TẠP Cli CÓNG iMMt
PHÁT TRIẾN HỢP tác xã nông nghiệp
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THANH HÓA
• LÊ BÁ LƯƠNG
TÓM TẮT:
Hợp tác xã nông nghiệp (HTXNN) trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa đã có những bước phát triển nhất định, ngày càng giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của địa phương. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, việc phát triển hợp tác xã nông nghiệp vẫn còn một sô' khó khăn, hạn chế. Bài viết phân tích, đánh giá thực trạng phát triển HTXNN trên địa bản tỉnh Thanh Hóa bao gồm phát triển về sô' lượng và chất lượng. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường phát triển hợp tác xã trên địa bàn trong thời gian tới.
Từ khóa: phát triển, hợp tác xã nông nghiệp, tỉnh Thanh Hóa.
1. Đặt vấn đề
Thanh Hóa là tỉnh có sô' HTXNN cao thứ 3 trong cả nước. Năm 2020, với 699 HTXNN đang hoạt động, đã góp phần quan trọng trong việc phát triển sản xuất - kinh doanh của hộ thành viên và nông dân trên địa bàn. Các HTXNN đã phát huy vai trò hỗ trợ, thúc đẩy kinh tê' hộ phát triển bằng việc thực hiện tôt các dịch vụ như: thủy lợi; sản xuất, cung ứng giống cây trồng, vật nuôi; cung ứng vật tư, khuyến nông, làm đất, bảo vệ thực vật;
tín dụng; tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên, việc phát triển HTXNN vẫn còn khá nhiều khó khăn, hạn chế, còn nhiều HTXNN hoạt động cầm chừng, thua lỗ kéo dài, dừng hoạt động. Vì vậy, việc đánh giá phát triển HTXNN trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa trong thời gian qua và từ đó đề xuất giải pháp tăng cường phát triển HTXNN trong thời gian tới là hết sức cần thiết.
2. Thực trạng phát triển hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
2.1. Phát triển vềsôlượngvà quymô HTXNN Sô' lượng và quy mô thành viên tham gia, vôn và giá trị tài sản của HTXNN trên địa bàn tỉnh những năm gần đây phát triển khá ổn định, tăng theo từng năm, chủ yếu là các huyện thuộc vùng
ven biển và vùng đồng bằng tỉnh Thanh Hóa.
Năm 2018, Thanh Hóa có 575 hợp tác xã, đến năm 2020 đã có 699 hợp tác xã, tăng 124 hợp tác xã. bình quân giai đoạn 2018 - 2020 tăng 10,24%.
Trong giai đoạn này, HTXNN cũng thu hút thêm nhiều thành viên tham gia, năm 2020 thu hút được 69.682 thành viên), tổng sô' lao động thường xuyên là 17.112 người, bình quân 24 người/ hợp tác xã. Bình quân cả giai đoạn, sô' thành viên của HTXNN tăng 0,56%. Tuy nhiên, so với giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã năm 2012, sô' lượng HTXNN và thành viên tham gia giảm nhiều, cụ thể năm 2020 so với năm 2015 giảm 164.228 thành viên. Ngược lại, quy mô về vốn và giá trị tài sản lại tăng, năm 2020 tổng sô' vô'n của hợp tác xã là 569.539 triệu đồng, tăng 282.609 triệu đồng so với năm 2015, bình quân 815 triệu đồng/ hợp tác xã và bình quân giá trị tài sản của hợp tác xã tăng từ 1.176 triệu đồng/ hợp tác xã năm 2015 lên 1.758 triệu đồng/ hợp tác xã năm 2020. Các tài sản của HTXNN chủ yếu gồm: Công trình điện, hệ thông thủy lợi, các loại máy móc, thiết bị và cơ sở sản xuất, chê' biến. Trong những năm gần đây, nhât là giai đoạn xây dựng nông thôn mới, nhiều hợp
100 SỐ 17 - Tháng 7/2021
KINH TÊ
Jác xã đã mạnh dạn đầu tư máy móc, thiết bị, nhà xưởng với giá trị lớn để đưa vào dịch vụ sản xuất kinh doanh, như: đầu tư kho lạnh, ô tô vận Ịchuyển sản phẩm,... Như vậy, đến nay, số lượng
|và quy mô HTXNN trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa đã có sự tăng trưởng ổn định so với giai đoạn đầu
|của quá trình chuyển đổi hợp tác xã.
