• Tidak ada hasil yang ditemukan

những nhân tó chính trị trong quan hệ

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "những nhân tó chính trị trong quan hệ"

Copied!
12
0
0

Teks penuh

(1)

CHÂU MỸNGÀY NAY SỐ 01-2022 3

QUAN HỆ QUỐC TÉ

NHỮNG NHÂN CHÍNH TRỊ TRONG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI MỸ - TRUNG QUỐC

ChíLợi*

* Viện Nghiên cứu Châu Mỹ

Tóm tăt: Quan hệ thương mại luôn chịu sự chi phổi rất lớn của các quan hệ chỉnh trị.

Do đó, quan hệ thương mại Mỹ - Trung càng phát triển càng tích tụ những mâu thuẫn lớn cả về kinh tế và chỉnh trị. Mỹ đã dùng các quan hệ thương mại để lôi kẻo Trung Quốc vào vòng ảnh hưởng và phục vụ lợi ích chính trị của mình. Trong khi đó, Trung Quốc đã khai thác triệt để các cơ hội trong quan hệ thương mại với Mỹ để chấn hưng nền kinh tế và nâng cao vị thế quốc tế. Từ khi bình thường hoá quan hệ ngoại giao năm 1979 cho tới hiện nay, quan hệ thương mại Mỹ - Trung đã trải qua những bước thăng trầm to lớn, từ quan hệ họp tác hồ trợ cho đến việc áp dụng các biện pháp trừng phạt quy mô lớn. Những năm gần đây, các nhân to chính trị trong quan hệ Mỹ - Trung đã có tác động to lớn đến quan hệ kinh tế song phương, làm cho quan hệ thương mại Mỹ - Trung cũng rơi vào tình trạng khó khăn. Xu thế này có thể tiếp tục gia tăng trong thời gian tới, mặc dù hai nước vẫn đang duy trì các mối quan hệ buôn bản và đầu tư.

Từ khoá: Mỹ; Trung Quốc; Quan hệ thương mại; Thâm hụt thương mại; Chiến tranh thương mại

1. Quan hệ chính trị, ngoại giao Mỹ - Trung kể từ khi bình thường hoá quan hệ ngoại giao

Mỹ và Trung Quốc là hai quốc gia có chế độ chính trị khác biệt, tuy nhiên, lợi ích quốc gia đã đưa hai nước từ đối đầu trở thành đối tác khi hai nước bình thường hoá quan hệ vào năm 1979. Mỹ có những toan tính lâu dài trong việc bình thường hoá và thúc đẩy quan hệ với Trung Quốc. Một mặt, Mỹ bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc nhằm lôi kéo nước này vào liên minh chống Liên Xô (cũ), mặt khác Mỹ cũng hy vọng rằng, việc bình thường hoá và

lôi kéo Trung Quốc vào quỹ đạo kinh tế của mình sẽ làm cho Trung Quốc có những thay đổi và chuyển hoá đi theo mô hình của Mỹ.

Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Mỹ đẩy mạnh quan hệ với Trung Quốc với hy vọng rằng “chủ nghĩa thực dụng”

của Trung Quốc sẽ “sập bẫy” chính trị Mỹ. Việc đồng ý đưa Trung Quốc gia nhập To chức Thương mại Thế giới (WTO) là một toan tính chính trị mang tính chiến lược. Phát biểu về việc Trung Quốc gia nhập WT0, Tổng thống Mỹ đương nhiệm khi đó, Bill Clinton, cho rằng: “Bằng việc tham gia vào WTO,

(2)

4 SỎ 01-2022 CHÂU MỸ NGÀY NAY

Trung Quốc không chỉ đơn giản là đồng ý nhập khấu nhiều hơn các sản phẩm của chúng ta, mà Trung Quốc còn đồng ý nhập khẩu một trong những giá trị đẹp đẽ nhất của nền dân chủ: tự do kinh tế.

Trung Quốc càng tự do hoá nền kinh tế của mình, quốc gia này sẽ càng tự do hoá các tiềm năng của người dân - những sáng kiến, các tưởng tượng, tinh thần doanh nghiệp to lớn của họ. Và khi các cá nhân có quyền lực, không chỉ mơ mà còn hiện thực hoá các mơ ước của mình, họ sẽ đòi hỏi có tiếng nói lớn hơn trong xã hội”1.

Mặc dù còn nhiều trục trặc trong quan hệ chính trị song phương nhất là các vấn đề dân chủ và nhân quyền, nhưng Mỹ vẫn chủ động thúc đẩy quan hệ với Trung Quốc. Mối quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc về mặt chính trị và an ninh có những dấu hiệu cải thiện trong những năm đầu thế kỷ XXI, khi mà Trung Quốc đã ủng hộ mạnh mẽ cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu của Chính quyền George w. Bush và đồng thời hợp tác với Chính quyền Bush giải quyết vấn đề hạt nhân của Bắc Triều Tiên. Cùng với các vấn đề an ninh khu vực và toàn cầu, quan hệ Mỹ - Trung được củng cố bằng các chuyến thăm cấp nhà nước giữa hai quốc gia được tổ chức thường xuyên tại Bắc Kinh hay Washington DC. Để khuyến khích việc hợp tác, Mỹ đã mở cửa thị trường cho hàng hoá Trung Quốc và quan hệ Mỹ - Trung kể từ khi Trung Quốc gia nhập WT0 cho đến những năm đầu thập kỷ 2010 vẫn phát triển ổn định

và các bất đồng đã được hai nước trao đối và giải quyết qua nhiều kênh khác nhau, đặc biệt là qua kênh Đối thoại Chiến lược và Kinh tế Mỹ - Trung.

