Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 3 (2022) 305-321
Ngoại giao số của Việt Nam trong đại dịch COVID-19:
Thách thức và CO’ hội
Nguyễn Thành Trung * , Nguyễn Như Quỳnh **
Tóm tắt: Từ cuối năm 1986 khi bước vào thời kỳ đổi mới, ngoại giao Việt Nam đã từng bước đạt được thành công bởi những chiến lược sáng tạo trong các mối quan hệ song phương lẫn đa phương. Đặc biệt, trong năm 2020, Việt Nam đã ghi đậm dấu ấn trên trường quốc tế khi đám nhiệm thành công vai ưò Chù tịch ASEAN trong khi dịch bệnh COVID- 19 gây ảnh hương đến mọi mặt của đời sống. Việt Nam đã chứng minh được khả năng xoay xở linh hoạt trong việc áp dụng thành công ngoại giao số vào thực tế. Bài viết tìm hiêu ngoại giao so của Việt Nam đã làm được gì từ năm 2020 đến tháng 9/2021, đạt được kết qua ra sao và có những hạn chế nào. Từ đó đưa ra những kiến nghị cho chinh sách ngoại giao số cùa Việt Nam trong thời gian tới.
Từ khóa: ngoại giao số; số hóa; chuyển đổi số; Việt Nam.
Ngày nhận Ỉ0/8/2021: ngày chinh sừa 16/10/2021: ngày chấp nhận đăng 22/6/2022 DOI: https://doi.Org/10.33100/tckhxhnv8.3.NguyenThanhTrung-NguyenNhuQuynh 1. Giới thiệu
Sau 35 năm đồi mới, chính sách và hoạt động ngoạigiaođã đóng góp đáng kể trong nỗ lực chung thúc đẩy phát triền kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đưaViệtNam hội nhập sâu rộng trêntrườngquốc tế. Trong đó, chính sách và hoạt động đối ngoại Việt Nam được triểnkhai theo: trục chủ thể (đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại quốc hội, đối ngoạinhândân), nhóm đối tác (láng giềng, khu vực, nước lớn, bạn bè truyền thống, đối ngoại đa phương), khuôn khổ (đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, đối tác chiến lược theo lĩnh vực), trụ cột nội dung (ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa) (Vũ Lê Thái Hoàng
" Đạihọc Fulbright Việt Nam;
email:[email protected]
“ Trường Đại học Khoahọc Xà hộivà Nhân văn,ĐHQG Thành phố HồChí Minh
2020: 7). Đổ nâng cao vị thế hơn nữa cho Việt Nam, các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách đã nhìn thấy hướng phát triển chongoại giao chuyên biệt vớiviệc tập trung có chọn lọc, đâymạnh trọng tâm trong một số lĩnhvực phù hợp với thế mạnh quốc gia, theo kịp xu thế quốc tế. Trong đó, ngoại giao số là một trong những hướng đi được đề cập đến.
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống. Đặc biệt, trong lĩnh vực công nghệ thông tin, việc kết nối, gửi và nhận thông tin ngày càng dễ dàng, xóa bo nhiềurào cảnvề không gian lẫn thời gian. Các cơ quan, tồ chức, doanh nghiệp tận dụng các công cụ, phương thức truyền thông mới hỗ trợcho hoạt động là điều phù họp với xu hướng. Trong hoạt động ngoại giao, việc tận dụng công nghệ trongthực tế đã dần tạo nên một khái niệm mới, đó là ngoại giao số. Cụm từ này ngày càngđược 305
Nguyền Thành Trung, Nguyễn Như Quỳnh / Tạp chi Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 3 (2022) 305-321 306
nhắc nhiều trên các diễn đàn khoa học, bài báo nghiên cứuvói các góc nhìn, phân tích phong phú.
Trong năm 2020, Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung phải đối diện với đại dịch COVID-19, gây ânh hưởng nghiêm trọng đếnmọi mật đời sống.Năm 2020 cũng đánh dấu năm Việt Nam đảm nhiệm vai trò Chủ tịch tổ chức ASEAN. Đứng trước nguy cơ phải hủy, hoãn hàng loạt cuộc họp,hội nghị quantrọng, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã thể hiệnthành công vượt ngoài mong đợi khi áp dụng và đồng lòng cùng các quốc gia khác trong ASEAN tiến hành triển khai ngoại giao số đúng lúc. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã có những bước chủ động sử dụng ngoại giao số trêncác diễn đàn hợp tácsong phương, đaphương, góp phần quan trọngđể năm 2020 lànămthànhcông của ngoại giao Việt Nam. Ngoại giao số tiếp tục được Việt Nam áp dụng trong năm 2021, đánh dấu nỗ lựccùa ngành ngoại giao trong bối cảnh tập trung chuyển đổisố trên phạm vi thế giới và khu vực. Bài nghiên cứu lập luận rằng đây không phải là thành công mang tính ngầu nhiên mà phía sau đó là một chiến lược mang tính thể chế lâu dài cho quá trình chuyển đổi số. Cụ thể, chúng tôi tìm hiểu những lực cản đối với quá trình chuyển đổi số và cách Việt Nam vượt qua trở ngại để thực hiện thành công ngoại giao sốtrong bối cảnh đại dịch COVID-19 (Abbasov 2007:
3).
2. Tiếp cận ngoại giao sổ
Việc đưara mộtđịnhnghĩa thống nhất về ngoại giao sốlàđiều khôngđơn giản bởicác nhà nghiên cứu hiện đang tiếpcận khái niệm này với nhiều cách hiểu khác nhau. Cựu Ngoạitrưởng Mỹ John Kerry (Bjola và cộng sự 2015: 30) từng nhận định rằng, định
nghĩa về ngoại giao sổ là dư thừa vì ngoại giao sốcũng chi là ngoại giao mà thôi. Tuy nhiên, trong hơn một thập niên qua, nhiêu nghiên cứu đã đượcthực hiện với mục tiêu đưa ra một định nghĩa rõràngnhất, đáp ứng nhiều góc độ tiếp cận nhất của ngoại giao số. Hầu hết các định nghĩa cho thấy có hai hướng tiếp cận. Thứ nhất, ngoại giao số được hiểu là sử dụng các nền tảng công nghệ như truyền thông đaphương tiện, công cụ truyền thông mới. Thứ hai là cần có một chính sách ngoại giao số chuyên biệt với mục tiêu, cách thức triến khai cụ thế đặt trong tổng thể chính sách đối ngoại.
Hướng tiếp cận thứ nhất cho thấy ngoại giao số chi dừng lại ở việc ứng dụng các phương tiện, công nghệ thông tin truyền thông vào hoạt động đối ngoại. Ngoại giao số (ngoại giao kỹ thuật số) được nhắc đen thông qua nhiều thuật ngừ. Trong đó, được nhắc đến nhiều là ngoại giao điện tử (e- diplomacy), ngoại giao mạng (cyber diplomacy) hay ngoại giao kỹ thuật sổ/ngoại giao số (digital diplomacy), ngoại giao trực tuyến (online diplomacy), ngoại giao ảo (virtual diplomacy). Những từ này đều chi ngoại giao số là việc dùng các thiết bị, phương tiện, công nghệ dựa trên nền tảng Internet triển khai cáchoạt động ngoại giao, công tác đối ngoại. Với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin, các nhà khoa học cũng như các như các nhà ngoại giao đều cho rằng ngoại giao số đang thay đoi cách tiếp cận ngoại giao. Hoạt động ngoại giao số được định nghĩa là sử dụng các công cụ công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) để đạt các mục đích ngoạigiao (Abbasov 2007). Tác giả chỉ ra lợi ích của sử dụng ngoại giao số làgây ảnhhưởng đến số đông công chúng, tiết kiệm nhiều chi phí và xóa mờ khoảng cách biên giới. Ngoại giao số được cho là ngoại giao điện tử (e- diplomacy) (Hanson 2010: 3). Hanson cho
307 Nguyễn Thành Trung, Nguyễn Như Quỳnh/Tạp chi Khoa học Xã hội và Nhản vởn, Tập 8, số 3 (2022) 305-321
rằngngoại giao số làviệc sử dụngtrang web cũng như ICT để thực hiện các mục tiêu ngoại giao. Hanson đã đưa ra những ý mới, chắt lọc trong quá trình nghiên cứu các cột mốc hoạt độngngoại giao của Mỹ, trong đó có ngoại giao chuyển đổi (transformational diplomacy) thời Ngoại trưởng Mỹ Condoleezza Rice vàChính sách thế kỷ XXI của Ngoại trưởng Hillary Clinton (Hanson 2012). Từ đó, Fergus Hanson đưa ra những hoạt động mà ngoại giao số bao trùm 8 khía cạnh: quản lý nhận thức; ngoại giao công chúng; quản lý thông tin; truyền thông lãnh sựvà phản hồi; phản hồi với thảm họa;tựdo Internet; các nguồn bên ngoài; hoạch định chính sách.
