TỈ LỆ THIẾU SẮT Ở TAM CÁ NGUYỆT 1
VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA THAI PHỤ KHÁM
TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bùi Thị Phương Loan1, Vương Thị Ngọc Lan2, Trần Nhật Thăng2
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Thiếu sắt là vấn đề dinh dưỡng phổ biến và là nguyên nhân chính gây thiếu máu. Phụ nữ mang thai là đối tượng nguy cơ cao thiếu sắt do tăng nhu cầu của cơ thể, đưa đến hậu quả là thiếu máu ở người mẹ, tăng kết cục xấu trong thai kì và giảm dự trữ sắt ở trẻ sau sinh.
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ thiếu sắt và các yếu tố liên quan ở tam cá nguyệt 1 của thai phụ khám tại Bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang thực hiện trên 184 thai phụ ở tam cá nguyệt 1, thiếu sắt được chẩn đoán khi nồng độ ferritin < 30ng/ml.
Kết quả nghiên cứu: Tỉ lệ thiếu sắt ở tam cá nguyệt 1 là 15,8%, tỉ lệ dự trữ sắt cạn kiệt là 6,0%. Yếu tố nguy cơ của thiếu sắt là đã từng có thai (PR=2,17; KTC 95% 1,14-4,13), không ăn thịt đỏ (PR=3,1; KTC 95%
1,04-9,28) và chu kì kinh kéo dài (PR=2,54; KTC 95% 1,22-5,26).
Kết luận: Cần quan tâm tầm soát thiếu sắt trong thai kì bên cạnh tầm soát thiếu máu nhằm giảm kết cục thai kỳ xấu cho mẹ và con.
Từ khoá: thiếu sắt, thiếu máu, ferritin huyết thanh, tam cá nguyệt 1
ABSTRACT
THE PREVALENCE OF IRON DEFICIENCY IN THE FIRST TRIMESTER AND ASSOCIATED FACTORS IN PREGNANT WOMEN EXAMINING AT HO CHI MINH CITY UNIVERSITY MEDICAL
CENTER
Bui Thi Phuong Loan, Vuong Thi Ngoc Lan, Tran Nhat Thang
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No. 1 - 2021: 137 - 142 Background: Iron deficiency is the most common nutrient deficiency and the main cause of anemia.
Pregnant women are at high risk of iron deficiency due to the increased use of iron during pregnancy, resulting in maternal anemia during pregnancy, adverse obstetric outcomes and reduced iron storage in the newborn.
Objectives: To determine the prevalence of iron deficiency and its associated factors in the first trimester of pregnant women examining at Ho Chi Minh City University Medical Center.
Methods: A cross – sectional study was conducted on 184 pregnant women. Serum ferritin was performed in the first trimester. Iron deficiency was defined as serum ferritin of <30 ng/ml. All patients were followed to term.
Results: The prevalence of iron deficiency was 15.8%, and iron depletion was 6.0% in the first trimester.
Multiparous women (PR=2.17; 95% CI 1.14 – 4.13), dietary without red meat (PR=3.1; 95% CI 1.04 – 9.28) and prolonged menstrual bleeding (PR=2.54; 95% CI 1.22 – 5.26) were associated with increased iron deficiency.
Conclusions: Screening for iron deficiency as well as anemia during pregnancy should be considered for improving adverse maternal and neonatal outcomes.
1Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 2Bộ môn Phụ Sản, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Keyword: iron deficinency, anemia, serum ferritin, first trimester
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thiếu máu là một trong những vấn đề ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe nhân loại.
Phụ nữ mang thai và trẻ nhỏ là đối tượng nguy cơ cao thiếu máu. Năm 2016, Tổ chức Y Tế Thế giới ước tính khoảng 40% phụ nữ mang thai bị thiếu máu và hơn 50% trường hợp là do thiếu sắt(1).
Theo công bố mới của Viện Dinh Dưỡng Việt Nam tỉ lệ thiếu máu ở phụ nữ mang thai trên toàn quốc năm 2014–2015 là 32,8%, trong đó tỉ lệ thiếu máu do thiếu sắt chiếm tỉ lệ 54,3%(2).
