• Tidak ada hasil yang ditemukan

Phát triển bền mại Việt Nam thông qua cam kết môi trường

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "Phát triển bền mại Việt Nam thông qua cam kết môi trường"

Copied!
4
0
0

Teks penuh

(1)

NGHIÊN cứa - TRAO Đổi

Phát triển bền vững hệ thông

Ngân hàng thương mại Việt Nam thông qua cam kết môi trường

- hội - quản trị

1 TRẦNNGỌC TIẾN*

*ThS., Phòng Tổ chức cán bộ - Học viện Ngân hàng

Việc triển khai các tiêu chí môi trường, xã hội và quản trị (ESG) vào hình kinh doanh hiện của các Ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam vẫn đang những bước khởi đầu. Hầu hết các NHTM đều gặp nhiều khó khăn trong việc đánh giá các rủi ro xuất phát từ sự thay đổi môi trường và xã hội ảnh hưởng đến khả năng tài chính hoạt động kinh doanh, đi kèm vơi việc khó tách biệt các sản phẩm xanh và sản phẩm truyền thống để đánh giá rủi ro. Bài viết tập trung vào giải quyết các thách thức này đốì với hệ thống NHTM Việt Nam để thúc đẩy không chỉ tuân thủ quy định ESG, mà còn hướng tới việc tạo ra giá trị bền vững và lâu dài trong tương lai.

XU HƯỚNG CAM KẾT ESG TRONG LĨNH vực TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG

Thuật ngữESG (Environment - Social - Governance) đề cập lần đầu tiên trên thị trường chứng khoánvào những năm 1990 về 3 vấn đề: Môi trường, Xã hội, Quản trị vàđược sửdụng để xác định tính bền vững và mứcđộ ảnh hưởng đến tổ chức. Các nhà đầu tư sẽ đặt niềm tin và quan tâm hơn đến các doanh nghiệp có cam kết thực hiện ESG trong hoạt động kinh doanhvà coipháttriển bền vững là mục tiêudài hạn của mình.

Ngay cảtrước khi đại dịchCovid-19 làm đảolộn và gián đoạncáchoạt động xãhội và kinhdoanh,thì phong trào ESG đã phát triển mạnh mẽ. Đại dịch Covid-19 trong 2 năm vừa qua (2020-2021) đãthúcđẩy nâng cao nhận thức của lãnh đạo các tổ chức về các cú sốc bên ngoài có thể tácđộngnhanhvà mạnhmẽ đến nền kinh tế toàn cầu,cũngnhư mức độ tin cậyvà minh bạchđối với hoạt động của nền kinh tế nói chung vàcác tổ chức nói riêng. Theo kết quả khảo sát của PwC (thựchiện vào tháng 9/2021), đối với các nhà quản lý và phân tích tài sản của các côngtyđầu tư, ngânhàng, công ty mồi giới trêntoàn cầu cho thấy: 79% người được hỏi cho rằng, phương pháp quản lý rủi ro và cơ hội đầu tư hên quantới ESG là yếu tô quantrọng khi đưa ra quyết định đầu tư vàomột công ty; có 49% người được hỏi cho biết sẽ sẵn sàng rút vón khỏi các công ty không thực hiện trách nhiệm của họ về ESG. Trong thực tế, một số quỹ đầu tưở châu Âu sẵn sàng rút vốnra khỏi

các công ty không tuân thủ các cam kết về ESG. Ví dụ như KLP - Quỹ hưu trí công cộng ởNa Uy đã bán cổphần của mình tại 46 doanhnghiệp không đạt tiêu chuẩn, đặc biệt là các doanh nghiệp có từ 5% doanh thu trở lên liên quan đến than [2], Cùng với đó nhà đầu tư ở nhiều quốc gia trên thế giới cũng đang có xu hướng lựa chọn các doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc các cam kết ESG trong hoạt động kinhdoanh.