Ngoại giao số là cách thực hiện ngoại giao thông qua công nghệ được kết nối (Potter 2002). Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy ngoại giao số (Bjola 2015; Manor 2016). Những tác giả này đồng ý rằng ngoại giao so là cách quốc gia sửdụng cácthiếtbị công nghệ thông tin nhằmthực hiệnnhiệm vụngoại giao hướng đến đạt mục tiêu chính sách ngoại giao và quản lý hình ảnh quốc gia trong điều kiện quá trình truyền tin, nhận tin diễn ra thông suốt. Một số nghiên cứu kháccũng đã nhấn mạnh việc thực hiện ngoại giaosốthông qua phương tiệntruyền thông mới như mạng xã hội. Hiệu quả của mạng xã hội lên ngoại giao công chúng, những thông tin mà các nhà ngoại giao đăng tải lên mạng xã hội cũng đã được nghiên cứu (Bjola 2015). Vai trò của mạng xã hội đối với ngoại giao số thể hiện ở chỗ quốc gia sử dụng mạng xã hội để đạt mục tiêu chính sách ngoại giao và quản lý hình ảnh quốc gia (Manor và cộng sự2015).
Hầu hết các tác già khi nghiên cứu về ngoại giao số đều khang định ngoại giao số không thay thế được ngoại giao truyền thống. Những cuộc đàm phán trực tiếp vẫn
là đặc quyền của các nhà ngoại giao. Việc nambắtthay đổi trongbối cảnh này sẽ giúp ích cho các nhà ngoại giao rất nhiều (Westcott2008).
Hướng tiếp cận thứ hai tiếp cận ngoại giao số ở góc độ hướng đến chính sách ngoại giao số chuyên biệt,cho thấy cầnmột lộtrìnhxuyên suốt, ngoại giao số không đơn thuần chỉ là công cụ. Các nghiên cứu gần đây nhìn nhận ngoại giao là phương thức quản trịsự thayđổi trong hệ thống quốc tế.
Sự thayđổi được đề cập ở đây có thể phân theo hai dạng cơ bản. Thứ nhất là cú sốc ngoại sinh từ trên xuống. Thứ hai là sự chuyển dịch gia tăng nội sinh từ dưới lên.
Trong đó, ngoại giaosố giúp quảnlýsựthay đổi từ hai dạng trên. Từ đó, có thể định nghĩa ngoại giao số là một chiến lược quản trịthay đổi thông qua các công cụ số và sự họp tác trong không gian ảo, nền tàng số, là khái niệm và cách thựchành không thể thiếu được trong hệ thống quốc te với các moi quan hệ gắn bó ngày càng chặt chẽ (Bjola 2015). Một góc tiếp cận khác đối với ngoại giao số cũng khá phổ biến,đó chính là gắn liền ngoại giao số với ngoại giao công chúng. Ihan Manor là một trong những nhà nghiên cứuhàng đầu về ngoại giao số. Năm 2016, Manorđã thực hiện nhiều nghiên cứu với một số cơ quan ngoại giao về cách họ tiến hành ngoạigiao số. Tác giả nhận ra các cơ quan trên dùng ngoại giao số để gây ảnh hưởng hơn là đoi thoại với công chúng nước ngoài. Cụm từsốhóa ngoại giao công chúng (digitalization of public diplomacy) được dùng thay thế cho những khái niệm như ngoại giao điện tử (e-diplomacy), ngoại giao mạng(cyber diplomacy),ngoại giao Twitter (Twiplomacy) vì muốn tránh sự mơ hồ khi phải phân biệt quá nhiều khái niệm (Manor 2019).
Ngoại giao số có nhiều ưu điểm nhưng cũng có những rui ro mà việc áp dụng cần phảiđược tiến hành thậntrọng.Mặt tích cực
Nguyễn Thành Trung, Nguyễn Như Quỳnh/Tạp chi Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 3 (2022) 305-321 308
ngoại giaosố mang đến làthúc đẩy tínhđối thoại và minh bạch trong quá trình truyền phát thông tin. Mặt tiêu cực đáng lo ngại nhất chính là vấn đề an ninh mạng và hiệu quả sử dụng ngoạigiao sốcủa các quốc gia (Verrekia 2017). Ngoại giao số vớivai trò là công cụbổsung,cho phépcác quốcgia hiện diện hiệu quả hon trên môi trường số. Do đó, để có vị trínổi bật trong lĩnhvực ngoại giao số, các quốc gia cần đầu tư nhiều hơn nữa. Cụ thể là cần đầu tư nhiều hơn cho chuyển đổi số và huấn luyện kỹ năng cho các nhà ngoại giao,cần nắm bắt ưuđiểmvà nhược điểm ngoại giao số và có những chính sách tận dụng hình thức ngoại giao mới này (Westcott 2008). Từ đó, tác giả đề xuất các nhà ngoại giao cần phải am hiếu, thuần thục khi sử dụng Internet. Trong môi trường số, cácnhà ngoại giao cần biết cách thu thập thông tin đáng tincậy để có cơ sở đưa ra các quyết sách, đồng thời tận dụng môi trườngtrên gây ảnhhưởng tối đa. Ngoại giao số có liên quan đến việc hoạch địch chính sách đối ngoại ở bốn khía cạnh: ý tưởng, thông tin, mạng lưới và liên hệ Bộ Ngoại giao và nhà ngoại giao (Westcott 2008). DiploFoundation, một tổ chức tập trung nghiên cứu về mối quan hệ giữa công nghệ số và ngoại giao số cũng cóquanđiểm tươngđồngkhi định nghĩa vềngoại giao số.
DiploFoundation đã đề cập đến các chủ đề nghiên cứu của ngoại giao số gồm: dữ liệu số, thươngmạiđiệntử, an ninh mạng, trí tuệ nhântạo, tươnglai của các hộinghị, V.V.. Vi thế, các quốc gia cần có một chính sách ngoại giao số cụ thể nếu muốn tận dụng, triểnkhaihiệuquả.
Ở góc độ Việt Nam, Bộ Chính trị vào tháng 9/2019 đã ban hành Nghịquyết 52 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến năm 2030, tầm nhìn 2045. Nghị quyết này đã đặtra những nhiệm vụmớiđòi hỏi ngoại giao Việt Nam phải cónhững điều
chỉnh, thích ứng, đồng hành cùng các bộ ngành và cả hệ thống chínhtrị trong nỗ lực chú động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Chính sáchhội nhập quốc tế của Việt Nam đượcnhắc đến: “Mở rộng và làm sâu sắc hơn hợp tác về khoa học, công nghệ với các đối tác, đặc biệt là các nước đối tácchiếnlược cótrình độ khoa học công nghệ tiên tiến, đang đi đầu trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Chủ động tham gia mạng lưới đồi mới sáng tạo toàn cầu” (Nghị quyết 52-NQ/TW). Nhận thứcnày cho thấy các nhà hoạch định chính sách đã xác định được vaitrò quan trọng của ngoại giao số trong nỗ lực thúc đẩy Việt Nam pháttriển, hội nhập quốc tế trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Nhóm tác giả bài viết cho rằng hướng tiếpcận thứ nhất như đã nêu ởtrên góp phần quan trọng trong tổng thể hướng tiếp cậnthứ hai, từ đó tạo nên mộtchiến lượcngoại giao số mang tính tổng thế và bài bản. Theo nhóm tác giả, ngoại giao số không chỉ giới hạn ởviệc sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong hoạt động đối ngoại mà cần một chiến lược, chính sách khai thác, phát triển công nghệ số trong nồ lực hội nhập quốc tế trong tổng thểchung của chính sáchngoại giao. Trongphạm vi bài viết này, từ tinhhình thực tế củaViệt Nam trong giai đoạn dịch COVID-19, nhóm tác giả nghiên cứu hoạt động ngoại giao số của Việt Nam chú trọng đến những hoạt động ngoại giao số Việt Nam đãtriểnkhai khi đảm nhận vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2020. Bên cạnh đó là những kế hoạch Việt Nam hướng đến để hội nhập quốc tế sâu rộng trong lĩnhvực công nghệ số. Từ đó đưa ra nhận định về cách triển khai, hiệu quả cũng như hạn chế của ngoại giao số Việt Nam.
3. Triển khai và đẩy mạnh ngoại giao số Trong tình trạng khẩn cấp đối phó dịch bệnh, phương tiện truyềnthông mới đã giúp
309 Nguyễn Thành Trung, Nguyễn Như Quỳnh / Tạp chi Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 3 (2022) 305-32]
phát huy vai trò của ngoại giao số mà giữa thời điểmkhó khăn,ngoại giao truyền thống khó thực hiệnđược. Bộ ngoại giao các quốc gia đã thực hành ngoại giao số thông qua 3 nhiệmvụ chính: hỗ trợlãnh sự đốivới công dân ở nước ngoài, mua hoặc nhận được những thiết bị y tế từ các quốc gia khác, củng cố hợp tác quốc tế trong phòng chống dịch bệnh (Bjola và cộng sự 2020). Từ đó, nhóm tác giả khuyến nghị các nhà ngoại giao cần tích hợp công nghệ số từ bài học đối phó dịch COVID-19nhằm giúp ứng phó với những cuộc khủng hoảng trong tương lai. Ngoại giao số giúp củng cố hình ảnh quốc gia. Trong dịch bệnh, Trung Quốc đã tận dụng ngoại giao sốnhằm gây ảnhhưởng đến công chúng thế giới để tạo lợi thế của nước này trước những chỉ trích liên quan đến dịch bệnh. Ngoại giao số khi này được tiếp cận ở gócđộ ngoại giao công chúng,lấy trường hợp Trung Quốc sử dụng Twitter đế thực hiện ngoại giao số (Aden và cộng sự 2021: lj.
