T
NGHI LỄ PHÁT LƯƠNG ĐỀN TRẦN THƯƠNG DƯỚI GÓC NHÌN BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA
CAO THẢO HƯƠNG Tóm tắt
Nghi lễ Phát lương đền Trần Thương, tỉnh Hà Nam là một nghi lễ mới ra đời từ năm 2010 nhưng sớm nhận được sự quan tâm từ phía cơ quan quản lý các cấp cũng như nhân dân thập phương. Đây là nghi lễ mang tính biểu tượng, tính thời sự và màu sắc tâm linh rõ nét, rất đáng được quan tâm nghiên cứu. Bài viết tập trung nghiên cứu nghi lễ Phát lương đền Trần Thương dưới góc nhìn biểu tượng văn hóa nhằm thấy được sự vận động của biểu tượng cũng như nhu cầu tâm linh dân gian. Trong đó, phát lương - xin lương được giải nghĩa với tư cách là biểu tượng mang tính lịch sử, tính hiện sinh - biểu tượng trung tâm của nghi lễ. Ngoài ra, bài viết cũng bước đầu nhận diện và tìm hiểu một số biểu tượng góp phần làm nên tính thiêng của nghi lễ - một trong những điểm hấp dẫn khiến cho nghi lễ dễ dàng được dân gian đón nhận.
Từ khóa: Phát lương, nghi lễ Phát lương, đền Trần Thương, biểu tượng, biểu tượng văn hóa Abstract
Ritual of ration at Tran Thuong Temple, Ha Nam Province is a new ritual that was born in 2010 but soon received the attention from management agencies at all levels as well as the people all over the country. This ritual has representativity, timeliness and spiritual colors and it is worthy of consideration.
The article focuses on studying ritual of rations at Tran Thuong Temple under the perspective of cultural symbolsinordertoseethemovementofsymbolsaswellastheneedsoffolkspirituality. In which, giving ration – applying for ration is interpreted as a historical, existential symbol - the central symbol of the ritual. In additions, the article also initially identifies and explores some of the symbols that contribute to the sacredness of the ritual - one of the attractions that makse the ritual easy to receive.
Keyword: Giving ration, ritual of ration, Tran Thuong temple, symbol, cultural symbol
rong nghiên cứu văn hóa nói chung và nghiên cứu tín ngưỡng dân gian nói riêng, sự xuất hiện của những hiện tượng mới, một nghi lễ mới luôn là đề tài đáng chú ý không chỉ bởi tính thời sự của vấn đề mà còn bởi ý nghĩa sâu xa, thúc đẩy sự ra đời của nó. Nghi lễ Phát lương đền Trần Thương là một hiện tượng mới, đáng chú ý như thế. Đây là một nghi lễ mang màu sắc
truyền thống rõ nét, nhưng lại ra đời trong bối cảnh hiện đại. Nghi lễ cho thấy sự vận động của đời sống văn hóa và thế giới biểu tượng văn hóa trong giai đoạn hiện nay.
1. Khái niệm biểu tượng
Biểu tượng là một khái niệm có tính trừu tượng cao. Biểu tượng gồm hai phần chính: dấu hiệu và ý nghĩa. Trong đó, mối quan hệ
giữa hai phần này được hình thành và tồn tại tương đối ổn định trong lịch sử. Biểu tượng gắn liền với ý thức và vô thức, có khả năng khơi gợi cảm xúc và định hướng hành động. Theo nhà thần học Paul Tillich, “những vấn đề cơ bản trong tư tưởng tôn giáo của con người phải được thể hiện bằng biểu tượng, bởi vì chỉ có ngôn ngữ biểu tượng mới có thể diễn đạt được ý nghĩa của nó” (4, tr.41) .
Bản thân biểu tượng là một khái niệm có tính đứt đoạn - tức “cái biểu hiện” và những ý nghĩa biểu trưng không được nối liền nhau. Đó là lý do mà ở phương Tây cổ xưa, biểu tượng được hình dung như hai mảnh ghép được xẻ đôi, chia cho hai người để làm dấu hiệu nhận nhau. Sự hoạt động của ý thức, trí tưởng tượng, những liên tưởng của con người được nhìn nhận như một chìa khóa mở cánh cửa bí ẩn về phần đứt gãy. Mircea Eliade nhấn mạnh đến “hoạt động tiềm thức và siêu nghiệm của con người”. Trong khi đó, James Wald đã nhấn mạnh đến phức cảm trong liên tưởng. Chỉ những gợi mở của phức cảm trong liên tưởng mới có thể nối lại phần đứt gãy giữa việc sử dụng hình ảnh và phần thực đằng sau - “phần trình bày”.