Cuộc khủng hoảng tài chính của Mỹ năm 2008 có tác động to lớn tới cả kinh tế và chính trị của Mỹ. về kinh tế, cuộc khủng hoảng này đã làm cho kinh tế Mỹ suy thoái nghiêm trọng và kéo dài trong nhiều năm, nó đã làm cho sức mạnh và tiềm lực kinh tế của Mỹ bị chững lại. về mặt chính trị, nội bộ chính trị của Mỹ có những mâu thuẫn lớn về các vấn đề trong nước nhất là khi Tổng thống Barack Obama lên nắm quyền, và trên phương diện quan hệ quốc tế, cuộc khủng hoảng tài chính cũng đã có những tác động tới các mối quan hệ quốc tế của Mỹ, nhất là mối quan hệ với Nga và Trung Quốc (Friedberg, 2010). Cuộc khủng hoảng tài chính đã dẫn đến những nhận định mới của phía Trung Quốc về Mỹ rằng sức mạnh của Mỹ đã suy giảm, và cho rằng đây là “thời cơ chiến lược”

cho Trung Quốc khẳng định vị thế của mình trong quan hệ với Mỹ, cũng như trong các vấn đề quốc tế. Với nhận thức đó, Trung Quốc đã triển khai chính sách đối ngoại mới với những tham vọng mới trong việc tranh chấp lãnh thổ với Nhật Bản tại khu vực Biển Hoa Đông, đưa ra những yêu sách Đường chín đoạn tại Biển Đông, đồng thời gia tăng ảnh hưởng tại các khu vực trên thế giới.

Chính quyền của Tổng thống Mỹ Barack Obama nhận thấy các động thái chính trị, quân sự mới của Trung Quốc

(3)

CHÂU MỸ NGÀY NAY SỐ 01-2022 5 là một thách thức với Mỹ, vì vậy đã

triển khai chiến lược “Tái cân bằng”

sang Châu Á, nhấn mạnh Mỹ là quốc gia tại Châu Á - Thái Bình Dương, thúc đẩy tự do hàng hải tại khu vực Biển Đông và Biển Hoa Đông, và triển khai chính sách kinh tế mới bằng việc thúc đẩy đàm phán xây dựng một khu vực mậu dịch tự do nối các quốc gia hai ven bờ Thái Bình Dương - Hiệp định thương mại tự do xuyên Thái Bình Dương.

Trung Quốc đáp trả chiến lược “Tái cân bằng” của Mỹ bằng việc đẩy mạnh nâng cấp lực lượng quốc phòng, hiện đại hoá lực lượng hải quân, đẩy mạnh tranh chấp lãnh thổ với các nước tại khu vực Châu Á, đưa ra “Sáng kiến: Vành đai, Con đường” nhằm gia tăng ảnh hưởng của mình tại khu vực, thống trị và đẩy Mỹ ra khỏi khu vực Châu Á (Chatzky và McBride, 2020)3. Dưới thời Chính quyền Barack Obama, Mỹ và Trung Quốc có những trục trặc trong quan hệ song phương trên phương diện chiến lược, tuy nhiên Chính quyền của Tổng thống Barack Obama vẫn theo đuổi chính sách ngoại giao và kinh tế mềm mại nhằm tập trung khắc phục các bất ổn kinh tế và xã hội trong nước.

Mối quan hệ Mỹ - Trung Quốc trở nên căng thẳng hơn dưới thời chính quyền của Tổng thống Donald Trump khi ông đưa ra nhiều nhận xét gay gắt về Trung Quốc, nhất là đặt vấn đề rất nghiêm trọng về thâm hụt thương mại rằng, Trung Quốc đã “cường hiếp” kinh tế Mỹ, “cưóp việc làm của người Mỹ”,...

Chính quyền Donald Trump đã đẩy căng thẳng trong quan hệ Mỹ - Trung lên một mức mới khi cho ràng Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh chiến lược (White House, 2017). Tình trạng căng thẳng trong thời kỳ này còn được mở rộng trên cả lĩnh vực ngoại giao, an ninh khi Mỹ tăng cường hiện diện quân sự, gia tăng các hoạt động tập trận tại khu vực tây Thái Bình Dương, thách thức Trung Quốc trong việc bảo vệ tự do hàng hải, và đẩy mạnh quan hệ quốc phòng với các nước trong khu vực. Cùng với việc gia tăng sức mạnh quân sự tại khu vực Châu Á, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã triển khai chính sách thương mại cứng rắn bằng việc điều tra các biện pháp vi phạm tự do thương mại của Trung Quốc và tiến hành áp thuế cao đối với nhiều hàng hoá xuất khẩu của Trung Quốc vào Mỹ, và trên thực tế, Mỹ và Trung Quốc đã rơi vào cuộc chiến tranh thương mại từ giữa năm 2018 kéo dài cho đến hiện nay.

Nhìn chung, quan hệ chính trị và quan hệ thương mại đã song hành và có tác động chặt chẽ trong quan hệ song phương Mỹ - Trung Quốc. Khi mối quan hệ chính trị nồng ấm trong thập kỷ 1990 và 2010, các hoạt động thương mại được thúc đẩy thuận lợi, và khi những nghi ngờ chính trị xuất hiện từ sau năm 2010, các hoạt động thương mại song phương Mỹ - Trung Quốc đã gặp nhiều trở ngại. Với sự can dự, đan kết kinh tế chặt chẽ giữa Mỹ và Trung Quốc như hiện nay, quan hệ thương mại song phương Mỹ - Trung vẫn tiếp tục diễn ra,

(4)

6 SỐ 01-2022 CHÂU MỸ NGÀYNAY tuy nhiên sự phát triển của quan hệ

thương mại giữa hai quốc gia này sẽ gặp nhiều rào cản.