Với góc tiếp cận tương tự, dịch bệnh COVID-19 được nhận định là cú hích lớn thúc đẩy bộ ngoại giao các nước phảicó một chiến lược phát triển cụ thể đối với ngoại giao số (Purwasito và cộng sự 2020). Chỉ có sự đầu tưbàibản như thếmới giúpbộ ngoại giao thích ứng trong điều kiện mới, nắm giữ vị trí chủ chốt cho các hoạt động cơ bản: xây dựng và củng cố hình ảnh quốc gia, đàm phán,đưara tiếng nói đại diện cho quốcgia, công bố các thông tin trung thực và chính thống về quốc gia. Ngoài ra,việc tranh luận để tìmra sựthật làđiều quan trọng củng cố hình ảnh các quốcgia. về mặt này,bộngoại giao các nước cần đầu tư vào truyền thông đa phương tiện, tạo điều kiện cho công chúng tiếp cận, bảo vệ sự thật mà quốc gia ấy muốn truyền thông ra thế giới. Trong phạm vi bài nghiên cứu này, nhóm tác giả tìm hiểu cách triển khai ngoại giao số của Việt Nam trong đại dịch COVID-19, đặc
biệt gắn liền với sự kiện Việt Nam giữ vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2020.
Theo Hình 1, việc triển khai ngoại giao số của Việt Nam trong năm 2020 và nửa đầu năm 2021 được phân thành 3 vai trò:
i. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao tiếp, tương tác giữa người truyền tin với ngườitiếp nhận thông tin. Ởthời điểm dịch bệnhbùng phát đầu năm 2020, Việt Namvà các quốc gia trong khu vực bắt đầu có những biện pháp tăng cường cách ly, việc tiến hành các cuộc họp, hội nghị theo chương trình nghị sựASEANcũng chịu ảnh hưởng. Ngay trong ngày 4/2/2020, thời điểm các quốc gia ASEAN đều ghinhận nhữngca nhiễm đầu tiên, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc điện đàm với Tổng thống Indonesia Joko Widodo. Nội dung cuộc điện đàm là trao đối về họp tác giữa các nước ASEAN nhằm đối phó với dịch bệnh viêm đườnghô hấp cấp do chủng mới của virus Corona(2019-nCoV)gâyra.
Tiếp sau đó,những hoạt động ngoại giao số từng bước chứng minh Việt Nam đã chủ động được tronghoàn cảnh phải kết nối với các quốc gia trong điều kiện đầy cản trở.
Ngày 31/3/2020, Việt Nam đã tổ chức hội nghị trựctuyến đầu tiên củaNhóm làmviệc Hội đồng điều phối ASEAN về tình trạng khẩn cấp y tế. Việt Nam đã lựa chọn hoạt động ngoại giao số không quá phức tạp mà các quốc gia trong khối đềucó thểthực hiện.
Từ đó dần đưa ngoại giao số vào nhiệm vụ dẫn dắt trong vai trò Chủ tịch ASEAN.
Ngày 14/4, sự kiện đặc biệt của khối là Hội nghị Cấp cao đặc biệt ASEAN và Hội nghị Cấp cao đặc biệt ASEAN+3về ứng phó dịch bệnh COVID-19 đã diễn ravới sự chủ trì từ Việt Nam. Hội nghị quan trọng của khối đã đạt thành công khi thống nhấtthànhlập Quỳ ASEAN ứng phó COVID-19. Tại đây, ASEAN quyết tâm đặt vấn đề chống dịch là mục tiêu chung, đảm bảo lợi ích quốc gia của tất cả các bên thay vi đặt lợiích củamột
Nguyễn Thành Trung, Nguyễn Như Qụỳnh/Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập8, SỐ3 (2022) 305-321 310
hoặc một vài quốc gia. Khi đối phó với rủi ro, ASEAN thông qua sự kết nối từ Việt Nam đã tìm đượctiếng nói chung bằng cách
đấy mạnh ngoại giao số (Nguyễn Thành Trung và cộng sự 2021: 294-295).
Hình 1: Vai trò của ngoại giao số
Tạo ra rnoi trường thuan lui đé quàng bá, tuyẽn truyén vé chính sách đối ngoại
Ciup quàng ba hmh ành đát nước, con ngUời của quốc gia
mọt cách hiẹuquà Tạo điều kiện
thuan lợi cbo viýc giao tiêp,
tương tác giđa người truyén tín
với ngươi tiêp nhạn thong tin
Ngoại giao sô
Với tư cách Chủtịch ASEAN, ViệtNam đãchủ độngtạo ra môitrường làm việc khẩn trương thông qua các cuộc hợp trực tuyến, ứngdụng được ngoạigiao sốđúng bối cảnh, vận dụng được ngoại giao số trong việc quản trị khu vực. Trong vai trò Chủ tịch ASEAN, Việt Nam đãthể hiện rõ vai tròkết nối và dẫn dắt. Việt Nam với vai trò Chủ tịch ASEAN đã linh hoạt và nhanh chóng điều chinh phương thức hoạtđộng của khối với hình thứctrực tuyển tiết kiệmsức người và chi phí. Việt Nam hoàn thành cương vị Chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên họp quốc
tháng 1/2020và sau đó, ngày21/5/2020,Đại sứ Đặng Đình Quý, Trưởng Phái đoàn Việt Nam tại Liên họp quốc đã chủ trì buổi trao đổi không chính thức trực tuyến đầu tiên giữa Đại sứ 10 nước Ưỷ viên không thường trực với Tổng Thư ký Liên hợp quốc António Guterres. Buổi làm việc này đã khẳng định năng lực tận dụng công nghệ số trong triển khai hoạt động ngoại giao của Việt Nam.
Riêng năm 2020, theo chia sẻ từ Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Trưởng đoàn Quan
311 Nguyễn Thành Trung, Nguyễn Như Quỳnh / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhản văn, Tập 8, số 3 (2022) 305-321
chức cấp cao Việt Nam tại ASEAN (ASEAN SOM) Nguyễn Quốc Dũng, ASEAN ghi nhận hơn 550 hội nghị, cuộc họp tổ chức trực tuyến, thông qua gần 200 vănkiện(con số kỷ lục)(TTXVN/Vietnam+
2021). Điều này đã giúp đối thoại thông suốt, giữ được môi trường cho hợp tác khu vực. Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh tại Hội nghị trực tuyến cấp Bộ trưởng ASEAN-EU về ứng phó dịch COVID-19 ngày 20/3/2020 đa khẳngđịnh vai trò, trách nhiệm cùa ASEAN cũng như Việt Nam với cộng đồng trong phòng chống dịch. Song song đó là những cuộc điện đàmcùa Thủ tướngNguyễn Xuân Phúc với những người đồng cấp của Lào, Campuchia cùng các người đồng cấp khác trong ASEAN trao đổi về hợp tác phòng chống dịch, cố gắng đạtđến những cột mốc về hợp tác kinh tế trước những thử thách khó khăn trong kinh tế. Một trong những thành tựu quan trọng mà ASEAN đã đạt đượctrong giai đoạn này chính là lề ký kết trực tuyến các nước tham gia đàm phán Hiệpđịnh Đối tácKinh tếtoàn diện khuvực (RCEP) ngày 15/11. Trong năm 2021, Việt Nam tiếp tục tận dụng các cuộc điện đàm, các cuộc họptrực tuyến trongnỗ lực kết nối với các quốc gia. Những động thái này cho thấy Việt Nam thông qua ngoại giao số đã nỗ lực kết nối với các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia trong khu vực nhằm tìm kiếm tiếng nói chung, đưaracách nhìn nhận,đánh giá về đại dịch, từ đó có cơ sở đề xuất biện phápđối phó.
ii. Tạo môi trường thuận lợi quảng bá, tuyên truyềnvềchính sách đổingoại. Thông qua ngoại giao số, Việt Nam chứng minh, củng cố đường lối đối ngoại đã lựa chọn, hướng đentạo không gian quan hệ rộngmở, tranh thù được sự hợp tác, giúp đờ của cộng đồng quốc tế. Cụ thể ớ đây là cách thể hiện Việt Nam sằn sàng thích nghi trong hoàn cảnh khókhàn chung của toàn cầu, tậndụng
ngoại giao số ủng hộ, vận động cho việc tạo nên những chuẩn mực mới trong quan hệ quốc tế nhằm quản trị sự thay đổi. Trước tiên, với đại dịch COVID-19,ViệtNam sẵn sàng đưa ra tiếng nói và hợp tác trong các lĩnh vực, cùng vượt qua khủng hoảng toàn cầu. ở đây nhắc lạisự kiện ngày 4/02/2020, khi Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) chưa công bố đại dịch COVID-19, Thủ tướng Chính phù Nguyễn Xuân Phúc đãđiện đàm với Tổng thống Indonesia Joko Widodo.
Đặc biệt, năm 2020 cũng chính là năm đầu tiên trong nhiệm kỳ 2020-2021, Việt Nam giữ cương vị ủy viên không thường trực Hộiđồng Bảo an Liên hợp quốc.