Đi kèm với cam kết thực hiện ESG, các sáng kiến toàn cầu về trách nhiệm môi trường- xã hội (MT-XH)ngàycàng nhận được sự quan tâm của các chính phủ, tổ chức trên thê giới. Điển hình là các nguyên tắc hướngdẫnvềquyền con người của Liên hợp quốcvới 31 nguyên tắc nhấn mạnh đến vai trò của nhà nước, doanh nghiệptrong việc thực hiện khung “tôn trọng - bảo vệ - biệnpháp”.

Xem xét ởlĩnh vựctài chínhngân hàng - ngành không được xem là tác nhân trực tiếp có tác động tiêu cực đến môi trường - đã gián tiếp có những tác động đến môi trường sinh thái do hoạt động chovayđôi với các dựán liên quan đến môi trường. Theo đó, trongnhiều trường hợp lĩnhvựctài chính ngân hàng lại trở thành tác nhân cho hành vi gây nguy

20

Kinh Dự báo

(2)

hại khc tín

đến môi trường, nên gây ảnh hưởng ng nhỏ đến chát lượng tín dụng, uy và lợi nhuận của ngân hàng trong hạn. Do đó, cam kết thực hiện ESG ngay càng trở thành xu thế tất yếu cho mụctiêu phát triển bền vững, giảmthiểu các tác động tiêu cực đến MT-XH và đời sống con người củangành tài chínhngân hàng. Các cam kếtESG củalĩnh vựctài chính ngân hàng được thể hiện khá rõ net qua các nguyên tắc, như: Nguyên dài

tắc hoạt động của Ngân hàng có trách nl i ~iệm của Liên hợp quốc (UN PRB) nắm 2019; Thỏa thuận khí hậu Paris;

Nguyên tắc UNEP FI về Tài chính tác đong tíchcực; BộTiêu chuẩn hoạtđộng N ôi trường và Xã hội của Tổ chức Tài chính Quôc tê (IFC); Hướng dẫn chung Nlôi trường, Sức khỏe và An toàn (EHS) của Ngân hàng Thế giới (World Blank); Bộ Nguyên tắc Xích đạo (EP)...

Iic nguyên tắc đều hướng tớimục tiêu át triển bền vững ngân hàng gắn

|u quả hoạt động ngân hàng với lợi 1MT-XH.

Đê’ hiện thực hóa cam kết ESG, một ngânhàng trên thế giới đã đưa những an điểm rõ ràng về ESG thông qua CCtừ chòi chovayđôi vớinhữngdự án y tác hại đến môi trường. Điển hình ư: Ngân hàng OCBC của Singapore- Igân hàng Đông Nam Á đầutiên tuyên 3Ô’sẽ không còn tài trợ cho các nhà máy nhiệt điện than mới và đưa ra cam kết

tài trợ 7,02 tỷ USD (tương đương với 10 tỷ SGD) đô’i với danh mục tài chính bền vững vào năm 2022; Ngân hàng Standard Chartered Asia đã cam kết tài trợ 75tỷ USD cho các mục tiêu phát triển bền vững, trong đó có 35 tỷ USD được phân bổ cụ thểcho lĩnh vực công nghệ sạch và năng lượng tái tạo và 40 tỷ USD còn lại dành cho cơ sởhạ tầng bền vững [3].

CAM KẾT THỰC HIÊN ESG TRONG HỆ THỐNG NHTM VlỆr NAM

Trách nhiệm của hệ thống NHTM trong thựchiện ESG

Tại Việt Nam, nền kinh tế tăng I1 trưởng chủ yếu dựa vào khai thác xuâ’t 1 khẩu tài nguyên thô, đã đẩy người dân phải đối mặtvới các thách thức nghiêm trọng từ biến đổi khí hậu; ô nhiễm môi trường; gia'tăng phát thải carbon... Do đó, việc lựa chọn mô hìnhđầu tưvà kinh doanh bền vững của tât cả các chủ thể

trong nền kinh tế cũng được khuyến khích phát triển, nhất là trong lĩnh vựctàichính ngân hàng - một trong các lĩnhvực có tácđộngliên ngành và ảnh hưởng lớn đến nhiều ngành kinh tế khác trong xã hội. Như vậy, theo đuổi mô hình phát triển bền vững, các NHTM hoạt động không chỉ quantâmđến mụctiêulợi nhuận là duy nhát mà kết hợp hài hòavới việc thúc đẩy trách nhiệm đôi với MT-XH trong hoạt động kinh doanh.