2. Quan hệ thương mại Mỹ - Trung - Quan hệ thương mại Mỹ - Trung Quôc trước thời Chính quyển Tống thống Donald Trump

Quan hệ kinh tế nói chung và quan hệ thương mại nói riêng giữa Mỹ và Trung Quốc kể từ sau khi bình thường hoá (1979) cho tới giữa thập kỷ 2010 có sự phát triển thăng hoa và mối quan hệ thương mại này đã có những đóng góp to lớn cho sự phát triển kinh tế của cả Mỹ và Trung Quốc. Trên thực tế, việc tiếp cận thị trường Mỹ một cách dễ dàng do các ưu đãi thương mại mà Mỹ cấp cho Trung Quốc đã tạo ra một thời kỳ

“bùng nổ” thương mại của Trung Quốc khi hàng hoá của Trung Quốc xuất sang Mỹ tăng trưởng hàng năm luôn ở mức hai con số dù đó là ở thời kỳ trước hay sau khi Trung Quốc gia nhập WT0. Vào tháng 1/1979, Mỹ và Trung Quốc đã tuyên bố bình thường hoá quan hệ ngoại giao, và chỉ 6 tháng sau, hai nước đã ký kết “Thoả thuận quan hệ thương mại”

qua đó Trung Quốc được cấp quy chế tối huệ quốc cho hàng hoá xuất khẩu vào thị trường Mỹ, khai thông quan hệ thương mại song phương sau nhiều năm gián đoạn. Việc cấp cho Trung Quốc quy chế tối huệ quốc trong buôn bán là một sự thay đổi rất quan trọng và đây là một dấu mốc lớn cho một giai đoạn phát triển của quan hệ thương mại Mỹ - Trung.

Theo thống kê của Ưỷ ban Thương mại Quốc tế Mỹ (USITC), năm 1979, tổng kim ngạch thương mại hàng hóa Mỹ - Trung là 2 tỷ USD, năm 1980 là 5 tỷ USD và con số này tăng lên thành 20 tỷ USD năm 1990. Quan hệ thương mại Mỹ - Trung tiếp tục phát triển mạnh sau những năm 1990 khi tổng kim ngạch thương mại song phương vào năm 2000 đã đạt con số 116 tỷ USD (tăng 5,8 lần so với 1990), trong đó Trung Quốc xuất khẩu đạt 100 tỷ USD, và con số xuất khẩu của Mỹ là 16 tỷ USD2.

Dưới một bầu không khí chính trị tích cực trong quan hệ Mỹ - Trung, vào cuối những năm 1990, hai nước đã tiến xa hơn trong quan hệ thương mại khi Mỹ đã đồng ý đàm phán với Trung Quốc trong tiến trình gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WT0). Tiến trình đàm phán giữa Mỹ và Trung Quốc đã kết thúc và Trung Quốc gia nhập WT0 vào năm 2001. Việc tham gia WT0 là một cơ hội lớn cho hàng hóa của Trung Quốc thâm nhập vào các thị trường khác nhau trên thế giới, và trong đó Mỹ vẫn là thị trường số 1 mà Trung Quốc hướng tới. Ke từ khi Trung Quốc gia nhập WT0, thương mại Mỹ lại có nền tảng phát triển mới, thương mại song phương có bước phát triển vượt bậc: giá trị thương mại song phương đã tăng gấp hơn 3 lần từ năm 2001 đến năm 2008, lên tới 409,3 tỷ USD năm 2008. Theo thống kê ngoại thương của Mỹ, từ năm 2006, Trung Quốc đã vượt qua Mexico trở thành đối tác thương mại lớn thứ hai

(5)

CHÂUMỸNGÀYNAY SỐ01-2022 7 của Mỹ. Kể từ năm 2000 cho tới năm

2008, xuất khẩu hàng hoá của Trung Quốc có sự gia tăng gần gấp 4 lần từ 100 tỷ USD lên 337,8 tỷ USD. Ở chiều ngược lại, mặc dù xuất khẩu hàng hoá của Mỹ sang thị trường Trung Quốc không đạt quy mô lớn như xuất khẩu của Mỹ, nhưng cũng đạt mức tăng trưởng ấn tượng từ khoảng 16,3 tỷ USD vào năm 2000 lên 71,5 tỷ USD vào năm 2008 (USITC). Từ các số liệu này có thể thấy, mặc dù hai nước đã có được những lợi ích to lớn trong buôn bán song phương, nhưng bức tranh chung cho thấy mối quan hệ bất đối xứng khi mà thâm hụt thương mại của Mỹ với Trung Quốc gia tăng rất mạnh mẽ từ 10,4 tỷ USD vào năm 1990 lên 83,8 tỷ USD vào năm 2000 và 266,3 tỷ USD vào năm 2008. Sự bất cân bằng thương mại mở rộng trong quan hệ thương mại song phương Mỹ - Trung là một điềm báo cho những trục trặc ngày càng gia tăng trong quan hệ thương mại song phương.

Do tác động của khủng hoảng tài chính (2007/08), quan hệ thương mại Mỹ - Trung có sự sụt giảm trong năm 2009, tuy nhiên mối quan hệ thương mại này lại tiếp tục gia tăng từ sau năm 2010.

Trong giai đoạn 2010-2016, xuất khẩu của Trung Quốc sang Mỹ tăng từ 364,9 tỷ USD lên 462,6 tỷ USD, và ở chiều ngược lại, xuất khẩu của Mỹ cũng tăng từ mức 91,9 tỷ USD lên 115,6 tỷ USD.

Nhìn một cách tổng quát, mặc dù chịu tác động lớn của cuộc khủng hoảng tài chính, quan hệ thương mại Mỹ - Trung Quốc phát triển khá nhanh trong giai đoạn của Chính quyền Obama. Tổng kim ngạch trong giai đoạn này tăng trung bình 4,9%/năm, xuất khẩu của Mỹ sang Trung Quốc tăng trung bình 6,8%/năm, xuất khẩu của Trung Quốc sang Mỹ tăng trung bình 4,5%/năm. Thâm hụt thương mại của Mỹ với Trung Quốc trong giai đoạn này tiếp tục tăng, năm cao nhất là năm 2010 với tốc độ tăng 20,4%, và trung bình là 3,8%/năm.