Giữa hai phần chính của biểu tượng, “cái biểu hiện” và“cái được biểu hiện” bao giờ cũng có một logic. Các trường hoạt động của ý thức trong biểu tượng rất phong phú, đa dạng và khó nắm bắt. Ban đầu con người ngầm quy ước về một nội dung nào đó (có thể là nhiều hơn) bằng một tín hiệu, lấy cái này để đại diện cho cái kia.
Qua thời gian, tín hiệu đó được làm dày thêm, phức tạp hơn bằng những lớp nghĩa mới dựa trên lớp nghĩa ban đầu. Với sự chồng xếp các lớp nghĩa, lâu dần con người bắt đầu có những liên tưởng và cảm xúc. Khi các lớp nghĩa trở nên phức tạp, khơi gợi nhiều cảm xúc ở con người, điều khiển hành vi của con người một cách vô thức thì tín hiệu trở thành biểu tượng. Sự “đứt gãy” giữa “cái biểu hiện” và “cái được biểu hiện” là do sự chồng xếp giữa các
lớp nghĩa mà thành. Lớp nghĩa mới ra đời dựa trên những lớp nghĩa gần nó nhất. Đặc điểm nổi bật của biểu tượng là tính liên kết cơ động của các mối liên hệ. Tuy nhiên, mối liên hệ ấy được phát triển, vận động; theo thời gian và hoàn cảnh lịch sử - xã hội, các lớp nghĩa được bồi đắp và biến dạng một cách có chọn lọc và khác nhau ở từng nền văn hóa. Điều này liên quan trực tiếp tới tính ổn định tương đối của biểu tượng.
Bản chất của biểu tượng chính là sự gợi mở của cái biểu hiện, dẫn dắt con người tới những cái được biểu hiện. Vì thế, đối với tư duy biểu tượng, không có gì là không khắc phục được.
Những gì khó hình dung được biểu trưng bởi cái cụ thể; cái “ảo” được biểu hiện qua cái “thực”.
Vì vậy, biểu tượng không phải là một thực thể tĩnh mà luôn vận động, biến đổi theo thời gian.
2. Biểu tượng phát lương - từ lịch sử tới văn hóa Như đã nói ở phần trên, biểu tượng có đời sống riêng, gắn với đời sống xã hội. Biểu tượng có thể bị phai nhạt ý nghĩa, thậm chí trở thành biểu tượng chết khi không còn chứa đựng ý nghĩa gì đối với con người. Nhưng biểu tượng cũng có thể được bồi đắp thêm nghĩa mới và quá trình bồi nghĩa này diễn ra dựa trên một dòng logic nhất định. Ta có thể thấy điều này ở nghi lễ Phát lương đền Trần Thương.
Đây là một nghi lễ mới, xuất hiện từ năm 2010 và tồn tại cho đến nay. Nghi lễ được tổ chức tại đền Trần Thương, thuộc thôn Trần Thương, xã Nhân Đạo, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Địa điểm ngôi đền hiện nay là kho lương chính trong 6 kho lương mà Trần Hưng Đạo cho đặt để phục vụ cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược thời Trần. Đây cũng là nơi Trần Hưng Đạo cắm sinh phần. Vì thế dân gian có câu: “Sinh Kiếp Bạc, thác Trần Thương, quê hương Bảo Lộc”. Vào giờ tý ngày rằm tháng giêng, tại đây tổ chức nghi lễ Phát lương, ban lộc đầu năm của Đức Thánh Trần cho nhân dân.