Với cácđối tácngoài khối ASEAN, Việt Nam giữ kết nối chặt chẽ trong việc trao đổi cách hợp tác chống dịch. Bên cạnhđó, trong các cuộc điện đàm với các quốc gia như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Án Độ, Nga, Mỹ, v.v. cùng các quốc gia thuộcLiên minh châu Âu (EU), Phong trào không liên kết, Thù tướng Nguyễn Xuân Phúc và Phó Thù tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh luôn thể hiện một thông điệp thống nhất sẵn sàng hợp tác chống dịch, nỗ lực khẳc phục ảnh hưởng đến kinh tế trong giai đoạn khó khăn. Một thành công đáng ghinhận mà ASEẠN là ngày 1/12/2020, tại Hội nghị trực tuyến Bộ trương Bộ Ngoại giaoASEAN-EUlần thứ23, ASEAN và EU chính thức tuyên bố nâng cấp quan hệ đối tác đối thoại ASEAN-EU lên đối tác chiến lược (Nguyễn Thành Trung và cộng sự 2021: 295). Những lần xuất hiện dù trong các cuộc họp trực tuyến cũng là những lần Việt Nam thể hiện sự nhất quán với mong muốn thúc đẩyhợp tácđa phương, duy trìsự hòabình và thịnh vượng củaquốc tế. Trong vai trò Chủ tịch luân phiên của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc trong nhiệm kỳ này, Việt Nam với đại diện là Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc ngày 19/4/2021 đã có bài phát biếu tại Phiênthảo luận cấp caovới
Nguyền Thành Trung, Nguyễn Như Quỳnh / Tạp chi Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 3 (2022) 305-321 312
chủ đề “Tăng cường hợptác giữa Liên họp quốc và cáctổ chức khuvực trong thúc đẩy xây dựng lòng tin và đối thoại trong ngăn ngừa, giải quyết xung đột”. Qua đó, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc thể hiện sự quan tâm của Việt Nam đối với việc phát huy vai trò của các tổ chức khu vực cũng như hợp tác giữa Liên họp quốc với các tổ chứckhuvực, trong đó có ASEAN (ASEAN 2021). Từ đó thúc đẩy tiến trình duy trì hòa bình, ổn định, pháttriển kinh tế -xã hộinói chung và trong ngăn ngừa xung đột nói riêng.Bên cạnh đó, hai phiên thảo luận khác cũng do Việt Nam đưa ra sáng kiến và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn chủ trì, vớichủ đề “Khắcphục hậu quả bommìn và duy trì hòa bình bền vững: Tăng cường gắnkếtđể hành động hiệuquảhơn” và “Bảo vệcơ sởthiếtyếu đối với sự sống của người dân trong xung đột vũ trang”. Nội dung ba phiên thảo luận trực tuyến trên đãgiúp củng cố hình ảnh của Việt Nam cũng như quan điểm của Chính phủ Việt Nam tiếp tục mở rộng và đi vàochiều sâu quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế nhằm tạo khuôn khổ quan hệổn địnhvàbền vững vớicác đốitác.
Trong nửa đầu năm 2021, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn (được bầu làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao tại kỳ họpthứ 11, Quốc hội khóa XIV) và người tiền nhiệm Phạm Bình Minh liên tục có các cuộc điện đàm với người đồng cấp các quốc gia trong khuvực Đông Nam Á cũngnhư nhiềuquốc gia trên thế giới. Nội dung các cuộc điện đàm đều hướng tới thúc đẩy quan hệ giữa Việt Nam và các nước. Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh (được Quốc hội đã miễn nhiệm chức danh Bộ trưởng Bộ Ngoại giao vào ngày 7/4/2021) ngày 30/3/2021 đã traọ đổi trực tuyến với Đặc phái viên của Tổng thống Hoa Kỳ về Biến đổi khí hậu John Kerry.
Chủ đề là biến đổi khí hậu nhưngcả haibên đã khéo léo đưa vào nội dung nhất tríđánh
giá quan hệ Đối tác toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ tiếp tục pháttriển mạnh mẽ trên tất cả các lĩnhvực.
Một sự kiện quan trọng đối với ngoại giao số ViệtNam là phiên thảo luận mở trực tuyến với chủđề đề “Duy trì hòa bình và an ninh quốc tế trên không gian mạng” vào tháng6/2021. Tại đây, đại diệnViệt Nam là BộtrưởngBộ Ngoại giaoBùi Thanh Sơn đã đưa ra quan điểm mạnh mẽ. Ông khẳngđịnh an ninh mạng có ý nghĩathen chốt đối với hòa bình, anninh, pháttriển và thịnh vượng ở mọi cấp độ quốc gia và toàn cầu; chủ quyền và lợi ích của mỗi quốc gia trên không gian mạng cần được tôn trọng một cách đầy đủ. Cần có giải pháp toàn cầu đối với an ninh mạng, theo đó, cộng đồng quốc tế cần thiết lập một khuôn khổ quốc tế với những quytắc, chuẩn mực ứng xử có trách nhiệm trên không gian mạng, trên cơ sở đồng thuận và có sự tham gia rộng rãi, đầy đủ của các nước. Điều này cho thấy ngoại giao số mà Việt Nam theo đuổi còn phải kể đến câu chuyện an ninh mạng, tạo nên các chuẩn mực quốc tế. Dùđang trong thờiđiểm đối diệnvớikhó khăndo dịch bệnh COVID- 19, Việt Nam thông qua ngoại giao số đã đảm bảo được mục tiêu của nhiệm vụ đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoạiđaphương đến năm 2030 theo Chỉ thị số 25-CT/TW ngày 8/8/2018 của Bộ Chính trị: “Khẳng định mạnhmẽ vaitrò của Việt Nam là thành viên tích cực, là đối tác tincậy và có tráchnhiệm của cộng đồng quốc tế; nỗ lực vươn lên để đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt, hòa giải tại các diễn đàn, tổ chức đa phương có tầm quan trọng chiến lượcđối với đất nước,phù hợp với khả năng và điều kiện cụ thể” (Chỉ thị 25-CT/TW).
iii. Giúp quảng bá hình ảnh, đất nước, con người của quốc gia một cách hiệu quả.
Ngoại giao số trong nồ lực chống dịch COVID-19 không thể không nhắc đến tiếng vang tạo sức lan tỏa mạnh mẽ về hình ảnh
313 Nguyễn Thành Trung, Nguyễn Như Quýnh / Tạp chi Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 3 (2022) 305-321
tích cực của Việt Nam. Cụ thể là bài hát “Vũ điệu rửa tay”, mộtdự án của Viện Sức khỏe nghề nghiệp và môi trường ViệtNam (trực thuộc BộY tế) vớisứ mệnh“Nâng cao nhận thức và xâydựng thói quen phòng chống đại dịch COVID-19”. Tuy nhiên, một hiệu ứng vượt ngoài tính toánban đầu, bài hát cùng vũ điệu ấn tượng đã chinh phục người dân thế giới. Bên cạnh đó, hiệu quảphòng chống dịch trongnăm2020của Việt Nam cũng đã tạo niềm cảm hứng trên toàn cầu. Truyền thông thế giới liên tục đăng tải thông tin, hình ảnh chống dịch của Việt Nam và xem đó là hình mẫu. Đây là mộtlợithế rấtlớn về mặt truyền thông đốingoại. Nhưng cần nhìn nhận đây không phải là một chiến dịch thông tin bài bản.
Ngoại giao số là khái niệm còn mới mẻ trong việc xây dựng một lý thuyết lẫn trong thực hành. Năm 2021, Việt Nam tiếp tục triến khai ngoại giao số đáp ứng tình hình thực tế nhưng sáu tháng đầu năm vẫn chưa ghi nhận nhiều ấn tượng mới đối với ngoại giao số Việt Nam. Ngoại giao số của Việt Nam chỉ dừng lại ở việc tích cực hiện diện trong các cuộc họp trực tuyến, đảm bảo thể hiện trọn vẹn vai trò trong các phiên họp quan trọng trong năm 2021. Trong khi đó, các kênh thông tin hoạt động ngoại giao của Việt Nam năm 2021 vần còn giới hạn khi chuyển tải thông tin một chiều, chưa phát triển thành các diễn đàn đối thoại. Cụ the, các tài khoản mạng xã hội của Bộ Ngoại giao Việt Nam hay Bộ trưởng Bộ Ngoại giao vẫn chưa được đầu tư xây dựng nội dung. Trong thời đại công nghệ đi vào mọi
“ngócngách” cuộc sống người dânthì ngoại giao số cần được hiểu mở rộngthêm chủ thế thực hiện. Đặc biệt ở vai trò giúp quảng bá hình ảnh, đất nước, con ngườicủa quốc gia, ngoại giao số còn là một lĩnh vực rộng lớn mà ViệtNam có thểkhai thác hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, với những thành công đạt được và dấu ấnđể lại thời gian qua cho thấyViệt
Nam có thể bắt nhịp với ngoại giao số, thể hiện sự sáng tạo, nhạy bén trong từng tình huống,hoàn cảnh.
Xuyên suốt quá trình tiến hành các hoạt động đối ngoại, bên cạnh các cuộc điện mừng là các hoạt động ngoại giao số của Việt Nam được đẩy mạnh thông qua hình thức điện đàm, các cuộc họp trực tuyến.
Lãnhđạo cấp cao Việt Nam đã tiến hành các cuộc điệnđàm trực tuyến song phươngvới lãnh đạo cấp cao các nước trên thế giới. Bộ Ngoại giao Việt Nam ghinhận 48 cuộc điện đàm trong năm 2020 mà Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc và Phó Thủtướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao PhạmBình Minh tiến hành. Với vaitrò thứ ba này, ngoại giao số của Việt Nam chưa cho thấy được một chiến lược cụ thể.Vì thế,đây sẽ là điếm cần chú ý nếu Việt Nam muốn đấy mạnh ngoại giao số toàn diện.