(Đơn vị: tỷ USD)

Bảng 1: Thương mại hàng hóa Mỹ - Trung Quốc giai đoạn 2008-2016

Năm Xuất khẩu của Mỹ

Nhập khẩu của Mỹ

Tồng kim ngạch

Cán cân thưong mại

2008 71,5 337,8 409,3 -266,3

2009 69,6 296,4 366,0 -226,8

2010 91,9 364,9 456,8 -273,0

2011 104,1 399,4 503,5 -295,3

2012 110,5 425,6 536,1 -315,1

2013 121,7 440,4 562,1 -318,7

2014 123,7 468,5 592,2 -334,8

2015 115,9 483,2 598,8 -367,3

2016 115,6 462,6 578,2 -347,0

Nguồn: U.S. International Trade Commission (USTIC) DataWeb và Statista

(6)

8 SỐ 01-2022 CHÂU MỸ NGÀY NAY CÓ nhiều nguyên nhân dẫn đến thâm

hụt thương mại Mỹ - Trung Quốc, theo các nhà phân tích kinh tế thì nguyên nhân sâu xa dẫn đến tình trạng thâm hụt này có thế là do bản thân các công ty Trung Quốc có sức cạnh tranh ngày càng tăng trên thị trường quốc tế và nhu cầu của Mỹ về hàng hóa Trung Quốc rất lớn.

Hầu hết các nhà kinh tế nhất trí rằng tính cạnh tranh về giá của Trung Quốc là do hai yếu tố chính: một là, do mức sống của người dân thấp, vì thế cho phép các doanh nghiệp Trung Quốc chi trả lương thấp cho công nhân; hai là, do tỷ giá hối đoái đồng nhân dân tệ luôn được thiết lập thấp hơn so với USD.

Thâm hụt thương mại của Mỹ đổi với Trung Quốc có tác động lớn đến nền kinh tế Mỹ, nhất là trong giai đoạn khủng hoảng và hậu khủng hoảng.

Thâm hụt thương mại của Mỹ cũng có nghĩa là các công ty của Mỹ không thể cạnh tranh được với hàng hóa giá rẻ của Trung Quốc, cho nên buộc họ phải hạ giá thành sản phẩm. Để hạ được giá thành, nhiều công ty đã bắt đầu triển khai công việc gia công sang các nước Án Độ và Trung Quốc, việc này khiến cho tình trạng thất nghiệp của Mỹ càng trở nên trầm trọng hơn. Có phân tích cho rằng, ngành sản xuất chế tạo của Mỹ (ngành tạo ra nhiều công ăn việc làm) đã bị mất vài triệu việc làm do thâm hụt trong buôn bán với Trung Quốc (Robert, 2020).

- Quan hệ thương mại Mỹ - Trung Quốc từ sau Chính quyền Donald Trump

Những căng thẳng trong quan hệ thương mại Mỹ - Trung Quốc đã được

báo trước kể từ khi ông Donald Trump tiến hành vận động tranh cử và nhiều lần cho rằng thâm hụt thương mại lớn với Trung Quốc là không thể chấp nhận được. Thật ra các vấn đề trong quan hệ thương mại Mỹ - Trung Quốc đã có từ lâu, và Chính quyền Obama cũng đã nhiều lần đặt vấn đề này tại các kênh ngoại giao, đặc biệt là trong các cuộc Đối thoại Chiến lược và Kinh tế Mỹ - Trung. Mặc dù vậy, các vấn đề trục trặc trong buôn bán giữa hai quốc gia vẫn không được giải quyết và thâm hụt thương mại vẫn gia tăng. Trung Quốc tiếp tục duy trì (hoặc gần đây áp đặt) một số chính sách nhà nước có xu hướng làm bóp méo thương mại và dòng đầu tư. Các lĩnh vực chính mà các nhà hoạch định chính sách Mỳ và các bên liên quan quan ngại là gián điệp kinh tế không gian mạng bị cáo buộc rộng rãi của Trung Quốc chống lại các doanh nghiệp Mỹ; thực thi tương đối không hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ; các chính sách cải cách có tính chất phân biệt đối xử; kỷ lục về vi phạm thực thi các nghĩa vụ của WTO; việc sử dụng các chính sách công nghiệp, trợ cấp và quy định của các cơ quan có thẩm quyền Trung Quốc (ví dụ: chống độc quyền, mua sắm và tiêu chuẩn) để thúc đẩy phát triển kinh tế, các mục tiêu công nghệ và quân sự; và các chính sách can thiệp nhằm tác động đến giá trị đồng nhân dân tệ. Các chính sách như Made in China 2025 nhằm tạo ra lợi thế cạnh tranh cho Trung Quốc trong các ngành

(7)

CHÂU MỸ NGÀY NAY SỐ 01-2022 9 công nghiệp chiến lược, một phần bằng

cách đầu tiên đạt được công nghệ và chuyên môn từ các công ty Mỹ để có được năng lực cốt lõi. Các chính sách này dường như khuyến khích chuyển giao công nghệ, cấp phép và các yêu cầu liên doanh; công nghệ và trí tuệ do nhà nước chỉ đạo trộm cắp tài sản (IP); và các vụ mua lại do chính phủ tài trợ...

Các chính sách như vậy tác động tiêu cực đến các lợi ích kinh tế của Mỳ, và là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng mất việc làm ở Mỹ.

Mối quan tâm của Mỹ về thực tiễn quan hệ thương mại với Trung Quốc tập trung vào vai trò mở rộng của nhà nước đối với nền kinh tế và các rào cản của Trung Quốc trong các lĩnh vực mà quốc gia này đang mở rộng ra nước ngoài và nồ lực xuất khẩu quy chuẩn và nguyên tắc trên toàn cầu. Trung Quốc không sẵn lòng thừa nhận và giải quyết các quan ngại của Mỹ, vì thế từ năm 2018 đến năm 2020, Quốc hội Mỹ và Chính quyền Trump đã thực hiện các hành động để giải quyết những lo ngại này.