Cam kết mạnh mẽ nhát của ViệtNam hướng tới phát triển bền vững ngành ngân hàng là việc thamgia và trở thành một trong những thànhviên của mạng lưới ngân hàng bền vững - mạng lưới tự nguyện của các cơ quan quảnlý nhà nước trong lĩnh vực tài chínhvà hiệp hội ngân hàng tạinhững thị trường mới nổi. Cam kết thúc đẩy tài chính bền vững được triển khai với ba trụ cột: (i) Chính sách của quốc gia phù hợp với các cam kếtvà thônglệ quốctế; (ii) Tài chính xanhvà khíhậu:

những sản phẩm tài chính có mục tiêu về khí hậu, môi trườngvà xã hội ngày càng phổ biến để đạt được mục tiêu phát triển bền vững; (iii) Tích hợpcác yếu tô’ môi trường - xã hội - quản trị trong hoạtđộngkinh doanh ngân hàng nhằm giảm thiểu rủi ro tín dụng, góp phần phát triển bền vững. Tronggiai đoạn đầu của mô hình ngân hàng bền vững, các NHTM Việt Nam đã có sự tích hợp nhât định các yếu tô ESG trong hoạt động kinh doanh.

Khung khổ pháp lý để thực hiện cam kết ESG được thể hiện thông nhấttrong nhiều văn bản, chính sách của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đưa ra, bao gồm: Quyết định sô’ 149/

QĐ-TTg, ngày 22/01/2020 về việc phê duyệt Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; Quyết định sô’ 1658/QĐ-TTg, ngày 1/10/2021, phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030 và tầm nhìn đến năm 2050; Chỉthị 03/CT-NHNN, ngày24/3/2015 vềthúc đẩy tăng trưởng tín dụngxanhvà quảnlý rủi ro môi trườngvàxã hộitrong hoạt động câ’ptín dụng của ngân hàng; Quyếtđịnhsô’1604/QĐ-NHNN, ngày 07/8/2018 phê duyệt Đề án phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam; Quyết định sô’ 1731/QĐ-NHNN, ngày 31/8/2018 ban hành Kê’hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững; Quyết định 1309/QĐ-NHNN, ngày 24/7/2020 vềban hànhKê’hoạch hành độngcủa ngànhNgân hàng thực hiện Chiến lược tài chính toàn diện quô’c gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030... Mặc dù vậy, việc yêu cầu thực hiện các cam kết ESG trong các văn bản trên mới chỉ mang tính chất định hướng của NHNN mà chưatrở thành khung pháp lý bắt buộc. Đây là mộtphầnnguyênnhânkhiến choviệcthựchiện cam kết ESG trong hoạtđộng của các NHTM trởnên mờ nhạt.

Hiện thực hóaESG trong hệ thốngNHTMViệt Nam Hiện nay, tại Việt Nam một sô’ NHTM đã có nhữnghoạt động triển khai ESG trong hoạt động kinh doanh, nhưng mới chỉ tập trung ở 12 hạng mục (Bảng

1). Điển hình như: Viettinbank đã ban hành chính

Economy and ForecastReview

21

(3)

NGHIÊN cứa - TRAO Đổi

BẢNG 1: CÁC TIÊU CHÍ THựC HIỆN ESG TẠI HỆ THỐNG NHTM VIỆT NAM Môi trường

Bảo vệmõi trường Biến đổi khi hậu Ngànhsản xuât điện Xã hội

Bình đẳng giới Quyền con người

Quyền

laođộng Ngành vũ khí Tài chínhtoàn diện Quản trị

Bảo vệ khách hàng Chống tham những

Minh bạch và trách nhiệm

giảitrình Thuế

BẢNG 2: ĐIỂM TRUNG BÌNH CAM KET ESG cuatừng NHTM

STT Ngân hàng Điểm

ESG (/10)