4. Chuẩn bị cho chiến lược phát triển kinhtế sổ
Trên trường quốc tế, Việt Nam tiếp tục nỗ lực hướng tới xâydựng hình ảnh“Đốitác vì hòa bình phát triển”. Thông qua đó, các vaitròcủa ngoại giao số (Hình 1) từng ngày được thể hiệnrõ. Việt Nam cho thế giới thấy rõ ưáchnhiệm của mình trong phòng chống dịch, sằn sànghợp táckhắc phục ảnh hưởng kinh tế từdịch bệnh. Đối với nỗ lực kêu gọi hợptác chống dịch COVID-19, Việt Nam đã tận dụng các phương tiện truyềnthôngmới, biến rủi ro thành cơ hội thể hiện vai trò trong khu vực và trên trường quốc tế. Tuy nhiên, ngoại giao số mà Việt Nam hướng đến không dừng ở đó. Từ năm 2020 đến tháng 9/2021, Việt Nam thông qua các cuộc họp trực tuyến song phương và đa phương đã không ngừng thúc đẩy các hợp tác về giáo dục -đào tạo,khoahọccông nghệ, họp
Nguyền Thành Trung, Nguyễn Như Quỳnh/Tạp chi Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 3 (2022) 305-321 314
tác phát triển, môi trương, bình đẳng giới, tạo dấuấn chuyểnmình năng động.
Khi xétđến ngoại giao sổ, không thể tách rời ngoại giao sốra khỏi bức tranh tổng thể của số hóa, chuyển đổi số. Đe có những bước chuẩnbị bàibảnchoquá trình trênđòi hỏi một thể chế mới do chính phủ kiến tạo với tinh thần sẵn sàng chấp nhận và thử nghiệm cái mới một cách có kiểm soát. Trên cơ sở này, ngày 3/6/2020,Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 749/QĐ- TTg phê duyệt chương trinh chuyến đôi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến 2030. Mục tiêu cơ bảnđượcđề ra: “Chương trình Chuyểnđổi sốquốcgia nhằm mục tiêu kép là vừa phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, vừa hình thành các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam có năng lực đi ra toàn cầu” (Quyết định số 749/QĐ- TTg). Theo đó, ở cấp độ quốc gia, chuyển đổi số là chuyển đổi chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Năm 2020 được xác định là năm khởi động chuyển đổi số quốc gia. Bên cạnh đó, dịch bệnh COVID-19 đã tạo tình thế buộc nhiềutổ chức, đơnvị phải bắt tay vào quá trình chuyểnđổi số. Dịch COVID-
19làthử thách nhưng đây cũng là thời điểm thích hợp để chương trình chuyển đổi số được khởi động. Ngày Chuyển đổi số Việt Nam 2020 (DX Day Vietnam) lần thứ nhất đã diễn ra trong hai ngày 11 và12/8/2020 tại Hà Nội. Ở vịtrí Chủ tịch ASEAN trong năm 2020, Việt Nam đã chủ động đề xuất xây dựng Chỉ sốHội nhậpsốASEAN. Việt Nam nhìn nhận vai trò quan trọngcủacông nghệ số cũngnhư sự họp tác phát triển công nghệ số giữa các quốc gia là nhân tố quan trọng đảmbảo môi trường bền vừng,hòa bình cho hợp tác giữa các quốc giatrênthế giới.
Tại Hội nghị thượng đỉnh thương mại dịch vụ toàn cầu diễn ra tháng 9/2021, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã có bài phát biểu quan trọng về quan điểm của Việt Nam đối với sự phát triển kinh tế số, công nghệ số và
hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này. Thủ tướng Phạm Minh Chính đã nhấn mạnh lợi thế Việt Nam với thị trường gần 100 triệu dân cùng mạng lưới 17 hiệp định thương mại tự do hứa hẹn đầy tiềm năng cho sự phát triển kinh tế số. Quan điểm cùa Việt Nam là hướng đến sựhọp tácquốc tế trong việc ứng dụngcông nghệ sốnhằm giúp phục hồi kinh tế toàn cầu, chú trọng đến kinh tế số nhằm hướng đến các mục tiêuphát triển bền vừng đến năm 2030 của Liên hợp quốc.
Tuyên bố trênđánhdấu bước quan trọng trongngoại giaosốcủa Việt Nam. Việt Nam đã từng bước hội nhập kinh tế số với chiến lược đi từkhu vực. Tháng 6/2021 đánh dấu sự kiện ngoại giao số nổi bật khi Việt Nam và Singapore khởi động những cuộc đàm phán đầu tiên cho một hiệp định kinh tế số giữa hai quốc gia. Nhằm đảm bảo một môi trường an toàn cho các hoạt động sử dụng côngnghệ số, an ninh mạng là yếu tố không thể bỏ qua. về khía cạnh này, Việt Nam cũngđã chủ động tìm kiếmsự họp tác trong và ngoài khu vực. Cụ thể có những kết nối hop tác với Singapore, các quốc gia Liên minhchâu Âu, Nga, ẤnĐộ và Mỹ.
5. Kết quảđạt được
Trên đây là các tiếp cận cho thấy những nỗ của ngoại giao số Việt Nam trong thời gian qua làrất đáng ghi nhận. Chủ động tận dụng kỹ thuật số vào hoạt động ngoại giao, giúp kết nối các quốc gia trong khu vực trong năm 2020 đầy khó khănđã giúp ngoại giao Việt Nam ghi dấu ấn, được đánh giá cao. Tổng Thư ký ASEAN Lim Jock Hoi nhấn mạnh vai trò nổi bật của Việt Nam trong năm 2020, cho rằng Việt Nam đã thể hiện đậmnétvai trò lãnhđạo ASEAN trong nỗ lực hướng tìm kiếm phảnứng tập thểcủa khu vựcnhằmđối phó với đại dịchCOVID-
19. Đây khôngphải làthànhquả ngẫu nhiên
315 Nguyễn Thành Trung, Nguyễn Như Quỳnh / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhãn vàn, Tập 8, số 3 (2022) 305-321
mà là kết quả từ sự chuẩn bị, nhanh nhạy trong việc nắm bắt thời điểm thích hợp.
Thông qua ngoại giao số, Việt Nam đã chứng minh cho thế giới thấy quốc gia này đã có những bước đi cụ thể với tinh thần
“Gắn kết và chủ động thích ứng”, đúng với tinh thần mà Việt Nam thực hiện và dẫn dắt ASEANđi qua năm2020. Neu so sánh với các quốc gia trong khu vực, Việt Nam là một trong những quốc gia có sự nỗ lực ấn tượng trong việc thực hành ngoại giao số.
Đại dịch COVID-19là rủi ro nhưng cũng là cơ hội để Việt Namthể hiện sức bật, chứng minh được sự sẵn sàng thích nghi, chuyển đổi để dần hoàn thiện một chiến lược ngoại giao số của quốc gia.
Thông qua ngoại giao số, Việt Nam để thế hiện rõ đượcchính sách, chủ trương trở thành “Đối tác vi hòa bình bền vững”. Từ đó, ngoài đối phó dịch bệnh, Việt Nam đã đưa ra hàng loạt sáng kiến trên nhiều lĩnh vực như hoạt động chống biến đổi khí hậu, nhân đạo, gìngiữ hòa bình, chống tội phạm trênkhông gianmạng.Với những thành tích trong phòng chống dịch và được dư luận quốc tế xem là hình mẫu chống dịch, Việt Nam đã củng cốthêm uy tín vàđã chủ trì đề xuấtĐại hội đồng Liênhọp quốc thông qua Nghị quyết lấy ngày 27/12 hàng năm làm Ngày quốc tế sằnsàng chốngdịch bệnh. Với tư cách Chủ tịch ASEAN trong năm 2020, Việt Nam đãđưa ra chủ đề “Gắn kết và chủ động thích ứng”, thúc đẩy các phiên làm việc, thể hiện trách nhiệm và tháiđộtíchcực của ASEAN trong nỗ lực phòng chống đại dịch. Việt Nam đã kêu gọi được sự kết nối của ASEAN, giữ vững vai trò trung tâm cũng như vị trí trung lập trong bổi trạnh cạnhtranh giữa các nước ngày càng gay gắt.
Tinh thầnnày đã thể hiện cụ thể thông qua Tuyên bố về tầmquan trọng của việcduytrì hòa bình và ổnđịnh ở Đông Nam Ácủa các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN nhân kỷ niệm 53 năm thành lập tổ chức này. Việt
Nam cũng đã dẫn dắt thành công hoàn tất đàm phán RCEP sau chặng đường 8 năm đàm phán.
Một trong những nỗ lực của ngoại giao số là thúc đẩy các nội dung trên nền tảng số.