Năm 2018, Đại diện Thương mại Mỹ (USTR) theo Mục 301 của Đạo luật Thương mại năm 1974 (19 use §2411), kết luận rằng Trung Quốc tham gia vào việc cưỡng ép chuyển giao công nghệ, không gian mạng - cho phép trộm cắp tài sản trí tuệ (IP) và bí mật thương mại của Mỳ, cấp phép phân biệt đối xử và phi thị trường, và các vụ mua lại tài sản chiến lược của Mỹ do nhà nước tài trợ. Chính phủ Mỹ sau đó đã áp đặt

thuế quan nhập khẩu từ Trung Quốc trị giá khoảng 250 tỷ USD, Trung Quốc đã phản đối bằng cách đánh thuế đối với sản phẩm của Mỳ trị giá 110 tỷ USD.

Mỹ và Trung Quốc đã ký một thỏa thuận giai đoạn một vào tháng 1/2020, trong đó Trung Quốc cam kết tăng cường IP thực thi và tăng cường khả năng tiếp cận trong lĩnh vực nông nghiệp và tài chính nhưng hầu hết các mối quan tâm của Mỹ vần chưa được giải quyết. Thỏa thuận bao gồm các điều khoản để Trung Quốc mua của Mỹ 468 tỷ USD hàng hóa, năng lượng, nông nghiệp và dịch vụ trong hơn hai năm. Nhưng thực tế, mua hàng của Trung Quốc từ Mỹ ở năm đầu tiên (2020) giảm xuống dưới mức cam kết và trong nhiều lĩnh vực thấp hơn nhiều so với mức thương mại năm 2017.

Chính phủ Mỹ năm 2018 cũng áp đặt thuế nhôm và thép để giải quyết tình trạng dư thừa công suất ở Trung Quốc.

Để giải quyết các chính sách công nghiệp của Trung Quốc nhằm mục đích dân sự và lãnh đạo công nghệ quân sự, Chính quyền Trump tìm cách hạn chế chuyển giao công nghệ của Mỹ cho Trung Quốc, tăng cường giám sát các mối quan hệ học thuật, củng cố cơ quan rà soát đầu tư, thắt chặt kiểm soát xuất khẩu, và cấm đầu tư của Mỹ vào các công ty gắn liền với quân đội Trung Quốc; cấm các công ty Trung Quốc như Huawei, China Mobile và China Telecom vào thị trường Mỹ và khuyến khích các nước khác làm theo.

(8)

10 SỐ 01-2022 CHÂUMỸ NGÀYNAY Năm 2018, kim ngạch thương mại

song phương đạt đỉnh cao nhất trong lịch sử quan hệ kinh tể thương mại Mỹ - Trung: với tổng thương mại hàng hóa là 659,8 tỷ USD. Tuy nhiên, sang năm 2019, cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung đã khiến dòng chảy thương mại song phương suy giảm, xuất khẩu hàng hóa của Mỹ sang Trung Quốc năm 2019 là 106,4 tỷ USD, giảm 11,5% so với năm 20183, trước khi phần lớn thuế quan được thực thi, Mỹ đã xuất khẩu hàng hóa trị giá 130,4 tỷ USD sang Trung Quốc, cơ cấu xuất khẩu rất đa dạng và hỗ trợ sản xuất, du lịch, và lĩnh vực kinh doanh và dịch vụ tài chính.

Năm 2019, Mỹ nhập khẩu 451,7 tỷ USD hàng hóa từ Trung Quốc, chiếm 18% tổng nhập khẩu hàng hóa. Căng thẳng leo thang nhanh chóng vào đầu năm 2018, với việc Mỹ áp thuế chống bán phá giá 30% đối với tất cả các tấm pin mặt trời và máy giặt, bao gồm cả các sản phẩm của Trung Quốc. Lệnh áp thuế tiếp theo là mức thuế 25% đối với thép và nhôm nhập khấu toàn cầu, được biện minh trên cơ sở an ninh quốc gia và tác động đáng kể đến nhập khẩu từ Trung Quốc. Sau đó, USTR bắt đầu áp đặt thuế quan trên diện rộng đối với hàng hóa nhập khẩu của Trung Quốc dựa trên cuộc điều tra Mục 301. Cho đến giữa năm 2018, Mỹ áp mức thuế áp đặt 25%

đối với 50 tỷ USD nhập khẩu máy móc, tiếp theo là thuế quan 10% được áp dụng đối với 250 tỷ USD nguồn cung cấp công nghiệp vào tháng 10/2018,

thuế đối với những hàng hóa này sau đó được tăng lên 25% vào tháng 5/2019.

Trung Quốc đáp lại với mức thuế tương đương đối với hàng hóa của Mỹ, tập trung vào xe cộ, nông sản, dầu mỏ và khí đốt tự nhiên và thiết bị vốn. Các tác động tức thời và rõ ràng của thuế quan đối với nền kinh tế đã khiến dòng chảy thương mại giảm đến và đi từ Trung Quốc, với mồi đợt tăng thuế dẫn đến giảm xuất nhập khấu song phương. Xuất khẩu của Mỹ sang Trung Quốc năm 2019 giảm 18% so với năm 2017; trong khi nhập khẩu giảm 11 % so với cùng kỳ (US - China Business Council, 2021). Sự kết hợp của thuế quan cao hơn, dòng chảy thương mại giảm và căng thẳng gia tăng đã gây thiệt hại cho nền kinh tế Mỹ, doanh nghiệp và hộ gia đình thông qua một số kênh như giá tiêu dùng tăng, các khoản đầu tư bị trì hoãn hoặc hủy bỏ, gián đoạn chuồi cung ứng từ chiến tranh thương mại dẫn đến chi phí đầu vào cao hơn, làm ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh và tỷ suất lợi nhuận.