Điểm yếu tế E (/10)

Điểm yếu tố s (/10)

Điểm yếu tố G (/10)

1 Agribank 0,99 0.16 1.44 1,10

2 B1DV 0.93 0.16 1.34 1,00

3 Eximbank Vietnam 0,90 0,00 0.86 1.60

4 LienVietPostbank 1.19 0,00 1.26 2.00

5 MSB 1,05 0.16 1.42 1.30

6 Techcombank 0,76 0.16 0.77 1,20

7 VIB 1.04 0.16 0.72 2.10

8 Vietcombank 0,73 0,16 0.62 1.30

9 Vietinbank 1.01 0.16 1,16 1.50

10 VPBank 2,52 1.52 2,95 2,70

11 Trungbình các NHTM 1,1 0.3 1.3 1.6

sách MT-XH trong hoạt động cấp tín dụng từ năm 2011;BIDV đãlồng ghép một số tiêu chuẩn củaSáng kiến báo cáo toàn cầu (GRI) vào báo cáo Phát triển bền vững; Năm 2016, VPBank xây dựng hệ thông quản lý rủi ro MT-XH và ban hành các Chính sách dựa trên cơ sở tuân thủ theo luật pháp Quốc gia và các Tiêuchuẩn Hoạt động Môi trường và Xã hội của Công ty Tài chính Thế giới (IFC); Sacombank xây dựng hệ thông quản lý trách nhiệm MT-XH theo các chuẩn mực quốc tế, các chuẩn mực thực thi của IFC và tiêu chuẩn về MT-XH của Việt Nam. Tuy nhiên, so với yêu cầu đặt ra từcác cam kết Việt Nam đã tham gia về phát triển bền vững ngành Ngân hàng, việc thựchiện ESG của các NHTM Việt Nam mớichỉ ở mứcđộ khởi đầu.

Theo kết quả khảo sát của Nhóm Sáng kiến Fair Finance Việt Nam - FFV(2021) đôi với 10 NHTM có các khoản cho vay đối với các dự án gây phát thải lớn đến môi trườnghoặc có vón điềulệ lớn trong hệthông ngân hàng về cam kết thực hiện ESG cho thấy, điểm trungbình của 10NHTM cho cả 3 yếu tố: Môitrường- Xã hội- Quản trịở mứcrất tháp 1,1/10 điểm (Bảng 2).

Tương tự, chính sách côngkhai của các NHTM, những cam kết về môi trường có điểm sô' tháp nhất. Dù yếu tốXãhội (S) và Quản trị (G) được phảnánh tót hơnso

với yếu tô'Môi trường (E); tuy nhiên, vẫn chỉở mức dưới trung bình.

về yếu tô' Môi trường(E), các NHTM chưa côngbô'công khai trongbất kỳ cam kếtnào cho hai chủ đề Biến đổi khíhậu và Thiên nhiên. Chưa có NHTM nào trong đánh giá có cam kết chính sách công khai ngừng cấp tín dụng cho hoạt động sản xuất điện sử dụng nhiên liệu hóathạchhay tăng mức tín dụng cho các dự ánnăng lượng tái tạo [1].

về yếu tô' Xã hội (S), các NHTM chưa côngbô những cam kết chính sách về quyền lao động, quyền con người và không đầu tư vào ngành vũ khí. Chính sách của NHTM yêu cầu hay khuyến khích khách hàng doanh nghiệp thực hiện các cam kết s còn chưa công khai cụ thể. ít NHTM có chính sách công khai đề cập rõ về cam kết không phân biệt đô'i xử dựa trên cơ sở giới, hệ thống trả lương bình đẳng không căn cứ vào yếu tô' giới tính. 10/10 ngân hàng đều chưa có quy địnhcông khai yêu cầu hay khuyến khích khách hàng doanh nghiệp thực hiện những cam kết về bình đẳng giới [1].