Như chia sẻ của Đại sứ ViệtNamtạiCanada Phạm Cao Phong thì trong năm 2020, lãnh đạođại sứquán đã trả lời phỏng vấn báochí Việt Nam và Canada 6 lần, đăng tải 87 tin tức trên các trang web tiếng Anh và tiếng Việt, quảng bá đất nước con người Việt Nam tại các sự kiện ngoại giao hoặc trình chiếu các đoạn video ngắn về năm Chủ tịch ASEAN, đời sống kinh tế, du lịch của Việt Nam tại các hội nghị, hội thảo mà đại sứ quán tổ chức hoặc phối hợp tổ chức (Phạm Cao Phong 2020). Trong năm 2021, Việt Nam liên tục góp mặt, tăng cường sự hiện diện quốc gia trong các hoạt động ngoại giao số trong và ngoài khu vực. Cụ thể là việctham gia của ViệtNam trong các phiên làm việc, thảo luận trực tuyến song phương cũng như đa phương,nhằm thúc đẩy họp tác trong nhiều vấn đề như kinhtế, chính trị, xã hội, vănhóa,V.V..
6. Hạn chế
Thứ nhất là hạn chế về hạ tầng chuyển đổi số. Trong năm 2020, Việt Nam triển khai nhiều hoạt động liên quan đến ngoại giao số và có những dấu ấn củng cố uy tín.
Tuynhiên, điều này không xuất phát từ bối cảnh ViệtNam hoàn toàn sẵn sàng mà với nhiều thách thức đến từ điều kiện nội tại.
Theosố liệu cập nhậttừTổng cục Thống kê, trong quý 4 năm 2020, Việt Nam có gần 53.951.200 lao động từ 15 tuổi trở lên.
Trong đó, số lao động có chuyên môn kỹ thuật bậc cao là gần 4.332.200 người (chiếm 8%) và số laođộng có chuyên môn kỹthuật bậc trung là 1.783.000 người (chiếm 3,3%) (Bộ Kế hoạch và Đầu tư 2020). Với thời
Nguyễn Thành Trung, Nguyễn Như Quỳnh / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 3 (2022) 305-32J 316
điếm Việt Nam đang có lượng dân số vàng với số lao động dồi dào như hiện nay thì tỷ lệ lao động có chuyên môn kỹ thuật bậc trung và bậc cao như trên cho thấy nguồn nhân lực của Việt Nam chưa thật sự đạt điểm lý tưởng cho quá trình chuyển đổi số.
Chỉ số Ket nốitoàncầu GCI của Huawei ra đời từ năm 2015 và được cập nhật hàng năm. Chỉ số này được đánh giá dựa vào 40
yếu theo dõi tác động của ICT đối với nền kinh tế, cạnh tranh số và tiềm năng phát triển trong tương lai của một quốc gia. Việt Nam từ năm2015 đã có những bước đầu tư cho số hóa nhưngnếu so sánh trong 6 quốc gia có nền kinh tế phát triển nhất khối (ASEAN-6) thì Việt Nam vẫn chưa phải là quốc giaphát triển mạnh nhất trong khu vực về ICT.
90
Hình 2: Chi số Kết nối toàn cầu GCI của Huawei năm 2020
Hình 2 đãcập nhật mới nhất chỉ số GCI của ViệtNam ghi nhận năm 2020 đứng sau Thái Lan, Singapore, Malaysia. Neu so với Singapore, quốc gia nổi bật nhất ở Đông Nam Á hiện nay thì mức phát triển công nghệ sốcủaViệt Namcòn một khoảng cách xa. Trong khuvực ASEAN, khi nhắc đến hạ tầng số, các nhà nghiên cứu cũng như các nhà chuyên môn sẽ nghĩ ngay đến Singapore. Đây là quốc gia có nhiều kinh nghiệm vềsố hóa, chuyển đối số,là quốc gia đứng thứ hai trong danh sách các quốc gia có Internet băng thông nhanh nhất thế giới theo số liệu đánh giá tháng 7/2021 của Tổ chức đo lường và phân tích tốc độ internet lớn nhất thế giới Ookla (sở hữu công cụ đo
lường nổi tiếng Speedtest). Tốc độ tảixuống và tải lên của Singapore ở thời điểm khảo sát lần lượt là 256,03Mbpsvà 230,94Mbps.
Cùng thời điểm, mạng Internet băng thông rộngcủa Việt Nam đứng thứ 59trênthế giới với tốc độ tải về vàtải lên là 78,43Mbps và 68,38Mbps. về tốc độ di động, Singapore đứng thứ 18 và Việt Nam đứng thứ 58 ((Speed Test2021).
Thứ hai là thiếu một kếhoạch toàndiện.
Trong năm 2020, thông qua quan điểm ứng phó dịch COVID-19cũng như những thông tin cập nhậtvềdịch bệnh, ViệtNam cũng đã chuyển tải được thông điệp chính sách đối ngoạicủa quốc gia, hình ảnh đất nước, tinh
317 Nguyễn Thành Trung, Nguyễn Như Quỳnh / Tạp chi Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8. sỏ 3 (2022) 305-321
thần kết nối với công chúng trên toàn cầu.
Tuy nhiên, việc tậndụng phươngtiện truyền thông mới của Việt Nam chi mới phát huy rõ vai trò khi kết nối các quốc gia khu vực trong Năm Chủ tịch ASEAN 2020. Neu xét trên mặt bằng chung, Việt Nam chưa khai thác tối đa hiệu quả phương tiện truyền thông mới cho ngoại giao số. Tiếp cận bản tiếngAnhcủa trang webBộ Ngoại giao Việt Namcó rất ít thôngtin liên quan đến hỗ trợ lãnh sự hoặc những thông tin đối ngoại liên quan dịch COVID-19 nói riêng cũng như các hoạt động đối ngoại nói chung. Các trang mạng xã hội như Facebook, Twitter của Bộ Ngoại giao Việt Nam hay Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng không cập nhật hìnhảnhliêntục hayphong phúnếuso sánh với các quốc gia đang làmrất tốt điều này trong khu vực như Indonesia, Singapore, Thái Lan. Neu xét theo 3 nhiệm vụ mà ngoại giao số phục vụtrong đại dịch COVID-19 thi ngoại giaosố Việt Nam chưa đáp ứng được. Nỗ lực phát triển ngoại giao số trên phương diện hợp tác kinh tế số dù được Việt Nam nhắc đến chính thức trong các hội nghị quốc tế quan trọng nhưng về thực chất, Việt Nam vẫn chưa có một lộ trình phát triển, hợp tác kinh tế số cụ thể.
Phát triển an ninh mạng, hợp tác an ninh mạng cũng trong hoàn cảnh tương tự.
7. Cơ hội vàtháchthức
Đại dịch COVID-19 chính làchất xúc tác cho sự phát triển mạnh mẽ của ngoại giao số. Đại dịch COVID-19 bùng phátđúng thời điểm Việt Nam đảm nhận vị trí quan trọng như Chủ tịch ASEAN năm2020và ủy viên không thường trựcHội đồng Bảo an Liên hợp quốcnhiệm kỳ2020-2021. Việt Nam đã chuyểnkhó khăn thành cơ hội, tậndụng các phươngtiện truyền thông mới đế triển khai đối ngoại và đã đạt được những thành quả nhất định. Đây chính làcơ hội màViệt Nam
cần tận dụng tiếp tục phát huy, tăng cường sự hiện diện trên các diễn đàn, sự kiện khu vực và quốc tế trong bốicảnh dịch bệnh vẫn còn diễn biến phức tạp. Chỉ thị 25 của Bộ Chínhtrị về đối ngoại đa phương chính là cơ sở quan trọng để Việt Nam tự tin xây dựng một chính sách ngoại giao chuyên biệt.
Nhiềunhà nghiên cứu dự đoán chính sự trỗi dậy, chuyển đổi số mạnh mẽ trên mọi phương diện đi cùng những sự họp tác kịp thời,mới mẻ sẽcó góp phần tạo thay đối cân bằng quyền lực trong quan hệ quốc tế. Dự đoán này cần thời gian kiếm chứng nhưng với thực tế đang diễn ra với các cuộc cạnh tranh trong công nghệ số hiện nay, cơ hội mà ngoại giao số manglại cho các quốc gia là điều khó có thế phủ nhận. Điều này đã được kiểm chứng với Việt Nam trong năm 2020 khi tận dụng hiệu quả phương tiện truyền thông mới trong ngoại giao số. Từ đó, Việt Nam đã mạnh dạn đưa ra những tuyên bố cho thấy mong muốn xây dựngmột chính sách ngoại giao sốchuyênbiệt. Đây là thời điểm thích họp mà Việt Nam cần kịp thời nắmbắt để hòa cùng nhịp với cácquốc giapháttriểnmạnh về côngnghệsố.
Kinh tế số đang thể hiện được ưu thế bởi những tiện ích đặc trưng tương ứng với thời đại công nghệ số. Kinh tế số toàn cầu đến nay vẫn chưa phát triển ở mức tối đa và vì thế, cơ hội trong lĩnh vực vẫn cònrấtlớn. O thời điểm hiện tại, các quốc gia, các nhà kinhdoanh và người tiêu dùngtoàncầu đều đang chứng kiến sự chuyến mình mạnh mẽ của kinh tế số, hứahẹn còn nhiều tiềm năng cần được khai thác, tận dụng.Vì thế, họp tác trong lĩnhvực kinh tế sẽ là đề tài được chú trọng đặc biệt trong tương lai gần. Rộng hơn, đó là sự họp tác trong an ninh mạng nhằm đảmbảo một môi trường họp tácchặt chẽ, an toàn đối với mọi lĩnh vực sử dụng công nghệ số. Việt Nam cũng đã nam bắt được tầm quan trọng của kinh tế số cũng như họp tác kinh tế số giữa các quốc gia.