Mặc dù Mỹ và Trung Quốc vào đầu năm 2020 đã đạt thoả thuận, theo đó Trung Quốc sẽ điều chỉnh chính sách thương mại tạo điều kiện cho hàng hoá Mỹ thâm nhập vào thị trường nước này và Trung Quốc cam kết sẽ mua nhiều hàng hoá của Mỹ hơn. Tuy nhiên quan hệ thương mại Mỹ - Trung trong thời gian gần đây vẫn chưa quay trở lại trạng thái bình thường. Nhìn chung, xuất khẩu của Trung Quốc vào Mỹ đã giảm mạnh trong những năm Tổng thống Donald Trump

(9)

CHÂU MỸNGÀY NAY SỐ01-2022 11 nắm giữ chính quyền khi con số nhập

khẩu của Mỹ tò Trung Quốc đã giảm từ 539,5 tỷ USD năm 2018 xuống còn 435,4 tỷ USD vào năm 2020. Ở chiều ngược lại, xuất khẩu của Mỹ sang Trung Quốc đã giảm từ 130,4 tỷ USD năm 2017 xuống còn 106,4 tỷ USD năm 2019 trước khi quay trở lại mức 124,6 tỷ USD năm 2020, mặc dù vẫn thấp hơn mức

130,4 tỷ USD năm 2017. Sự sụt giảm của kim ngạch thương mại song phương Mỹ - Trung trong giai đoạn này có sự ảnh hưởng của Đại dịch COVID-19 khi các nền kinh tế đều gặp khó khăn, nhưng có thể nói chính sách thương mại cứng rắn của Mỹ và sự trả đũa của Trung Quốc đã làm cho buôn bán song phương Mỹ - Trung Quốc suy giảm đáng kể.

Bảng 2: Thưong mại hàng hóa Mỹ - Trung Quốc giai đoạn 2017-2020

(Đơn vị: tỳ USD)

Năm Xuất khẩu của Mỹ

Nhập khẩu của Mỹ

Tổng kim ngạch

Cán cân thươngmại

2017 130,4 505,6 636,0 -375,2

2018 120,3 539,5 659,8 -419,2

2019 106,4 451,7 558,9 -345,3

2020 124,6 435,4 560,0 -310,8

Nguồn: U.S. International Trade Commission (USTIC) DataWeb và Statỉsta

Bảng 2 cho thấy, thâm hụt thương mại của Mỹ với Trung Quốc có sự suy giảm đáng kể từ mức 419,2 tỷ USD năm 2018 xuống còn 310,8 tỷ USD năm 2020.

Mặc dù có tác động của nhân tố Đại dịch COVID-19, sự thu hẹp thâm hụt thương mại của Mỹ với Trung Quốc cho thấy chính sách thương mại cứng rắn của Mỹ với Trung Quốc đã có những tác động rất đáng kể tới việc lấy lại cân bằng thương mại song phương, và chính sách áp thuế của Chính quyền Donald Trump đã làm giảm lượng hàng hoá của Trung Quốc xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Con số về mức giảm của thâm hụt thương mại của Mỹ với Trung Quốc cũng chỉ nói lên một phàn của vấn đề thương mại song phương, trong khi đó

vấn đề cơ cấu thương mại có thể nói rõ thêm về thực chất quan hệ thương mại song phương giữa hai quốc gia dưới tác động của chính sách thương mại cứng rắn của Chính quyền Donald Trump.

Việc Mỹ hạn chế bán các hàng hoá công nghệ cao cho Trung Quốc cũng đã làm cho nhiều doanh nghiệp công nghệ của Trung Quốc gặp rất nhiều khó khăn, mà điển hình là công ty Huawei, một công ty hàng đầu về các thiết bị viễn thông của Trung Quốc có mức doanh thu về điện thoại giảm 41,1% trong quý IV năm 2020 do Mỹ hạn chế bán các thiết bị và các phần mềm cho sản phẩm này (Kean, 2021).

Sau khi Tổng thống Joe Biden lên nhậm chức, phía Trung Quốc rất kỳ vọng

(10)

12 01-2022 CHÂU MỸ NGÀYNAY rằng chính quyền mới của Mỹ sẽ điều

chỉnh chính sách thương mại và dỡ bỏ các biện pháp thương mại cứng rắn mang tính trừng phạt của Chính quyền Donald Trump trước đây. Tuy nhiên, nhừng tín hiệu cho đến cuối năm 2021, tức là sau một năm cầm quyền của ông Joe Biden, Mỳ vẫn chưa triển khai các biện pháp nới lỏng thương mại với Trung Quốc. Vào tháng 11/2021, Đại diện Thương mại Mỹ Katherine Tai vẫn cáo buộc Trung Quốc không thực hiện các cam kết thương mại đã được ký kết dưới thời của Tổng thống Donald Trump và vì vậy, Mỹ sẽ không loại bỏ ngay lập tức thuế quan do Chính quyền Donald Trump áp đặt vào hàng hoá Trung Quốc. Nhìn chung, việc nối tiếp chính sách thương mại của Chính quyền Donald Trump của Chính quyền Joe Biden là hoàn toàn có thể hiểu được khi mà chính trị giữa hai nước chưa tạo được bầu không khí mềm mại và suôn sẻ. Mặc dù việc áp đặt các biện pháp thương mại cứng rắn lên Trung Quốc cũng tạo ra những khó khăn lớn cho nhiều ngành công nghiệp, nhiều doanh nghiệp, nhưng có thể thấy, nếu nhìn ưên phương diện cân bằng thương mại thì có thể thấy thâm hụt thương mại hàng hoá Mỹ - Trung có một số cải thiện kể từ sau khi Mỹ áp thuế cao đối với hàng hoá Trung Quốc, mặc dù mức cải thiện này là chưa vững chắc. Mức thâm hụt thương mại với Trung Quốc đã giảm từ 419,2 tỷ USD năm 2018 xuống còn 310,8 tỷ USD năm 2020, và 355,3 tỷ USD năm 2021.