Cũng vì mới ra đời, nên đây là một hiện tượng cho thấy sự tham gia của lớp nghĩa mới bên cạnh các lớp nghĩa có sẵn trước đó. Ở đây có sự tích hợp, chồng xếp nhiều ý nghĩa, gắn liền với niềm tin, ước mong phồn thực, niềm tự hào dân tộc… mang đậm màu sắc dân gian, cụ thể, có sự bồi đắp, chồng xếp giữa lớp nghĩa mới và lớp nghĩa cũ. Lớp nghĩa truyền thống là lớp nghĩa tín ngưỡng hóa, tâm linh hóa sự kiện lịch sử, gắn liền với lịch sử chống giặc ngoại xâm dưới thời nhà Trần. Đền Trần Thương trong tâm thức dân gian gắn liền với chiến thắng quân Nguyên Mông do nhà Trần lãnh đạo. Trong chiến thuật đánh giặc,
nhà Trần, cả ba lần chống lại quân Mông Nguyên, đều chú trọng tới vấn đề lương thực. Đó là sự vận dụng kế “vườn không nhà trống”
khiến quân giặc thiếu lương thực trong 2 lần sang xâm lược nước ta. Và chiến thuật đánh cắt lương thảo của địch, khiến địch mất lương thảo phải rút quân ở lần xâm lược thứ ba. Như vậy, ở hướng nghĩa này, lương thực gắn liền với lịch sử, lịch sử được tâm linh hóa.
Bên cạnh lớp nghĩa trên, biểu tượng phát lương còn tích hợp, bồi đắp nghĩa khác, ý nghĩa về ước mong phồn thực. Ước mong
phồn thực về sự no đủ là tâm thức vốn đã sẵn có trong văn hóa dân gian. Ở đây có sự chuyển hóa từ lương thảo nuôi quân sang lương thực nuôi dân, được biểu hiện bằng ngũ cốc. Lương thực gắn liền với sự no đủ, đồng thời gợi liên tưởng tới hạt giống, sự sinh sôi nảy nở, được phủ thêm màu sắc tâm linh: đó là ngũ cốc thiêng, chứa đựng sức mạnh siêu nhiên, gắn liền với ước mong phồn thực của con người, cầu mưa thuận gió hòa, may mắn sung túc…
Lương thực trở thành biểu tượng của phồn thực, là“lộc” của rất nhiều dân tộc trên thế giới, bởi chức năng trong đời sống hiện thực của nó
là nuôi sống con người, là vật dự trữ để nuôi con người lâu dài, đồng thời là hạt giống tạo nên sự sinh sôi nảy nở. Tâm thức này được tích hợp vào biểu tượng lương ở đền Trần Thương, và vì có sự bồi nghĩa này thì nghi lễ bao hàm nội dung phát lương - nhận lương mới ra đời. Phát lương là phát lộc, nhận lương là nhận lộc, xin lương cũng có nghĩa là xin lộc. Bởi thế mà nghi lễ này được tổ chức vào đầu năm, con người xin lộc may mắn đầu năm. Lúc này biểu tượng mang tính hiện sinh rõ rệt. Ta có thể hình dung sự bồi đắp hai lớp nghĩa này qua sơ đồ sau:
Sự tích hợp của hai lớp nghĩa của biểu tượng phát lương là sự tích hợp của tính lịch sử (gắn với thời chiến) và tính hiện sinh (gắn với thời bình). Tất nhiên, tính lịch sử trong biểu tượng này không chỉ là sự tưởng nhớ quá khứ mà còn là chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc luôn tồn tại bền bỉ trong tâm thức người Việt.
Trong đó, người Việt luôn nhắc nhở mình sẵn sàng tiếp nối truyền thống hào hùng bảo vệ Tổ quốc, sẵn sàng chiến đấu vì độc lập dân tộc.
Bản chất của văn hóa là sự đồng thuận của cộng đồng, một hiện tượng chỉ có thể tồn tại khi nó được sinh ra phù hợp với tâm tư, tình
cảm, mong ước, nghĩa là phù hợp với đời sống của nhân dân. Và chỉ có như vậy, văn hóa nói chung và nghi lễ phát lương nói riêng mới có con đường phát triển theo hướng được bồi đắp. Nghi lễ phát lương mặc dù mới ra đời nhưng biểu tượng của nó là sự tiếp nối của những gì vốn đã tồn tại thẳm sâu trong tâm thức dân gian, vì thế nên nghi lễ đã thu hút được sự quan tâm của nhân dân, trở thành một hoạt động văn hóa có sức sống mãnh liệt.
Tương truyền, khi có chiến tranh, nhân dân tự nguyện đóng góp lương thực vào kho lương của nhà Trần. Nay lại có nghi lễ Phát lương từ kho lương nhà Trần cho dân chúng. Như vậy, nhà Trần thu lương từ dân trong chiến tranh và phát lương cho dân khi hòa bình trở lại. Ta có thể bắt gặp sự tương đồng hiện tượng này qua sự kiện Lê Lợi trả gươm cho rùa thần ở hồ Hoàn Kiếm. Khi có chiến tranh, rùa thần cho Lê Lợi mượn gươm chiến đấu. Sau khi chiến tranh kết thúc, Lê Lợi trả lại gươm cho rùa thần. Mượn rồi trả gươm, thu rồi phát lương là quy trình thể hiện quy luật của văn hóa dân gian Việt Nam, sự chuyển hóa tự nhiên từ thời chiến sang thời bình.
Ý nghĩa của các biểu tượng đã chuyển hóa từ sức mạnh đánh giặc sang ổn định trong hòa bình. Đây là biểu hiện của văn hóa Việt Nam, một nền văn hóa có lịch sử phát triển trong điều kiện trải qua nhiều cuộc chiến tranh.
3. Nhóm biểu tượng thiêng trong nghi lễ phát lương
Cũng giống như ở nhiều hoạt động nghi lễ dân gian khác, màu đỏ là một biểu tượng thiêng của nghi lễ phát lương đền Trần Thương. Túi lương được may bằng vải đỏ, được đựng trong hộp đỏ, đặt trên khay có vải đỏ. Màu đỏ trong tín ngưỡng dân gian thường đi liền với thần thánh và sự kiêng kỵ. Ban đầu, màu đỏ tượng trưng cho mặt trời. Khi ấy, nó là một tín hiệu được hình thành theo lối tư duy hoán dụ trực quan: mặt trời màu đỏ nên nhắc tới mặt trời thì nghĩ tới màu đỏ và nhắc tới màu đỏ thì nghĩ tới mặt trời. Người Việt tôn sùng mặt trời từ rất sớm, điều này đã được nhiều
học giả bàn đến. Khi con người tôn thờ mặt trời, màu đỏ đồng nghĩa với sự linh thiêng của mặt trời, là màu của sức mạnh siêu nhiên, màu ở trên cao (trên trời). Dựa trên ý nghĩa này, ý nghĩa rộng hơn bắt đầu phát triển. Không chỉ là màu tượng trưng cho tín ngưỡng thờ mặt trời, màu đỏ cũng tượng trưng cho thần thánh nói chung, cho “đấng trên cao” ngoài tầm với của con người và sự kiêng kỵ.
Ta có thể hình dung cụ thể qua sơ đồ như sau:
Màu đỏ - Mặt trời (Sự liên tưởng)
↓
Màu đỏ -Thần Mặt trời (Lớp nghĩa 1)
↓
Màu đỏ - sức mạnh siêu nhiên, đấng trên cao (Lớp nghĩa 2)
↓
Màu đỏ - linh thiêng, kiêng kỵ (Lớp nghĩa 3)
…
Màu đỏ trong trường hợp ở đền Trần Thương cũng không nằm ngoài dòng chảy ý nghĩa này của tổng thể tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Tuy nhiên, khác với nhiều nơi, ở đền Trần Thương, màu đỏ thường đi cùng với màu vàng.
Ta có thể thấy được điều này trên trang phục quân rước, trên túi lương (vải đỏ thêu chữ vàng). Đó là sự gợi nhắc tới lá cờ thêu sáu chữ vàng “phá cường địch, báo hoàng ân” của Trần Quốc Toản trong cuộc chiến lịch sử với quân Nguyên Mông lần thứ hai.
Túi lương đựng ngũ cốc gồm có đỗ đỏ, đỗ xanh, hạt đậu nành, ngô đỏ, thóc nếp cái hoa vàng. Ở đó chứa đựng ý nghĩa về con số 5, gắn với quan niệm về ngũ hành của Đạo giáo. Trong văn hóa Việt Nam, con số 5 là biểu tượng đã được tiếp biến từ Đạo giáo, trở thành một biểu tượng dân gian. Ở trường hợp đền Trần Thương, màu sắc dân gian gắn với màu sắc Đạo giáo rất rõ, bởi dòng đồng nhà Trần (trong tương quan với dòng đồng Thánh Mẫu) chịu ảnh hưởng của Đạo giáo sâu sắc, đến mức có
nhiều người cho rằng đây là một biến thể của Đạo giáo khi du nhập vào Việt Nam. Có lẽ bởi thế mà biểu tượng con số 5 được chuyển tải qua năm loại hạt làm lương thực mang ý nghĩa kép đặc trưng. Ngũ cốc vừa là biểu tượng của dòng Đạo giáo, vừa là biểu tượng của văn hóa dân gian, thể hiện sự trọn đầy, sung túc, giống như mâm ngũ quả trên bàn thờ người Việt vậy.