2.2. Phát triển vềchấtlượngHTXNN
về bộ máy tổ chức: Các HTXNN trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa đã tiến hành tổ chức chuyển đổi phù hợp các quy định của Luật Hợp tác xã năm 2012, theo đó, bộ máy tổ chức, quản lý HTXNN trên địa bàn ngày càng được tinh giảm gọn nhẹ hơn. Cán bộ quản lý hợp tác xã bình quân 5 người/hỢp tác xã. Trong đó, sô' cán bộ quản lý có trình độ cao đẳng, đại học trở lên chiếm 25,47%, số cán bộ quản lý có trình độ sơ cấp và trung câp chiếm 43,27%, cán bộ có chứng chỉ tập huân và nghề chiếm 17,64% và chưa qua đào tạo chiếm I 13,62%.
về hình thức hoạt động: Các HTXNN đã mở rộng hình thức hoạt động sản xuât - kinh doanh với đa dạng lĩnh vực ngành nghề và địa bàn hoạt động. Trong các hình thức hoạt động, hình thức hợp tác xã chỉ thực hiện các loại hoạt động dịch vụ có tỷ lệ nhiều nhất, chiếm 53,36% tổng sô' HTXNN. Loại hình hợp tác xã vừa sản xuâ't và vừa tiêu thụ sản phẩm, là mô hình vừa phục vụ nhu cầu thành viên hợp tác xã, vừa phục vụ nhu cầu sản xuâ't - kinh doanh của hộ nông dân trên địa bàn trong và ngoài xã chiếm 41,63% tổng sô' HTXNN, nhưng loại hình này đang có xu hướng tăng. Mức độ cung câ'p các dịch vụ của các HTXNN cũng ngày càng mở rộng, hợp tác xã cung câ'p ít nhât là một khâu dịch vụ và đã có hợp tác xã cung câ'p đến 12 khâu dịch vụ, từ khâu thủy lợi, làm đâ't cho đến khâu bao tiêu sản phẩm.
về liên kết sản xuâ't và tiêu thụ sản phẩm:
trong các HTXNN đều có nhiều hình thức liên kết đa dạng gồm liên kết giữa hộ sản xuất - hộ sản xuâ't, hộ sản xuâ't - hợp tác xã, hợp tác xã - doanh nghiệp, hộ sản xuâ't - hợp tác xã - doanh nghiệp.
Liên kết được thực hiện cả trong việc cung câ'p vật tư đầu vào, hướng dẫn kỹ thuật, chuyển giao công nghệ và chế biến, tiêu thụ sản phẩm giữa hộ sản xuâ't - hợp tác xã - doanh nghiệp. Đặc biệt, sau khi chuyển đổi hoạt động theo Luật Hợp tác xã năm 2012, các HTXNN đã chủ động tìm kiếm, hợp tác
với các doanh nghiệp, các hợp tác xã bạn để liên kết sản xuâ't và bao tiêu sản phẩm.
Đến nay, có 413 hợp tác xã tham gia liên kết bền vững, chiếm 59,1% sô' HTXNN toàn tỉnh, tập trung chủ yếu ở các xã đạt chuẩn nông thôn mới.
Các hợp tác xã này đã có sự liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp - hợp tác xã - hộ sản xuâ't, chủ động tìm kiếm bạn hàng là các doanh nghiệp, các hợp tác xã tiêu thụ sản phẩm để ký kết hợp đồng tiêu thụ nông sản, ký kết thỏa thuận với các hộ sản xuâ't để bao tiêu sản phẩm, đã hình chuỗi liên kết sản xuâ't và tiêu thụ. Điển hình như chuỗi liên kết sản xuâ't, tiêu thụ mía đường với Công ty CP Mía đường Lam Sơn và Công ty CP Mía đường Việt Đài; chuỗi liên kết sản xuâ't lúa gạo với Công ty Giông cây trồng Trung ương, Công ty Thương mại Sao Khuê; chuỗi liên kết sản xuâ't rau an toàn giữa Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Phú Lộc và Công ty CP Thực phẩm xuâ't khẩu Đồng Giao,...
Kết quả sản xuâ't, kinh doanh: Tổng doanh thu và lợi nhuận của HTXNN tăng trưởng khá, năm 2020 doanh thu bình quân của một hợp tác xã đạt 1.446 triệu đồng/hợp tác xã, tăng gấp 1,49 lần so với năm 2015. Lợi nhuận bình quân của một hợp tác xã 165 triệu đồng/hợp tác xã, bình quân tăng 74 triệu đồng/hợp tác xã so với năm 2015. Lợi nhuận bình quân của các hợp tác xã tăng dần qua các năm, do các hợp tác xã sau khi chuyển đổi theo Luật Hợp tác xã năm 2012 đã tích cực mở rộng các loại hình dịch vụ kinh doanh. Hoạt động này đã mang lại thu nhập bình cho lao động làm việc thường xuyên là thành viên trong hợp tác xã 2,7 triệu đồng/người/tháng, tăng 1,53 triệu đồng/người/tháng so với năm 2015, thu nhập bình quân của lao động làm việc thường xuyên nhưng không là thành viên trong hợp tác xã là 1,7 triệu đồng/người/tháng.