3. Một số nhận xét

Mối quan hệ thương mại Mỹ - Trung kể từ khi bình thương hoá cho đến hiện nay đã trải qua những bước phát triển thăng trầm khác nhau, từ hợp tác mang tính hồ trợ sang việc áp dụng các biện pháp trừng phạt quy mô lớn. Những biến đổi trong quan hệ thương mại song phương Mỹ - Trung vừa có các yếu tố kinh tế, vừa có các yếu tố chính trị. Từ tiến trình phát triển trong quan hệ thương mại Mỹ - Trung kể từ khi hai nước bình thường hoá quan hệ ngoại giao cho đến hiện nay, có thể rút ra một số nhận xét sau:

- Sự phát triển quan hệ thương mại Mỹ - Trung cho thấy hai nước là các đối tác thương mại lớn và rất quan trọng của nhau. Mặc dù, trong giai đoạn đầu kể từ khi bình thường hoá, Mỹ chủ động trong việc tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động buôn bán quốc tế của Trung Quốc, Trung Quốc đã nhanh chóng chứng minh họ là một thị trường lớn của các công ty Mỹ trên cả phương diện xuất khẩu hàng hoá và đầu tư khai thác thị trường nội địa của Trung Quốc. Người tiêu dùng Mỹ cũng được hưởng lợi lớn từ các hàng hoá giá rẻ từ Trung Quốc.

Quan hệ thương mại song phương đã đóng góp rất quan trọng cho tiến trình phát triến của nền kinh tế lớn thứ nhất và thứ hai thế giới. Nhập siêu là một vấn đề quan trọng trong quan hệ thương mại song phương Mỹ - Trung, tuy nhiên nhập siêu của Mỹ từ Trung Quốc một phần đã bị chính trị hoá. về kinh tế học,

(11)

CHÂUMỸ NGÀYNAY SỐ 01-2022 13 nhập siêu là do có sự chênh lệch giữa

tiết kiệm và đầu tư nội tại của một nền kinh tế, và thâm hụt thương mại của Mỹ với Trung Quốc là sự thiếu hụt đầu tư của Mỹ được bù lại bằng hàng hoá từ Trung Quốc. Nhiều nhà kinh tế cho rằng nhập siêu không phải là điềm yếu của nền kinh tế, mà còn là tín hiệu cho thấy nền kinh tế đang phát triển mạnh (Alessandria George, 2007). Như vậy, Mỹ và Trung Quốc là hai nền kinh tế lớn và trong quá trình toàn cầu hoá hiện nay, hai nền kinh tế này vẫn sẽ cần phải hợp tác để cùng tồn tại và phát triển như là một tất yếu trừ phi các vấn đề chính trị vượt trội trở thành nhân tố chi phối căn bản quan hệ song phương Mỹ - Trung nói riêng và quan hệ quốc tế nói chung.

- Sự phức tạp trong quan hệ thương mại Mỹ - Trung hiện nay cũng không hẳn là do những kỳ vọng và thất vọng trong vấn đề chính trị của Mỹ mà một phần không kém phần quan trọng là do những chính sách không minh bạch và sự

“tranh thủ” quá mức từ phía Trung Quốc đã đẩy mối quan hệ thương mại giữa hai quốc gia đi vào thế bất đối xứng nghiêm trọng. Trên thực tế, Mỹ đã nhiều lần và qua nhiều kênh khác nhau đã trao đổi, đặt vấn đề một cách rõ ràng với phía Trung Quốc về các vấn đề cần phải giải quyết trong quan hệ thương mại song phương, nhưng các vấn đề đã không được phía Trung Quốc giải quyết triệt để.

Các vấn đề bất đồng thương mại đã được Chính quyền Barack Obama đặt ra qua các kênh Đối thoại kinh tế và chiến lược (S&ED) thiết lập từ ngày 1/4/2009.

Tại kênh đối thoại này phía Mỹ đã đặt các vấn đề về mở cửa thị trường, bảo vệ bản quyền, và vấn đề tỷ giá giữa đồng Nhân dân tệ và Đôla Mỹ,... Mặc dù vậy, nhiều vấn đề tồn tại trong quan hệ thương mại song phương Mỹ - Trung vần không được giải quyết thấu đáo, và phía Mỹ cũng đã nhiều lần phải sử dụng kênh WTO để giải quyết, và vì vậy, sự tồn đọng này đã đẩy căng thẳng quan hệ thương mại song phương lên một nấc thang mới vượt ra ngoài lĩnh vực kinh tế. Sự tồn đọng lâu dài của các vấn đề kinh tế - thương mại không được giải quyết đã dẫn tới việc Mỹ áp dụng các biện pháp thương mại mang tính trừng phạt đối với Trung Quốc, và Trung Quốc đáp trả một cách tương tự gây ra cuộc chiến tranh thương mại giữa hai quốc gia trong một số năm gần đây.

- Nhìn chung Mỹ và Trung Quốc là đối tác thương mại lớn của nhau. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, quan hệ thương mại Mỹ - Trung cho thấy mức độ hội nhập sâu lẫn nhau giữa hai nền kinh tế và trên thực tế, sự buôn bán ở quy mô lớn này giúp cho cả hai nền kinh tế được hưởng lợi trên nền tảng phát huy lợi thế so sánh của từng nền kinh tế. Trong quan hệ thương mại song phương Mỹ - Trung, các dấu ấn chính trị thể hiện đậm nét trong mỗi bước phát triển của quan hệ thương mại song phương kể từ khi bình thường hoá quan hệ và lôi kéo Trung Quốc vào quỳ đạo chống Liên Xô, cũng như khi Mỹ triển khai các ý đồ chiến lược nhằm chuyển hoá Trung Quốc, Mỹ đã thực hiện chính sách ưu ái

(12)

14 01-2022 CHÂU MỸ NGÀYNAY mang tính khuyến khích, hỗ trợ Trung

Quốc trong buôn bán. Khi mối quan hệ chính trị giữa hai nước trở nên phức tạp, Mỹ đã thực hiện các chính sách thương mại cứng rắn mang tính trừng phạt với Trung Quốc. Điều này có thể cho thấy rằng trong quan hệ Mỹ - Trung Quốc nói riêng và quan hệ quốc tế nói chung, các quan hệ kinh tế có thể được sử dụng vào các mục tiêu chính trị và trong cuộc cạnh tranh chính trị, địa chính trị, địa chiến lược ngày càng gay gắt hơn như hiện nay, khó có thể có được một môi trường hội nhập kinh tế toàn cầu như những gì thế giới đã từng kỳ vọng sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc.