Khôngchỉ ViệtNam mà các quốc giađềuđã
Nguyễn Thành Trung, Nguyễn Như Quỳnh / Tạp chi Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 3 (2022) 305-32 ỉ 318
thấy vai trò của ngoại giao số. Bất cứquốc gia nào cũng có thể tận dụng phương tiện truyền thôngmới nhưmột công cụ triển khai đối ngoại. Vì thế, trong nỗ lực triển khai ngoại giao số, Việt Nam có thể sẽ đối diện vớithử thách từ sức cạnh tranh của cácquốc gia trong và ngoài khu vực. Trong khu vực Đông Nam Á, Indonesia và Singapore nổi lên làhai quốc gia có tham vọng tiên phong trong lĩnh vực ngoại giao số. Với khoảng cách hạ tầng số cònrất lớn nếu so sánhvới các quốc gia có hạ tầng số phát triển nhất trongkhuvực, ViệtNam cần một chiếnlược ngoại giao sốđáp ứng tính đồng bộ giữa các bộ ngành, tạo điều kiện cho kinh tế số phát triển.
Phân tích về quá trình triển khai ngoại giao số, có thể thấy Việt Nam chưa có sự đầu tư, chuẩn bị kỹ nên ngoại giao số với Việt Nam còn mang tính tạm thời. ViệtNam chỉ thể hiện vai trò tích cực trong các diễn đàn trựctuyến màchưacó được sựphối hợp nhịp nhàng, chiến lược về nội dung, hình ảnh trên các phương tiện truyền thông mới khác. Ngoại giao số là xu hướng toàn cầu, thể hiện nhiềuưuđiếm song vẫn tồn tại hạn chế và không thể thay thế được ngoại giao truyền thống. Ngoại giao số trênnền tảngkỹ thuật vẫn có những rủi rotrong bảo mật, sự hạn chếtiếpxúc, giảm tươngtác giữa cáccá nhân. Trong giai đoạn làn sóng thứ tư của dịch bệnh căng thẳng, lãnh đạo đảng, nhà nước vẫn chủ trưong triển khai các chuyến thăm, làm việc tại nước ngoài, ngược lại lãnh đạo thế giới cũng tăngcường đến Việt Nam. Nhiều diễn đàn, hội nghị cũng đã không thể tổ chức trực tuyến. Với những hạn chế phân tích ởtrên, ViệtNam đối diện với những thử thách không chỉ đến từ các yếu tố nội tại mà còn phải đối diện với áp lực đầu tưcho một chiến lược ngoại giao số tương ứngvới tổng thể chính sách đốingoại và tương xứng với vai trò, vị thế của Việt Nam trong khuvực.
8. Hàm ýchính sách cho Việt Nam
Thúcđây phát triên, hợp tác số cũng như tận dụng công nghệ số trong mọi mặt là tất yếu khách quan. Việt Nam đã nhận diện được xu hướng này và cũng đã có những văn bản định hướngcụ thể, bao gồm: Nghị quyết 52, Nghị quyết 22 củaBộ Chính trịvề Hội nhập quốc tế, Chỉ thị 25 của Bộ Chính trị về đối ngoại đa phương. Bộ Chính trị đã có chỉ đạo: “Chủ động, tích cực tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là yêu cầu tất yếu khách quan; là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, gắn chặt với quá trinh hội nhập quốc tếsâu rộng; đồng thời nhận thức đầy đủ, đúng đắn về nội hàm, bản chất của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để quyết tâm đổi mới tưduy và hành động, coi đó là giải pháp đột phá với bước đi và lộ trìnhphùhợp làcơ hội đểViệt Nam bứt phá trong pháttriển kinh tế-xã hội” (Nghị quyết số 52-NQ/TW). ỵề hội nhập quốc tế, Bộ Chính trị cũng đề cập: “Đẩy mạnh hợp tác song phương và đa phương về văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, trước hết là xây dựng cộng đồng văn hóa - xã hội ASEAN, tập trung vào phát triên nguôn nhân lực, nhât là nguồn nhân lực chất lượng cao. Tranh thủ sự hợptác, hỗ trợ quốc tế, tiếp thu tri thức,nhất là tri thức về quản lý và khoa học công nghệ, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Tăng cường quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam với bạn bè quốc tế” (Nghị quyết số 22-NQ/TW). Những định hướng trên cơ sở đe nâng cao năng lực triểnkhai đối ngoại đa phương với nhiệm vụ: “Tập trung đẩy mạnh đào tạo, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, chuyên gia làm công tác đối ngoại đa phương theo hướng chuyên nghiệp, có bản lĩnh chính trị vững vàng, trình độ chuyên mô và kỹ năng làm việc đa phương
319 Nguyền Thành Trung, Nguyễn Như Quỳnh / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 3 (2022) 305-321
trong kỷ nguyên số và toàn cầu hóa” (Chỉ thị 25-CT/TW).
Trong bối cảnh hiện nay, vớinhững định hướng như trên thì ngoại giao số là tất yếu khách quan đốivớingoại giao Việt Nam. Từ đó dẫn đến nhu cầu về mộtchính sách ngoại giao số chuyên biệt khi hiện nay vẫn chưa có một chiến lược, kế hoạch cụ thể. Vì thế, nhiệm vụ trước tiên là cụ thể hóathành một chính sách ngoại giao số dựa trên Nghị quyết 52, Nghị quyết22của Bộ Chínhtrị về Hội nhập quốc tế, Chi thị 25 củaBộ Chính trị về đối ngoại đaphương. Từ đó tổng hợp những văn bản đang riêng rẽ thành một hướng dẫnchi tiết, cụthể đếncác bộ ngành.
Đe xây dựng một chiến lược ngoại giao số bài bản thì ViệtNam cần chú trọng hai mũi nhọnkinh tế số và an ninh mạng bởi đây là hai trụ cột quan trọng trong kinh tế và an ninh chính trị trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Xét trên bình diện quốc tế, Việt Nam chưa phải là quốc gia phát triển trong chuyển đổi số. Vì thế,việc tìm kiếm sự hợp tác, hỗ trợ công nghệ từ các quốc gia trong và ngoài khu vực là điều ưu tiên. Trên phương diện truyền thông đối ngoại, tận dụng các phương tiện truyền thông mới là việc không thể bỏ qua. Từ đóđòihỏi một kế hoạch chi tiết trong đó xác định thông tin nào sẽ xuất hiện và xuất hiện ra sao, đi kèm nội dung cùng hình ảnh cụ thể nào để đẩy mạnh hiệu quả của truyền thông đối ngoại.
Không gian mạng tạo điều kiện cho sự lan tỏa thông tinnhanh và gây ảnhhưởng đến số đông công chúng. Chủ động thay vì chờ đợi truyền thông quốc tế đưa những thông tin tích cực về hình ảnh Việt Nam, đây là điều mà các nhà ngoại giao có thể tận dụng môi trường sốphục vụ cho công táctruyền thông đốingoại.
Ngoại giao số là một khái niệm bao hàm nhiều khía cạnh, có những khía cạnh trùng lặp với ngoại giao công chúng, ngoại giao
văn hóa hay ngoại giao kinh tế. Vì thế đòi hỏi tập trung khai thác những điếm chung gắn kếtđể tạo nênmột chiến lược ngoạigiao số toàn diện. Ngoại giao số không thể thay the ngoại giao truyền thống. Tuy nhiên vẫn đòi hỏi đội ngũ cán bộ ngoại giao nắm bắt và thuần thục những kỹ năng trên nền tảng số, từ đó có thể thao tác cũng như đưa ra những dự đoán, đề xuất kịp thời cho việc triển khai ngoạigiao số.
9. Kết luận
Đối phó yới đại dịch CỌVID-19, Việt Namcàng thể hiệnrõ quan điểm ủnghộhợp tác đaphươngvà xemđây là cách thức hiệu quả nhất để giải quyết các thách thức toàn cầu. Trong năm 2020, với vai trò Chủ tịch ASEAN, ngành ngoại giao Việt Nam đã có bước đột phá khi chù động áp dụng, triển khai hiệu quảngoại giao số kết nối với các quốc gia trong và ngoàikhu vực. Nhữngkết nốinàykhông chỉ nhằmđối phó đại dịch mà còn hướng đên mục tiêu hợp tác xây dựng an ninh, phát triển bền vững. Thành công trongngoạigiao số là một trong những động lựcgóp vào uy tíncủa Việt Nam với vai trò ủy viên không thường trực Hội đồng Bảoan Liên họp quốcnhiệm kỳ 2020-2021. Đây là cơ sở giúp tăng uy tín của Việt Nam hơn nữa trong việc thể hiện tiếng nói, trách nhiệm của quốc gia trướcnhững vấn đề toàn cầu.