về yếu tô' quản trị (G), tất cả các ngân hàng đều có những chính sách về:

chông tham nhũng, bảo vệ khách hàng, thuế, minh bạch và trách nhiệm giải trình. Tuy vậy, cam kết chính sách về minhbạchvà trách nhiệm giải trình vẫn ở mức hạn chê (0,5/10); và cao nhất là bảo vệ kháchhàng (2,4/10) [1].

Nhìn chung, các NHTM Việt Nam đang thực hiện các cam kết về ESG ở mức rất khiêm tốn. Lý giải điều này có thể kế đến một sô'nguyênnhân sau đây:

Một là, hiện nay Việt Nam đã ban hành rất nhiều các chính sách bảo vệ môi trường như: Luật Bảo vệ môi trường;

Luật Tài nguyên nước; Luật Tài nguyên môi trường và hải đảo, tuy nhiên hiệu quả thực thicác quy định pháp luật chưa cao và đôi khi còn chồng chéo, chưa thông nhất. Nhiều dự án gây ảnh hưởng lớn đếnmôi trường, nhưngvẫn được phê duyệt và cấp giấy phép hoạt động. Ngay trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, mặc dù có các vàn bản pháp luật về quản lý rủi ro MT-XH trong hoạt động cấp tín dụng, song tính bắt buộc chưa cao.

Hai là, nhận thức của bản thân các NHTMcũngnhư các chủ thể khác trong nền kinh tê' về phát triển bền vững, hài hòa lợi ích của tổ chức với MT-XH còn khámơ hồ. Họ coi đây làcáigiá phải trả

22

KinhDự báo

(4)

xử

cho môi trường, chứ không phải một cơ hộtkinh doanh.

Ba là, các thách thức nội bộ đặt ra cho các NHTM Việt Nam trong việc

lý nợ xấu, antoàn thanh khoản, tăng truồng... đã khiến cho mức độ tham gia tích hợp các cam kết ESG trong hoạt độlng kinh doanh chưa được chú trọng.

Bốn là, nguồn lực để thực hiện cam kết ESG của NHTM Việt Nam còn hạn hẹp, nhất là nguồn tài chính thúcđẩy các dự án đầu tư xanh thân thiện môi trường, lực tế, phần lớn nguồn tài chính hỗ trợ u tư xanh đến từ các nguồn tài chính nước ngoài, sự đóng gópcủacác NHTM tuơng đối ít.

TI đá

MỘT KHUYẾN NGHỊ NHAM NÂNG CAO MỨC ĐỘ TH ực HJỆN CAM KẾT ESG TRONG HỆ THÔNG NHJMV|ỆT NAM HƯỚNGTỚI PHÁT TRIỂN BEN VỮNG

Đốìvới Chính phủ

- Nhà nước cần hoàn thiện hệ thống chính sách phápluật liên quan đến vânđề bảo vệ MT-XH, thông nhất nộidung các

||uyđịnh, chính sách bảo vệ môi trường từ /rung Ương xuốngđịaphương. Đưa ra các iêu chuẩn đánh giá đối với từng ngành Ighề, lình vực, quy định cụ thể lĩnh vực lào được ưu tiên đầu tư, lĩnh vực nàohạn

hêthậm chíkhông đượcphép đầu tư.

- Cần đưa các mục tiêu phát triển kinh tế dựa trên sự an toàn bền vững của MT-XH vào trong tất cả các hoạt động kinh tế và phải được thể chế bằng các giải pháp cụ thể thông qua các chính sách thuế, phí và các biện pháp tuyên truyền nâng cao nhận thức và các chế tài xử phạt.

- Tích cực tham gia hội nhập quốctế nhằm tăng cường sựhợp tác quốc tếvà khu vực về các nguồn lực, như: nguồn vón, kinh nghiệm triển khai đầu tư xanh, phát triển bền vững.