Thiếu sắt trong thai kì sẽ dẫn đến tình trạng thiếu máu, tăng nguy cơ tai biến và tử vong mẹ trong thời kì mang thai và hậu sản, tăng nguy cơ sinh non, thai nhẹ cân,… Khi dự trữ sắt trong cơ thể người mẹ giảm sẽ dẫn đến tình trạng thiếu sắt ở trẻ sau sinh và thậm chí tình trạng này còn kéo dài trong những năm đầu đời của trẻ, ngay cả những trường hợp không thiếu máu(3,4).
Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo bổ sung sắt từ khi có thai và chương trình quốc gia về bổ sung sắt vào thực phẩm và sử dụng viên sắt phòng ngừa, tuy nhiên tỉ lệ thiếu máu thiếu sắt vẫn còn là vấn đề đáng quan tâm. Phát hiện và điều trị cho những thai phụ thiếú sắt sẽ làm giảm tỉ lệ thiếu máu thiếu sắt trong thai kì.
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này để trả lời câu hỏi nghiên cứu: “Tỉ lệ thiếu sắt ở tam cá nguyệt 1 của thai phụ khám tại bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh là bao nhiêu và các yếu tố nào liên quan đến tình trạng này?” Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này để xác định tỉ lệ thiếu sắt và các yếu tố liên quan ở tam cá nguyệt 1 của thai phụ khám tại bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứuThai phụ khám thai ở tam cá nguyệt 1 tại bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, từ tháng 12/2019 đến tháng 5/2019.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Thai phụ ở tuổi thai 11 đến 14 tuần, không có bệnh lý nội khoa nặng phải chấm dứt thai kỳ, đồng ý tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại
Có bệnh lý gan, thận mạn, nhiễm trùng.
Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang.
Cỡ mẫu và cách chọn mẫu
Cỡ mẫu được tính theo công thức tính tỉ lệ trong một quần thể, cỡ mẫu cần thu thập là 184 thai phụ. Chọn mẫu toàn bộ trong thời gian nghiên cứu.
Phương pháp tiến hành
Sàng lọc thai phụ, giải thích về nghiên cứu và cho bệnh nhân ký cam kết đồng thuận tham gia nghiên cứu. Tất cả thai phụ được thực hiện đo lường nồng độ hemoglobin và ferritin cùng với các xét nghiệm thường quy trong thai kì theo quy định của bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
Chúng tôi thu thập những thông tin về tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp, nơi ở, dân tộc, mức thu nhập, cân nặng, chiều cao trước khi mang thai, số lần mang thai, số lần sinh con đủ tháng, số lần sinh con thiếu tháng, tiền sử bệnh lý nội khoa, bệnh lý phụ khoa, đặc điểm chu kì kinh nguyệt, các biện pháp ngừa thai, thói quen ăn uống, sử dụng chế phẩm có chứa sắt trước mang thai.
Tiêu chuẩn chẩn đoán thiếu sắt khi nồng độ ferritin huyết thanh <30 ng/ml, ngưỡng này được sử dụng rộng rãi trong thực hành lâm sàng và được nhiều tổ chức khuyến cáo và sử dụng trong đó có Hiệp hội tiêu chuẩn huyết học của Anh(5).
Phân tích và xử lý số liệu
Số liệu được phân tích bằng phần mềm SPSS 20, Ngưỡng khác biệt có ý nghĩa thống kê khi p <0,05, lượng giá mối liên quan bằng PR
với khoảng tin cậy 95%.
Y đức
Nghiên cứu này được thông qua bởi Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Đại học Y Dược TP. HCM, số 654/ĐHYD-HĐĐĐ, ngày 15/11/2019.
KẾT QUẢ
Đặc điểm đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu được trình bày trong Bảng 1.