Ngoại giao số được Việt Nam áp dụng thành công trong năm 2020 và hiện vẫn đang được ápdụngđể đi vào trạng thái bình thường mớitrong bốicảnhcác quốc giaphải thích ứng trong tinh huống đòi hỏi sự hạn chế cácđường bayquốc tế, yêu cầu cao về các phương pháp phòng chống dịch. Trong tương lai, ngoại giao số được dự đoán sẽ vượt ra khỏi phạm vi là một công cụ, đóng vai trò quan trọng hơn rất nhiều trong tống thể chính sách đốingoại của quổc gia. Đây
Nguyễn Thành Trung, Nguyễn Như Quỳnh / Tạp chỉ Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 3 (2022) 305-321 320
cũng chính là hoạt động cần được áp dụng hiệu quả trong nỗlực quảntrị sự thay đổi từ ngoại sinhhay nội sinhảnh hưởngđến quan hệ quốc tế. Ngoại giao số không chỉ là sự thay đổi hình thức triển khai hay việc áp dụng kỹ thuật sốđể tiến hành công tác đối ngoại, mà đòi hỏi tư duy số, cách tiếp cậnsố và lĩnh vực quản lý số. Dịch bệnh COVID-
19 là cú hích cho quá trình chuyển đổi số nhưng cũng cần ý thức được rằng khi dịch bệnh không còn là vấn đề gây cản trở các hoạt động kinhtể, xã hộithìviệc chuyểnđổi số vẫn phải được tiến hành. Ngoài dịch COVID-19, thế giới đang đứng trước nhiều thách thức về sự thay đổi về mọi mặt như một tất yếu khách quan, vì thế ngoại giao số cần được chú trọngđể cóthể được vận dụng hiệu quảgiúp quản trị những thay đổi trên.
Bên cạnh đó, để đảm bảo được tiến độ chuyển đổi số thì cần có sự camkết, thống nhất, cải cách thể chế liên quan đến an ninh mạng, các quy định khác liên quan trên nền tảng số. Bên cạnh đó, phát triển hạ tầng số cầnsựđầu tư đủmạnhvà kế hoạch chặtchẽ, đó chính là một lộ trình chuyển đổi số bài bản, toàn diện, là cơ sở để ngoại giao số pháthuy tácdụngtrong tổng thể chính sách đối ngoạicủa Việt Nam.
Tàiliệu tríchdẫn
Abbasov Abbas. 2007. “Digital diplomacy:
Embedding information and communication technologies in the department of foreign affairs and trade.” The Australian Institute of International Affairs.
Andrik Purwasito, Erwin Kartinawati. 2020.
“Hybrid Space and Digital Diplomacy in Global Pandemic COVID-19.” In 6th International Conference on Social and Political Sciences (ICOSAPS 2020). Atlantis Press: 662-666.
ASEAN. 2021. “Opening Remarks by H.E.
Nguyen Xuan Phuc, Prime Minister of Viet Nam at Opening Ceremony of The 37th
ASEAN Summit”. Trang web của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (https://asean.org/opening-remarks-by-h-e- nguyen-xuan-phuc-prime-minister-of-viet-nam- at-opening-ceremony-of-the-37th-asean- summit/). Truy cập tháng 8/2021.
Bộ Chính trị. 2013. “Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế.” Báo điện tử Đàng Cộng sản Việt Nam (https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/he- thong-van-ban/van-ban-cua-dang/nghi-quyet- so-22-nqtw-ngay-1042013-cua-bo-chinh-tri- ve-hoi-nhap-quoc-te-264). Truy cập tháng 6 năm 2022.
Bộ Chính trị. 2019. “Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”. Báo Điện tử Đảng Cộng sàn Việt Nam (https ://tulieuvankien. dangcongsan. vn/he- thong-van-ban/van-ban-cua-dang/nghi-quyet- so-52-nqtw-ngay-27920I9-cua-bo-chinh-trỉ- ve-mot-so-chu-truong-chinh-sach-chu-dong- tham-gia-cuoc-cach-mang-cong-5715). Truy cập tháng 2 năm 2022.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 2020. “Báo cáo lao động việc làm quý 4 năm 2020”. Tổng cục Thống kê (https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu- thong-ke/2021/05/bao-cao-lao-dong-viec-lam- quv-4-nam-2020/). Truy cập tháng 8 năm 2021.
Bridget Verrekia. 2017. “Digital Diplomacy and Its Effect on International Relations.”
Independent Study Project (ISP) Collection.
2596.
Christopher Alden, Kenddrick Chan.
2021. “Twitter and digital diplomacy: China and COVID-19”. Presented in Digital IR project at LSE IDEAS.
Comeliu Bjola. 2015. “Introduction: Making sense of digital diplomacy.” pp 15-24 in Digital Diplomacy. Routledge.
Comeliu Bjola, Marcus Holmes. 2015. Digital Diplomacy: Theory and Practice. Routledge.
Comeliu Bjola, Ilan Manor. 2020. “NATO's Digital Public Diplomacy during the COVID- 19 Pandemic.” Turkish Policy Quarterly: 77- 87.
321 Nguyễn Thành Trung, Nguyễn Như Quỳnh / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn. Tập 8, số 3 (2022) 305-321
Evan Potter. 2002. Cyber-diplomacy: Managing foreign policy in the twenty-first century.
McGill-Queen's Press-MQUP.
Global Connectivity Index. 2020. “Chỉ số Kết nối toàn câu GCI của Huawei năm 2020.” Công thông tin Tập đoàn công nghệ viễn thông Huawei
(https://www.huawei.com/minisite/gci/en/iniJex.
html). Truy cập tháng 8 năm 2021.
Global Connectivity Index. 2020. “Bảng xếp hạng Chi số Ket nối toàn cầu GCI của Huawei năm 2020.” Cổng thông tin Tập đoàn công nghệ viễn thông Huawei
(https://www.huawei.com/minisite/gci/en/count ry-rankings.html). Truy cập tháng 8 năm 2021.
Fergus Hanson. 2010. A Digital DFAT: Joining the 21st century. Sydney: Lowy Institute for International Policy.
Fergus Hanson. 2012. Revolution@ State: the spread of ediplomacy. Sydney: Lowy Institute for International Policy.
Ilan Manor. 2016. “Are we there yet: Have MFAs realized the potential of digital diplomacy?:
Results from a cross-national comparison.”
Brill Research Perspectives in Diplomacy and Foreign Policy 1.2: 1-110.
Ilan Manor. 2019. The digitalization of public diplomacy. New York: Springer International Publishing.
Nguyễn Quốc Dũng. 2021. "ASEAN khắng định vai trò trung tâm trong một năm đầy biến động.” Bao điện tử VIETNAMPLUS (https ://www. vietnamplus. vn/asean-khang- dinh-vai-tro-trung-tam-trong-mot-nam-2020- day-bien-dong/69361 ó.vnp). Truy cập tháng 10 năm 2021.
Nguyễn Thành Trung, Nguyễn Như Quỳnh. 2021.
“Nồ lực đối phó đại dịch COVID-19 của ASEAN: Quản trị khu vực dưới góc nhìn ngoại giao số”. Bài trình bày tại Hội thảo Khoa học Đông Nam Á: Những phương diện nghiên cứu liên ngành, Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh.
Nicholas Westcott. 2008. “Digital diplomacy: The impact of the internet on international relations.” Oxford Internet Institute.
Phạm Cao Phong. 2021. “Đại sứ Việt Nam tại Canada Phạm Cao Phong: Thời nhà ngoại giao zoom.” Báo Thế giới & Việt Nam (https: //baoquocte.vn/dai-su-viet-nam-tai- canada-pham-cao-phong-thoì-nha-ngoai-giao- ĩoom-135883.html). Truy cập tháng 2 năm 2021.
Ronit Kampf, Ilan Manor, Elad Segev. 2015.
“Digital diplomacy 2.0? A cross-national comparison of public engagement in Facebook and Twitter.” The Hague Journal of Diplomacy 10.4 (2015): 331-362.
SpeedTest. 2020. “Singapore's Mobile and Fixed Broadband Internet Speeds.” Trang web SpeedTest (https ://www.speedtest, net/global- index/singapore). Truy cập tháng 8 năm 2021.
SpeedTest. 2020. “Vietnam's Mobile and Fixed Broadband Internet Speeds.” Trang web SpeedTest (https ://www.speedtest, net/global- index/vìetnam). Truy cập tháng 8 năm 2021.
Thủ tướng Chính phủ. 2020. “Quyết định 749/QĐ-TTg.” Thư viện pháp luật (https:ữthuvienphapluat.vn/van-ban/Cong- nghe-thong-tin/Quyet-dinh-749-QD-TTg-2020- phe-duyet-Chuong-trinh-Chuyen-doi-so-quoc- gia-444136.aspx). Truy cập tháng 8 năm 2021.
Thủ tướng Chính phủ. 2021. “Chi thị số 25/CT- TTg ngày 10/9/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh triển khai Chiến lược văn hóa đối ngoại của Việt Nam”.
Tông cục Thông kê. 2021. “Báo cáo lao động việc làm quý 4 năm 2020”. Trang thông tin điện tử
Tòng cục Thông kẽ
(https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu- thong-ke/202l/05/bao-cao-lao-dong-viec-lam- quy-4-nam-2020/). Truy cập tháng 8 năm 2021.
TTXVN/Vietnam+. 2021. “ASEAN khẳng định vai trò trung tâm trong một năm 2020 đầy biến động”. Báo điện tử Vietnam-}* (https://www.vietnamplus.vn/asean-khang- dinh-vai-tro-trung-tam-trong-mot-nam-2020- day-bien-dong/693616.vnp). Truy cập tháng 8/2021.
Vũ Lê Thái Hoàng. 2020. Ngoại giao chuyên biệt, hướng đi ưu tiên mới cũa ngoại giao Việt Nam đền năm 2030. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật.