPV là 9,73%(6). Tham khảo nghiên cứu trên thế giới, chúng tôi ghi nhận tỷ lệ nhiễm HPV của phụ nữ khu vực Châu Á dao động khoảng 10%, trong đó theo nghiên cứu của tác giả Liu SS (2011) thì tỷ lệ nhiễm HPV ở Trung Quốc là 10% và theo nghiên cứu của tác giả Johnson DC (2014) thì tỷ lệ nhiễm HPV ở Nepal là 9,6%(7,8). Kết quả của khu vực này dao động không cao là do các quốc gia ở Châu Á có điều kiện sống, sinh hoạt, tình trạng kinh tế tương đồng nhau, có chịu ảnh hưởng văn hóa Phương Đông, có hành vi quan hệ tình dục, lối sống tương đối lành mạnh, tình trạng kinh tế xã hội đang phát triển, điều kiện chăm sóc y tế không khác nhau nhiều, cũng như tình trạng tổn thương cổ tử cung được phát hiện.

Tỷ lệ nhiễm HPV phụ thuộc vào độ tuổi, các quốc gia khác nhau, tùy vào vùng miền trong cùng quốc gia, trên thế giới cũng như đối tượng tham gia nghiên cứu, địa điểm thực hiện, kỹ thuật sinh học phân tử để xác định tình trạng nhiễm HPV, điều kiện trang thiết bị xét nghiệm hiện đại, kỹ thuật viên lành nghề và kỹ thuật lấy mẫu bệnh phẩm.

Khi phân tích tỷ lệ nhiễm HPV theo độ tuổi thì ở độ tuổi <25 (độ tuổi còn có thể tiêm vắc xin phòng HPV) thì tỷ lệ dương tính với HPV trong nghiên cứu này là 8/37 (21,6%). Có kết quả này có thể đây là lứa tuổi quan hệ tình dục nhiều mà lây nhiễm HPV được xem là bệnh lây truyền qua

đường tình dục, rất dễ lây nhiễm, kể cả tiếp xúc da kề da. Do vậy, khuyến nghị xét nghiệm định type HPV trước khi quyết định tiêm phòng cho nữ giới dưới 25 tuổi đã có quan hệ tình dục. Tuổi

<35, tỷ lệ dương tính với HPV là 34/201 (16,9%).

Theo Remi Catabelle (Pháp), có đến 80% bệnh nhân ở nhóm tuổi này, HPV được đào thải tự nhiên nhờ hệ miễn dịch (được gọi là khỏi tự nhiên hay nhiễm trùng tạm thời). Tuổi >35, tỷ lệ dương tính là 76/477 (15,9%). Theo Remi Catabelle (Pháp) nếu tồn tại nhiễm trùng trên 1 năm thì có khoảng 10-20% ca nhiễm, sau 2 – 5 năm có thể tiến triển từ một tổn thương CTC lành tính thành tổn thương trong biểu mô Malpighi mức độ thấp (CIN 1). Sau đó, 3 đến 5 năm tiến triển thành tổn thương trong biểu mô Malpighi mức độ cao (CIN 2-3). Sau đó 4 đến 10- 15 năm thành ung thư(9).

Về tỷ lệ nhiễm HPV đơn type và đa type thì nhiễm 1 type HPV chiếm đa số với 69/118 ca (58,47%). Tham khảo nghiên cứu Lê Trung Thọ có 72,72% nhiễm đơn type HPV(10). Kết quả của Nguyễn Thị Tuyết Vân có tỷ lệ nhiễm đơn type là 69,4%; đa type là 30,6%(11). Tham khảo kết quả nghiên cứu nước ngoài cho thấy tỷ lệ nhiễm đơn type chiếm đa số như Martín P. thực hiện tại Madrid, phụ nữ nhiễm đơn týp là 65,5% trường hợp(12). Vaccine chỉ có thể dự phòng các type HPV thường gặp nên phụ nữ nhiễm đa type cần được quan tâm vì vaccine dự phòng ung thư CTC không thể có tác dụng cho các type HPV không có trong phổ của vaccine.

Về tỷ lệ nhiễm các type HPV thì nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận trong nhóm HPV nguy cơ cao, type HPV 16 dương tính chiếm tỷ lệ cao nhất 23,72% sau đó là HPV 52 chiếm tỷ lệ 13,46%

còn trong nhóm HPV nguy cơ thấp thì HPV type 6 và HPV type 11 cùng chiếm tỷ lệ 5,13%. Kết quả này cũng tương đồng với các nghiên cứu khác như kết quả type HPV trên bệnh nhân bị tiền ung thư, ung thư CTC tại Cần Thơ của Lâm Đức Tâm là type HPV 16, 52, 18(13), kết quả của Võ Văn Kha là type HPV 16, 18, 52, 58(14). Tuy các type HPV được phân lập có phụ thuộc vào vùng

(5)

địa lý, vùng miền và khu vực khác nhau trên cùng một quốc gia (Việt Nam) nhưng nhìn chung các type HPV 16, 18, 52 thường gặp ở cộng đồng Việt Nam.

KẾT LUẬN

Tỷ lệ nhiễm HPV ở các bệnh nhân khám phụ khoa tại Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh là 16,5%. Phụ nữ có độ tuổi dưới 25 tuổi có tỷ lệ nhiễm HPV cao hơn so các nhóm tuổi khác.

Tỷ lệ nhiễm 1 type HPV chiếm 58,47%, đồng nhiễm 2 type chiếm 18,64%, nhiễm ≥3 type trở lên chiếm 11,02%, dương tính nhưng không định được type chiếm 11,86%. Trong nhóm HPV nguy cơ cao, type HPV 16 dương tính chiếm tỷ lệ cao nhất 23,72% sau đó là HPV 52 chiếm tỷ lệ 13,46%.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bray F, Ferlay J, Soerjomataram I, Siegel RL, Torre LA, Jemal A (2018). Global cancer statistics 2018: GLOBOCAN estimates of incidence and mortality worldwide for 36 cancers in 185 countries. A Cancer Journal for Clinicians, 68(6):394-424.

2. Lagheden C, Eklund C, Lamin H, Kleppe SN, Lei J, Elfström KM, Dillner J (2018). Nationwide comprehensive human papillomavirus (HPV) genotyping of invasive cervical cancer.

British Journal of Cancer, 118(10):1377-1381.

3. Harper DM, DeMars LR (2017). HPV vaccines–a review of the first decade. Gynecologic Oncology, 146(1):196-204.

4. Bosch FX, Burchell AN, Schiffman M, Giuliano AR, de Sanjose S, Bruni L, et al (2008). Epideminology and Natural History of Human Papilloma virus Infection and Týp-Specific Implications in Cervical Neoplasia. Vaccine, 26(10):K1- K16.

5. Lục Thị Vân Bích, Cao Minh Nga, Hồ Lê Ân, Huỳnh Ngọc Phương Thảo (2011). Khảo sát tình hình nhiễm HPV và các genotýp HPV (Human Papilloma virus) ở phụ nữ Việt Nam

trong độ tuổi từ 18- 69 bằng kỹ thuật sinh học phân tử. Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 15(2):190-194.

6. Lê Quang Vinh, Phạm Thị Thanh Yên, Nguyễn Khánh Dương, Lê Hoàng Linh, Đào Duy Quân và cộng sự (2015). Nghiên cứu tỷ lệ nhiễm Human Papilloma virus ở cán bộ nữ Bệnh viện Phụ Sản Trung ương. Phụ Sản, 13(2):9-11.

7. Liu SS, Chan KYK, Leunh RCY, Chan KKL, Tam KF, et al (2011).

Prevalence and Risk Factors of Human Papollomavirus (HPV) Infection in Southern Chinese Women- A Population- Base Study. Plos ONE, 6(5):e19244.

8. Johnson DC, Bhatta MP, Smith JS, Kempf MC, Broker TR, et al (2014). Assessment of High Risk Human Papilloma virus Infection Using Clinician and Self- Collected Cervical Sampling Methods in Rural Women from Far Western Nepal. Plos One, 9(6):e101255.

9. Remi Catabelle. Chẩn đoán, điều trị, dự phòng ung thư cổ tử cung. Bài giảng cho bác sỹ sản phụ khoa. 23/05/2016. Đại học y Hải Phòng

10. Lê Trung Thọ, Trần Văn Hợp (2009). Nghiên cứu tỷ lệ nhiễm HPV ở cộng đồng phụ nữ Hà Nội, tìm hiểu một số yếu tố liên quan. Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 13(1):185- 189.

11. Nguyễn Thị Tuyết Vân, Nguyễn Hoàng Quân, Cao Minh Nga (2010). Nhiễm các týp Human Papilloma virus ở phụ nữ sinh đẻ. Y học Thành phố Hồ Chí Minh, chuyên đề Vi sinh, 14(1):504- 508.

12. Martín P, Linah K, Diego G, Ana MLGM, et al (2011). Human Papilloma virus genotýp distribution in Madrid and Correlation with cytological data. BMC Infectious Diseases, 11:316- 321.

13. Lâm Đức Tâm, Nguyễn Vũ Quốc Huy (2013). Nghiên cứu tỷ lệ nhiễm Human Papilloma virus và các yếu tố liên quan tổn thương tiền ung thư cổ tử cung ở phụ nữ từ 18- 60 tuổi. Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 17(1):213- 220.

14. Võ Văn Kha, Huỳnh Quyết Thắng (2011). Tỷ lệ nhiễm HPV trên bệnh nhân ung thư cổ tử cung tại Bệnh viện Ung bướu Cần Thơ. Y học Thành phố Hồ Chí Minh, Chuyên đề Giải phẫu bệnh, 15(2):168-173.

Ngày nhận bài báo: 10/11/2020

Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 06/02/2021 Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021

Referensi

Dokumen terkait

VI NSC KH EC NG NG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI MÔ HÌNH TRẠM Y TẾ HOẠT ĐỘNG THEO NGUYÊN LÝ Y HỌC GIA ĐÌNH TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM 2018 – 2019 Nguyễn Lê Thục

Từ các lý do trên, chúng tôi thực hiện đề tài: “Thực trạng nhiễm kim loại nặng, hóa chất bảo vệ thực vật trong một số sản phẩm phomai tại thành phố Hồ Chí Minh, năm 2020”, với mục

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả có phân tích được thực hiện tại Bệnh viện Phụ Sản Thành phố Cần Thơ năm 2019- 2021 ghi nhận có 103 trường hợp sản phụ mắc

Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát tỷ lệ, đặc điểm lâm sàng của trẻ từ 18-36 tháng có biểu hiện rối loạn phổ tự kỷ bằng thang điểm M-CHAT tại phòng khám Bệnh viện Nhi Đồng Cần Thơ.. Đối