Bảng 1: Đặc điểm dân số, xã hội và đặc điểm lâm sàng của đối tượng nghiên cứu (n = 184)
Đặc điểm Tần số (tỉ lệ%)
Nhóm tuổi
< 30 tuổi 108 (58,7) Từ 30 - < 35 tuổi 58 (31,5)
> 35 tuổi 18 (9,8) Trình độ học
vấn
< cấp 3 19 ( 10,3)
Cấp 3 26 (14,1)
> trung cấp 139 (75,6)
Nghề nghiệp
Công nhân viên 115 (62,5)
Kinh doanh 37 (20,1)
Nội trợ 21 (11,4)
Công nhân 11 (6,0)
Nơi ở Thành phố Hồ Chí Minh 124 (67,4) Tỉnh khác 60 (32,6)
Mức thu nhập Đủ ăn 173 (94,0)
Dư ăn 11 (6,0)
Tiền sử sản khoa
Chưa từng mang thai 109 (59,2) Từng sinh con đủ tháng 62 (33,7) Từng sinh con thiếu tháng 7 (3,8)
Từng sẩy thai 6 (3,3) Tiền sử nội
khoa
Có 42 (22,8)
Không 142 (77,2)
Bệnh lý phụ khoa
Có 5 (2,7)
Không 179 (97,3)
Đặc điểm chu kì kinh
Chu kì đều 111 (60,3) Thời gian hành kinh bình thường 174 (94,6) Lượng kinh bình thường 170 (92,4) Biện pháp
ngừa thai trước đó
Dụng cụ tử cung chứa đồng 9 (4,9) Thuốc ngừa thai hàng ngày 31 (16,8)
Bảng 2 trình bày kiến thức và hành vi về thiếu sắt của đối tượng nghiên cứu.
Bảng 2: Đặc điểm kiến thức và hành vi về thiếu sắt (n=184)
Đặc điểm Tần số (tỉ lệ %)
Biết tác hại của thiếu sắt Có 86 ( 46,7) Không 98 ( 55,3) Biết cách phòng ngừa thiếu
sắt
Có 20 (10,9) Không 164 (89,1) Thói quen ăn thịt đỏ Ăn thịt đỏ 181 (98,4) Không 3 (1,6) Sử dụng chế phẩm có chứa
sắt trước khi mang thai
Có 75 (40,8) Không 109 (59,2)
Tỉ lệ thai phụ thiếu sắt
Trong tổng số 184 thai phụ, có 29 thai phụ được chẩn đoán thiếu sắt, chiếm 15,8%, trong đó có 6% thai phụ có dự trữ sắt cạn kiệt. Phân bố nồng độ ferritin được mô tả trong Bảng 3. Trong nhóm thiếu sắt chỉ có 17,2% thai phụ bị thiếu máu. Tỉ lệ thiếu máu là 6,5%, về đặc điểm hồng cầu nhỏ nhược sắc (MCV <80fl, MCH <28 pg), chúng tôi ghi nhận có 14,1% thai phụ.
Bảng 3: Tình trạng dự trữ sắt của thai phụ (n=184)
Đặc điểm Tần số (tỉ lệ %)
Tình trạng thiếu sắt (ferritin <30 ng/ml)
Có 29 (15,8)
Không 155 (84,2)
Tình trạng dự trữ sắt
< 15ng/ml 11 (6) 15 - < 30 ng/ml 18 (9,8) 30 - < 100 ng/ml 81 (44,0) 100 -< 200 ng/ml 59 (32,1)
≥ 200 ng/ml 15 (8,1)
Các yếu tố liên quan với thiếu sắt
Chúng tôi tìm thấy các yếu tố như: nghề nghiệp, đã từng mang thai, từng sinh con đủ tháng, thời gian hành kinh kéo dài, các biện pháp ngừa thai, thói quen ăn thịt đỏ, sử dụng chế phẩm có chứa sắt trước mang thai có liên quan với thiếu sắt cụ thể được nêu trong Bảng 4.
Bảng 4: Các yếu tố liên quan với thiếu sắt (n=184)
Yếu tố nguy cơ Có thiếu sắt Không thiếu sắt PR - p
Nghề nghiệp Nghề khác 16 (23,2) 53 (76,8) 2,05
0,032a
Công nhân viên 13 (11,3) 102 ( 88,7)
Đã từng có thai Có 19 (25,3) 56 (74,7) 2,76
0,008a
Không 10 (9,2) 99 (90,8)
Thời gian hành kinh Kéo dài 6 (60,0) 4 (40,0) 4,54
Yếu tố nguy cơ Có thiếu sắt Không thiếu sắt PR - p
Bình thường 23 (13,2) 151 (86,8) 0,001b
Các biện pháp ngừa thai
DCTC chứa đồng 4 (44,4) 5 (55,6)
0,22 0,34 0,039a
Ocs 3 (9,7) 28 (90,3)
Biện pháp khác 22 (15,3) 122 (84,7)
Thói quen ăn thịt đỏ Có 26 (25,7) 75 (74,3) 7,12
0,001a
Không 3 (3,6) 80 (96,4)
Sử dụng chế phẩm có chứa sắt Không 28 (25,7) 81 (74,3) 19,27
0,001b
Có 1 (1,3) 74 (98,7)
aKiểm định chi bình phương bKiểm định chính xác Fisher Sau khi phân tích hồi quy đa biến Poisson các yếu tố liên quan, sử dụng phương pháp phân tích stepwise chúng tôi ghi nhận có 3 yếu tố liên quan thực sự ảnh hưởng đến tình trạng thiếu sắt là đã từng mang thai với PR=2,17 (KTC 95% 1,14 - 4,13) và p=0,019, không ăn thịt đỏ với PR=3,1 (KTC 95% 1,04 - 9,28) và p=0,043 và có thời gian hành kinh kéo dài với PR=2,54 (KTC 95% 1,22-5,26) và p=0,013.
BÀN LUẬN
Bổ sung sắt được Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo cho thai phụ ở các nước đang phát triển. Ở Việt Nam, chương trình phòng chống thiếu máu quốc gia cũng đã thực hiện bổ sung sắt thường quy và ngày càng nhiều thai phụ nhận thức về tình trạng thiếu máu và bổ sung sắt hoặc các chế phẩm chứa sắt trước và trong thai kì. Điều này có thể dẫn đến kết quả của những nghiên cứu gần đây cho thấy tỉ tệ thiếu máu thiếu sắt có xu hướng giảm như tác giả Phạm Thanh Hải năm 2016 tại bệnh viện Từ Dũ khảo sát trên 900 thai phụ từ 6–20 tuần là 7,7%(6), so với tác giả Võ Thị Thu Nguyệt năm 2007 thực hiện trên 302 thai phụ tại bệnh viện Đại học Y Dược TP. HCM ở tam cá nguyệt 2 là 17,21%(7).
Tỉ lệ thiếu sắt của chúng tôi thấp hơn so với nghiên cứu của tác giả Phan Bích Nga năm 2012 khảo sát trên 793 thai phụ, tỉ lệ thiếu sắt ở thai phụ 26–28 tuần tại bệnh viện Phụ Sản Trung Ương là 37,5%(8), tác giả Loy SL năm 2019 ở Singapore là 74,8% ở thời điểm 26–28 tuần(9). Khi so sánh với tác giả de Costa AG năm 2016 ở Bồ Đào Nha tỉ lệ thiếu sắt ở đầu thai kì với thai <20 tuần tuổi là 38%(10), kết quả của chúng tôi cũng thấp hơn. Điều này khác biệt so với các nghiên
cứu khác có thể do đối tượng nghiên cứu của chúng tôi được lấy máu ở thời điểm thai 11-14 tuần, ở thời điểm này, nhiều nghiên cứu cho thấy dự trữ sắt cao nhất do thai phụ vừa trải qua tình trạng vô kinh, sự thay đổi nồng độ hemoglobin sinh lý ở giai đoạn này chưa đáng kể và và có đến 40,8% đối tượng nghiên cứu bổ sung các chế phẩm có chứa sắt trước khi mang thai. Và tỉ lệ thiếu sắt ở tam cá nguyệt 2 và tam cá nguyệt 3 thường cao hơn do nhu cầu sắt lúc này cao hơn tam cá nguyệt 1. Trong 29 thai phụ thiếu sắt, chỉ có 5 thai phụ bị thiếu máu, chiếm 17,2% và có đến hơn 80% (chiếm 82,8%) các thai phụ không thiếu máu, do đó, nếu chỉ tầm soát đơn thuần bằng nồng độ hemoglobin thì có thể bỏ sót nhóm thai phụ thiếu sắt mà không thiếu máu. Các thai phụ thiếu sắt mà không thiếu máu cũng dẫn đến những kết cục xấu cho mẹ và thai.
Nếu chọn ở hướng tiếp cận hồng cầu nhỏ nhược sắc (MCV <80 fl, MCH <28 pg), chúng tôi ghi nhận tỉ lệ hồng cầu nhỏ nhược sắc chiếm 14,1%, tỉ lệ này cũng tương đồng với tác giả Đặng Thị Hồng Thiện là 13,9%(11). Việc sàng lọc người mang gen Thalassemia hiện nay chủ yếu theo hướng tiếp cận chỉ số MCV, MCH. Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ thiếu sắt trong nhóm hồng cầu nhỏ nhược sắc là 42,3%.