3. Một sô' hạn chế trong phát triển kinh tế HTXNN trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
- Sô' lượng HTXNN tăng dần qua các năm, tuy nhiên, số lượng HTXNN hoạt động yếu kém và ngừng hoạt động phải giải thể theo Luật còn nhiều. Tỷ lệ HTXNN xếp loại trung bình, yếu còn cao. Năm 2020, sô' lượng HTXNN hoạt động xếp loại tô't chỉ chiếm 18,6%, HTXNN xếp loại khá chiếm nhiều nhâ't là 40,5%, còn lại là sô' hợp tác xã loại trung bình chiếm 28,6% và yếu kém chiếm 3,0%, chưa đủ tiêu chuẩn xếp loại chiếm 9,3% và
SỐ 17-Tháng 7/2021 101
TẠP CHÍ CÔNG THƯƠNG
có 45 hợp tác xã tạm dừng hoạt động. Một số xã chưa có hợp tác xã đặc biệt các huyện miền núi nhưMướng Lát, Quan Hóa,..
- Số lượng đội ngũ cán bộ quản lý HTXNN chưa qua đào tạo cơ bản còn nhiều, hoạt động điều hành của một số hợp tác xã còn mang tính kinh nghiệm truyền thông; một số thành viên còn thiếu trách nhiệm với hợp tác xã, thiếu sự năng động, sáng tạo, để chủ động xây dựng hợp tác xã phát triển theo đúng tiến trình phát triển của HTXNN. Đây là trở ngại lớn nhất, khó khăn nhất khi bước vào tổ chức lại hoạt động của hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã năm 2012.
- Việc liên kết tiêu thụ sản phẩm, hoặc trực tiếp làm dịch vụ tiêu thụ sản phẩm của các HTXNN đã giúp nông dân tránh được tình trạng bị ép giá, nâng cao giá trị sản phẩm, lợi nhuận và hiệu quả sản xuất, nhát là đối với những hộ sản xuât thiếu kinh nghiệm và thiếu vốn đầu tư. Tuy nhiên, diện tích, sản lượng liên kết của các hợp tác xã còn ít, thời hạn hợp đồng ngắn, giá trị hợp đồng chưa cao. Mặt khác, do sản xuẩt còn ở quy mô nhỏ lẻ nên chất lượng sản phẩm không đồng đều dẫn đến giá cả tiêu thụ còn thâ'p.
4. Giải pháp tăng cường phát triển HTXNN trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
Thứ nhất, tăng cường phát triển về số lượng HTXNN. thu hút thành viên tham gia: các địa phương chủ động xây dựng kế hoạch hàng năm và nhu cầu kinh phí để thực hiện công tác tuyên truyền, tư vân, thành lập HTXNN. phối hợp với các đoàn thế tỉnh, các địa phương cấp huyện, câ'p xã trong vận động phát triển các loại hình HTXNN. Đặc biệt, trực tiếp làm việc với các huyện miền núi cao, những địa phương có nhiều xã chưa có HTXNN để tư vân, hỗ trỢ; chú trọng thành lập các hợp tác xã phù hợp với nhu cầu.
điều kiện và thế mạnh của từng địa phương.
Mặt khác, trên cơ sở "Chương trình mồi xã một sản phẩm”, lựa chọn những sản phẩm đặc thù cho làng xã ở các vùng để vận động thành lập các HTXNN gắn với sản phẩm OCOP của địa phương, như: Lựa chọn các tổ hợp tác đang hoạt động có hiệu quả để vận động nâng lên hợp tác xã hoạt động có hiệu quả; vận động những chủ trang trại có quy mô sản xuất tương đối lớn để tuyên truyền, vận động cùng nhau thành lập hợp tác xã. Đôi với
các sản phẩm sản xuất ở nhiều nông hộ thì tập trung vận động những người nông dân và người lao động sản xuất giỏi (có thể là các trưởng thôn, bản) có kinh nghiệm, uy tín đôi với cộng đồng để đứng ra làm sáng lập viên thành lập hựp tác xã.
Thứ hai, nâng cao trình độ cán bộ quản lý HTXNN: Xây dựng, quy hoạch phát triển đội ngũ cán bộ hợp tác xã, lấy đó làm cơ sở thực hiện công tác cán bộ hợp tác xã trong những năm tới. Hoàn thiện cơ chê tuyển chọn, đào tạo. bồi dưỡng, thu hút và sử dụng đội ngũ cán bộ, ở mỗi chức danh cần có nghiệp vụ chuyên môn cụ thể đáp ứng với cơ chế hoạt động của hợp tác xã. Đối với cán bộ chủ chốt như giám đốc hợp tác xã đòi hỏi phải có tư chất, có trình độ tổ chức, tập hợp được thành viên thực hiện các mục tiêu mà hợp tác xã đã đề ra, tạo được công ăn việc làm tăng thu nhập cho thành viên.
Thứ ba, tăng cường hình thức liên kết, hợp tác, xây dựng mô hình HTXNN gắn với chuỗi giá trị:
Dựa vào lợi thế của địa phương, các hợp tác xã hướng đến vừa thực hiện sản xuất, vừa bao tiêu sản phẩm OCOP, tham gia xây dựng các cửa hàng để giới thiệu sản phẩm và bán hàng OCOP; xây dựng phương án hoạt động gắn việc sản xuất với tiêu thụ sản phẩm OCOP theo chuỗi liên kết giá trị, lây OCOP làm một hướng đột phá sẽ tạo được chuyên biến về hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã.
Thứ tư, nâng cao kết quả hoạt động của các HTXNN trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa: Đối với HTXNN quy mô nhỏ. hoạt động kém hiệu quả, chính quyền câp huyện, xã cần vận động, hỗ trợ và hướng dẫn các HTXNN này giải thể hoặc hỗ trợ chuyển đổi sang loại hình kinh doanh khác.
Đối với HTXNN hoạt động có hiệu quả, cần tập trung nguồn lực từ ngân sách nhà nước và xã hội, đồng thời lồng ghép các nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế tập thể với các Chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương, nhằm thu hút các nguồn lực triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển hợp tác xã; Ưu tiên phát triển các HTXNN gắn với chuỗi giá trị trong nông nghiệp, các HTXNN chuyên sâu gắn với các vùng sản xuất hàng hóa tập trung có quy mô lớn; các hợp tác xã ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất và tiêu thụ nông sản
102 SỐ 17-Tháng 7/2021
KINH TẾ
và các hợp tác xã sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm gắn với sản phẩm OCOP của tỉnh.
5. Kết luận
Với sự phát triển cả về số lượng và chất lượng, đến nay HTXNN trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa đã từng bước khẳng định vị trí, vai trò trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, nhưng cũng đang gặp phải một sô' khó khăn, hạn chế. Trên cơ sở đánh giá thực trạng này, chính quyền tỉnh Thanh Hóa cũng như các hợp tác xã cần thực hiện các giải pháp để tăng cường phát triển HTXNN trên địa bàn trong thời gian tới ■
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Cục Thống kê tỉnh Thanh Hóa (2020), Niên giám thông kê tỉnh Thanh Hóa năm 2020, NXB Thống kê.
2. Quốc hội (2012). Luật Hợp tác xã năm 2012.
3. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2020). Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện phát triển hợp tác xã nông nghiệp giai đoạn 2016 - 2020.
4. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2020). Báo cáo kết quả thực hiện Đề án củng cố, phát triển hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2016 - 2020.
Ngày nhận bài: 17/6/2021
Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 28/6/2021 Ngày chấp nhận đăng bài: 15/7/2021
Thông tin tác giả:
LÊ BÁ LƯƠNG
Học viên cao học, Trường Đại học Vinh
THE DEVELOPMENT OF AGRICULTURAL COOPERATIVES IN THANH HOA PROVINCE
• Masters student LE BA LUONG Vinh University
ABSTRACT:
Agricultural cooperatives in Thanh Hoa Province have obtained certain development achievements and have played an increasingly important role in the provincial economic development. However, besides the achievements, the development of Thanh Hoa Provinces agricultural cooperatives has still faced some difficulties and challenges. This paper analyzes and evaluates the current development of agricultural cooperatives in Thanh Hoa Province in terms of quantity and quality. Based on the papers findings, some solutions are proposed to facilitate the development of provincial agricultural cooperatives in the coming time.
Keywords: development, agricultural cooperative, Thanh Hoa Province.
SỐ 17-Tháng 7/2021 103