Cũng bởi thế mà ý nghĩa của ngũ cốc càng tô điểm thêm tính chất phồn thực của nghi lễ phát lương.
Nghi lễ Phát lương được diễn ra vào giờ thiêng, giờ chính Tý (12 giờ đêm). Đây được coi là thời điểm tâm linh, huyền bí, là thời điểm giao thoa giữa ngày cũ và ngày mới, là lúc trời tối nhất, đêm lặng nhất. Nếu như ban ngày là dương, ban đêm là âm thì giờ tý là cực âm. Đây cũng là thời khắc thiêng gắn với thế giới âm, thế giới thần linh. Bởi thế mà nhiều nghi lễ dân gian được tổ chức trong đêm. Ở đền Hát Môn
liền với chủ nghĩa yêu nước, ý thức về lịch sử của người Việt. Bởi thế, nghi lễ Phát lương đền Trần Thương dễ dàng có được sự đón nhận nhiệt tình và đầy trân trọng từ nhân dân địa phương cũng như khách thập phương.
Dưới góc nhìn biểu tượng, nghi lễ Phát lương đền Trần Thương là một hiện tượng đáng chú ý, cần được nghiên cứu sâu hơn nữa.
Bởi ở đây ta thấy sự vận động, chuyển hóa, tích hợp của các lớp nghĩa biểu tượng rất rõ nét.
Là một nghi lễ mới xuất hiện, song các biểu tượng được hình thành đã gắn bó với tâm thức dân gian, được cộng đồng đồng thuận và đón nhận. Điều này không chỉ có ý nghĩa đối với nghiên cứu biểu tượng văn hóa mà còn gợi mở ý tưởng cho việc nghiên cứu về sự vận động, biến đổi của đời sống văn hóa nói chung.
C.T.H (Khoa Văn hóa học, Trường ĐHVH HN)
thờ Hai Bà Trưng, lễ mộc dục cũng được diễn ra vào giờ tý. Khi giờ thiêng điểm, cả làng rước Hai Bà ra khỏi đền, đến nhà Mộc Dục. Trong đêm, Hai Bà được rước đi trang nghiêm, dân làng không được nhìn thấy Hai Bà, kể cả thời khắc rước Hai Bà lên và xuống kiệu cũng hoàn toàn phải đảm bảo không ai được nhìn thấy. Ở làng Dương Liễu (thuộc huyện Hoài Đức - Hà Nội), trong hội làng, khi rước kiệu Thánh từ đình về đến quán, dân làng tắt đèn ở quán đi và hú hét trong bóng tối cho đến khi đưa được Thánh xuống kiệu, vào trong hậu cung. Đêm tối tạo nên sự thiêng liêng, và giờ Tý, khi trời tối nhất là giờ cực thiêng, ban tổ chức nghi lễ phát lương đền Trần Thương chọn giờ này để bắt đầu là một sự lựa chọn gắn chặt với tâm linh dân gian.
Thay lời kết
Nghi lễ Phát lương đền Trần Thương là
Tài liệu tham khảo
1. Chevalier, J., Gheerbrant, A. (1997), Từ điển Biểu tượng Văn hóa Thế giới, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
2. Cirlot, J.I. (Jack Sage, trans.) (2011), A Dictionary of symbols, Routledge, London.
3. Đinh Hồng Hải (2011), Ngôn ngữ biểu tượng trong đời sống văn hóa của người Cơ tu, Luận án tiến sĩ Nhân học văn hóa, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội.
4. Nguyễn Kim Hoa (2004), Biểu tượng nữ thần trong tôn giáo Đông – Tây, Tạp chí Khoa học về phụ nữ, 6 (67), pp. 41- 47.
5. Sorensen, J., Ritual as Action and Symbolic Expression, https://au.academia.edu/
JesperS%C3%B8rensen nghi lễ giàu tính biểu tượng. Ở đó ta thấy sự
vận động của biểu tượng với sự bồi đắp, tích hợp các lớp nghĩa. Cũng bởi thế mà nghi lễ này chạm tới những vấn đề thuộc về tâm thức sâu xa của con người, phục vụ cho những ước mong phồn thực vĩnh cửu của con người, gắn
Ngày nhận bài: 23 - 2 - 2017
Ngày phản biện, đánh giá: 2 - 3 - 2017 Ngày chấp nhận đăng: 25 - 3 - 2017