Điều này có ý nghĩa rằng nếu tiếp cận ở hướng này, chúng ta có thể không loại trừ hoàn toàn tình trạng thiếu sắt và bệnh Thalassemia, vì có đến hơn 40% nhóm thai phụ hồng cầu nhỏ nhược sắc có tình trạng thiếu sắt. Chúng tôi cũng nhận thấy, nếu thai phụ có hồng cầu nhỏ nhược sắc thì khả năng thiếu sắt là 12,15 với PR 12,15 (KTC 95% 3,94–37,48). Do đó chúng tôi suy nghĩ
rằng có thể nên tiếp cận ở cả hai hướng tổng phân tích tế bào máu và nồng độ ferritin huyết thanh trong chiến dịch tầm soát thiếu máu thiếu sắt và sàng lọc bệnh Thalassemia.
Chế độ ăn hàng ngày, chu kì kinh nguyệt, dụng cụ tử cung không chứa hormone, cân nặng, tình trạng hút thuốc, cường độ hiến máu, tiền sử sản khoa được xem là các yếu tố liên quan với thiếu sắt(4).
Chúng tôi nhận thấy từng mang thai thì có tỉ lệ thiếu sắt cao so với chưa mang thai với PR=2,17 (KTC 95% 1,14-4,13) và p=0,019. Điều này cũng tương đồng với tác giả Phạm Thanh Hải 2016, tỉ lệ thiếu máu thiếu sắt của con rạ nhiều hơn con so(6). Nguy cơ thiếu máu ở thai phụ sẽ tăng theo số lần mang thai, điều này được giải thích là do càng sinh đẻ nhiều sẽ càng tăng nguy cơ chảy máu, mỗi lần mang thai đều mất máu trước, trong và sau sinh.
Sinh con càng nhiều thì nguy cơ mất máu càng tăng, một số báo cáo cho thấy rằng các yếu tố trung gian như tăng dẫn lưu tĩnh mạch đến phần dưới tử cung, hyalin hoá các mạch máu và giảm sự đàn hồi của thành tử cung được xem như cơ chế gây tăng lượng máu mất ở thai phụ mang thai nhiều lần.
Chúng tôi tìm thấy có khác biệt ở nhóm đối tượng có thời gian hành kinh kéo dài với PR=2,54 (KTC 95% 1,22-5,26) và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p=0,013. Điều này cũng được giải thích do hành kinh kéo dài sẽ làm mất lượng máu trong cơ thể lâu dần nên dễ gây nên tình trạng thiếu sắt bởi vì phần lớn chuyển hóa sắt được thực hiện trong hệ thống khép kín giữa các khu vực với nhau. Ở người trưởng thành, 95% nhu cầu sắt để tạo hồng cầu được tái sử dụng từ quá trình phân hủy hồng cầu già và chỉ có 5% lượng sắt cần phải bổ sung qua thức ăn, vì vậy cơ thể chỉ cần thêm 1mg sắt trong một ngày cũng đủ để tạo hồng cầu bình thường. Tuy nhiên, khi cơ thể mất đi số lượng máu nhiều hơn sẽ phải bổ sung lượng sắt qua chế độ ăn cao hơn mới có thể bù lại số lượng sắt mất qua kinh nguyệt.
Chế độ ăn đóng vai trò quan trọng trong những trường hợp thiếu máu, những người ăn chay có dự trữ sắt thấp hơn, nhưng không khác biệt về nồng độ hemoglobin so với người có ăn thịt(12), điều này cũng phù hợp với nghiên cứu của chúng tôi không ăn thịt đỏ là yếu tố nguy cơ của thiếu sắt với PR=2,17 (KTC 95% 1,14-4,13) và p=0,019.
Điểm mạnh của nghiên cứu là có thực hiện bổ sung sắt và có sự theo dõi thai phụ đến cuối thai kỳ để đánh giá tỷ lệ thiếu máu là hậu quả quan trọng của thiếu sắt. Hạn chế của đề tài là không thực hiện xét nghiệm lại ferritin huyết thanh ở cuối thai kỳ để đánh giá hiệu quả trực tiếp của bổ sung sắt.
Hạn chế của đề tài
Thời gian nghiên cứu ngắn và số lượng mẫu chưa đủ lớn, cách chọn mẫu thuận tiện nên có thể mẫu không đại diện cho toàn bộ thai phụ đến khám tại bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh. Mặt khác, đối tượng chọn lựa nghiên cứu tại bệnh viện Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh đa phần có điều kiện kinh tế khá hơn trong cộng đồng chung, do đó kết quả có thể không đại diện được cho toàn thể cộng đồng.
Tính ứng dụng của đề tài là cần tăng cường tư vấn cho những đối tượng nguy cơ thiếu sắt như đã từng mang thai, không ăn thịt đỏ và hành kinh kéo dài trước khi mang thai nhằm giảm tỉ lệ thiếu sắt trong thai kì, từ đó sẽ làm giảm nguy cơ thiếu máu thiếu sắt cho thai phụ.
KẾT LUẬN
Qua khảo sát trên 184 thai phụ ở tam cá nguyệt 1 chúng tôi ghi nhận có 15,8% thai phụ thiếu sắt và có 6,0% thai phụ có dự trữ sắt cạn kiệt. Trong số các thai phụ thiếu sắt chỉ có 17,2%
thai phụ bị thiếu máu. Các yếu tố liên quan đến thiếu sắt trong tam cá nguyệt 1 là từng có thai, không ăn thịt đỏ và thời gian hành kinh kéo dài.
Đề xuất thực hiện xét nghiệm ferritin trong tam cá nguyệt 1 đồng thời với xét nghiệm hemoglobin nhằm phát hiện thai phụ thiếu sắt,
thiếu máu thiếu sắt để bổ sung sắt kịp thời.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. World Health Organization (2016). Global health observational data repository: prevalence of anaemia in women, estimates by country.
2. Viện dinh dưỡng (2015). Tình trạng thiếu máu và thiếu sắt ở trẻ em và phụ nữ năm 2014 - 2015. Báo cáo điều tra về Vi chất dinh dưỡng năm 2014 – 2015.
3. Haider BA, Olofin I, Wang M, Spiegelman D, Ezzati M, Fawzi WW, Nutrition Impact Model Study Group (aneamia) (2013). Anaemia, prenatal iron use, and risk of adverse pregnancy outcomes: systematic review and meta-analysis.
BMJ, 346:f3443.
4. Rukuni R, Knight M, Murphy MF, Roberts D, Stanworth SJ (2015). Screening for iron deficiency and iron deficiency anaemia in pregnancy: a structured review and gap analysis against UK national screening criteria. BMC Pregnancy and Childbirth, 15:269.
5. Daru J, Allotey J, Pena-Rosas JP, Khan KS (2017). Serum Ferritin Thresholds for the Diagnosis of Iron Deficiency in Pregnancy: A Systematic Review. Transfusion Medicine, 27(3):167–174.
6. Phạm Thanh Hải (2016). Yếu tố liên quan đến tình trạng thiếu máu do thiếu sắt ở phụ nữ mang thai đến khám tại Bệnh viện Từ Dũ. Phụ Sản, 14(2):45-49.
7. Võ Thị Thu Nguyệt (2007). Khảo sát tình trạng thiếu máu thiếu sắt trong 3 tháng giữa thai kỳ và các yếu tố liên quan tại Bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh. Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 12(1):162-170.
8. Phan Bích Nga (2012). Thiếu vi chất dinh dưỡng ở mẹ và con và hiệu quả bổ sung đa vi chất trên trẻ suy dinh dưỡng bào thai tại Bệnh viện Phụ sản Trung Ương. Luận án Tiến sĩ Dinh dưỡng, Viện Dinh Dưỡng.
9. Loy SL, Lim LM, Chan SY, Tan PT, Chee YL, Quah PL, Chan JKY (2019). Iron Status and Risk Factors of Iron Deficiency among Pregnant Women in Singapore: A Cross-Sectional Study. BMC Public Health, 19(1):397.
10. Gomes da Costa A, Vargas S, Clode NM, Graça L (2016).
Prevalence and Risk Factors for Iron Deficiency Anemia and Iron Depletion During Pregnancy: A Prospective Study. Acta Medica Portuguesa, 29(9):514-518.
11. Đặng Thị Hồng Thiện (2019). Nghiên cứu sàng lọc bệnh Thalassemia ở phụ nữ có thai đến khám và điều trị tại bệnh viện Phụ sản Trung Ương. Luận án Tiến sĩ Y học, Trường Đại học Y Hà Nội.
12. SACN (2010). Iron and Health. In: London. The Scientific Advisory Committee on Nutrition.
Ngày nhận bài báo: 10/11/2020
Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 06/02/2021 Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021