- Thực tế quan hệ thương mại Mỹ - Trung cho thấy quan hệ thương mại không bao giờ tách khỏi quan hệ kinh tế và hơn nữa các quan hệ thương mại càng phát triển thì các quan hệ chính trị càng trở nên phức tạp. Mỹ và Trung Quốc là hai đối tác thương mại đặc biệt của nhau vừa có tham vọng kinh tế và vừa có tham vọng chính trị thế giới và vì vậy hai nước sẽ vừa tìm cách hợp tác, nhưng đồng thời cũng sẽ tìm cách kiềm chế và tranh giành quyết liệt các lợi thế của nhau. Xu thế hợp tác và cạnh tranh trong thương mại song phương Mỹ - Trung sẽ có những tác động rất to lớn tới sự phát triển của kinh tế toàn cầu, cũng như quan hệ buôn bán trên toàn thế giới. Trong vài thập kỷ tới, Mỹ vẫn là quốc gia có sức mạnh về công nghệ và dẫn dắt kinh tế toàn cầu, nhưng Trung Quốc cũng có sự phát triển mạnh mẽ trở thành một nền kinh tế có trình độ công nghệ cao bám sát và cạnh tranh quyết liệt với Mỹ. Sự tương tác kinh tế

cũng như các hoạt động buôn bán giữa hai nền kinh tể trong bối cảnh đó có thể làm thay đổi cấu trúc và thể chế thương mại toàn cầu trong tương lai gần ■

Bài viết trong khuôn khô đề tài: “Quan hệ kinh tế Mỹ - Trung Quốc - Nga trong bổi cảnh mới: tác động, ảnh hưởng và đối sách của Việt Nam ” mã sổ ĐTĐL.XH-02/21

Tài liệu tham khảo:

1. Aaron (2010). Implications of the Financial Crisis for the US - China Rivalry. Global Politics and Strategy. Volume 52,2010 - Issue 4.

2. Alessandria George (2007). Trade Deficits aren’t Bad as You Think. Business Review QI, 2007.

3. Chatzky, Adrew và McBride, Jame (2020). China’s Massive Belt and Road Initiative. Council on Foreign Realtions, 2020.

grounder/chinas-massive-belt-and-road-initiative, truy cập ngày 25/1/2022.

https://www.cfr.org/back

4. Kean (2021). Huawei ban timeline: Detained CFO makes deal with US Justice Department. Báo

ngày 30/9/2021.

/news/the-book-of-boba-fett-episode-4-recap-a- rescue-and-a-breakout/, truy cập ngày 22/1/2022.

Cnet.com https://www.cnet.com

5. Robert E. Scott và cộng sự (2020). Growing China trade deficit cost 3.7 million American jobs between 2001 and 2018. Economic Policy Institute, Washington DC. publication/

growing-china-trade-deficits-costs-us-jobs/, truy cập ngày 10/2/2022.

https://www.epi.org/

6. US - China Business Council (2021). The US-China Economic Relationship: A crucial partnership at a critical juncture. Oxford Economics, .

, truy cập 8/1/2022

https://www uschina.org

7. White House (2017). National Security Strategy of the United States of America.

17/12/NSS-Final-12-18-2017-0905.pdf, truy cập ngày 25/1/2022.

https://trump whitehouse.archives.gov/wp-content/uploads/20

Chú thích:

1. New York Times (2000). Full Text of Clinton's

Speech on China Trade Bill. .

030900clinton-china-text.html, truy cập ngày 15/1/2022.

https://archive nytimes.com/www.nytimes.com/library/world/asia/

2. United States International Trade Comission,

DataWeb. , truy cập ngày

20/1/2022

https://dataweb.usitc.gov

3. U.S. - China Trade Facts, countries- regions/china-mongolia-taiwan/people s-republic- china, truy cập 25/12/2021.

https://ustr.gov/

Referensi

Dokumen terkait

Tất cả đều nói về những biến đổi gia đình trên nhiều phương diện, dưới tác động của các yếu tố, kinh tế thị trường, ĐTH … Những nghiên cứu về sự biến đổi gia đình trở thành đề tài thu

Cũng là vấn đề quan hệ ngoài hôn nhân nhưng trong khi ngoại tình là hiện tượng cho dù có được nhìn nhận cởi mở hơn vẫn được ít người chấp nhận thì những việc những người phụ nữ không

Mục đích nghiên cứu của đề tài là khai thác các giá trị quan họ để tạo thương hiệu điểm đến cho du lịch Bắc Ninh nói riêng và cho dân tộc Việt Nam nói chung.. Muốn quan họ sẽ là cái tên

Để mối quan hệ Tập đoàn Dầu khí Việt Nam - Chính phủ ngày càng mang lại hiệu quả cho doanh nghiệp và đất nước, một số vấn đề tiếp tục được đặt ra như: việc tham gia tháo gỡ khó khăn về

Bài viết này nghiên cứu tác động của thâm hụt ngân sách, độ mở thương mại, chiều sâu tài chính, tín dụng nội địa được cung ứng bởi khu vực ngân hàng, lạm phát và chất lượng thể chế đến

Cơ sở của dự đoán thứ hai gồm: Mỹ sẽ áp dụng tư tưởng của Chủ nghĩa Trọng thương để bảo hộ sản xuất trong nước, những rào cản thuế đối với hàng hóa Trung Quốc sẽ được dựng lên; Mỹ sẽ

Với đối tượng là bệnh nhân bụi phổi silic đến Bệnh viện phổi Trung ương điều trị như trường hợp đối tượng của nghiên cứu này thì rất khó để xem xét vấn đề tuổi nghề hay thâm niên tiếp

tình trạng chưa thống nhất nhận thức về một số vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong phương pháp luận nghiệp vụ báo chí như: quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận và trách nhiệm chính