Đốì với NHNN

- Dựatrên các tiêu chuẩn và thông lệ quốc tếtiến hành xây dựng bộ tiêu chuẩn chung về ESG áp dụng cho các NHTM Việt Nam. Đồngthời, xây dựng cơ chế khuyến khích các NHTM áp dụng bộ tiêu chuẩn ESG trong giai đoạn đầu và tiến tới nhân rộng ra toàn hệ thống bằng cơ chế bắt buộc.

- Hàng năm bên cạnh việc xếp hạng đánh giá các NHTM theo các tiêuchí về quy mô tài sản. nỢ xâu,tăng trưởng tín dụng, NHNN cần xây dựng bộ tiêu chuẩn đánh giá mứcđộ thựchiệncamkết ESG. Yêu cầu các NHTMphải công bô'công khai báocáothực hiệncam kếtESG giông như các báo cáo tài chính khác.

- Chủ động lồng ghép các tiêu chí ESG vào các chính sách của ngành ngân hàng, áp dụng bao quát trong tất cả các nghiệp vụ của NHTM từ huy động vốn,cho vay đến các dịch vụ tài chính khác.

Đốì với hệthông NHTM

Thứ nhất, xây dựng chiến lược và lộ trình cụ thể từng bước áp dụng cam kết ESRtrong hoạt độngkinh doanh. Trước mắt, các NHTM có thế dựa vào nguồn lực sẩncó để lựachọntriển khai mộttrong các yếutô' của ESG để thực hiện. Tiến tới dài hạn, có thể thực hiệntổng hòa các yếu tô này.

Thứ hai, nâng cao nhận thức của ban lãnh đạo và nhânviênngân hàng về các vân đềliên quan đến phát triển bền vững, lợi ích khi thựchiệncáccam kết ESG.

Chỉ khi có nhận thức đúng đắn các NHTM Việt Nam mới có hành động cụ thể để thực hiện hoạtđộng kinh doanh theocáccam kết ESG.

Thứ ba, thực hiện công khai, minh bạch các hoạt động kinh doanh dựa trên cam kếtESG trongcả hoạt động nội bộvà hoạt động bên ngoài. Sự giám sátcủa các cơ quan quản lý nhà nước, cộng đồng, nhà đầu tư và các bên liênquan khác sẽ là động lựcthúc đẩy các NHTM ViệtNam tích cực triển khai và áp dụng ESG mộtcáchtự nguyện và hiệu quả nhâ't.

Thứ tư, nâng cao năng lực của cán bộ ngân hàng.

Việc thực hiện các cam kết ESG mang chuẩn mực quốc tế, nên đòi hỏi các cán bộ ngân hàng phải có trình độ và sự am hiểu nhâ't định. Ví dụ như đô'i với các dựán cho vayliên quan đếnvấn đề MT-XHtrong một sô'lĩnh vực chuyên biệt, như: nàng lượng tái tạo, luôn đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có khả năng thẩm định, đánh giá tác động dự án đến môi trường để đưa ra quyếtđịnhcâ'p tín dụng đúngđắn.ũ

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Fair FinanceViệt Nam - FFV (2021). Hướng tới tài chính bền vững, Cam kếtmôitrường - xã hội - quản trịtrong ngành ngân hàng, truy cập từ https://fairfinanceasia.org/us/post/huong-toi-tai- chinh-ben-vung-cam-ket-chinh-sach-ve-esg-cua-muoi-ngan-hang-thuong-mai-viet-nam

2. PricewaterhouseCoopers - PwC (2021). Báo cáo Môi trường, Xãhộivà Quản trị (ESC), truy cậptừ https://www.pwc.com/vn/vn/services/risk-assurance/sustainability.html

3. Hải Yến (2020),51%ngân hàng ASEAN chưa hoàn thành thậm chí14 tiêu chí ESG, Tạp chí Thị trường Tài chính Tiến tệ, truy cập từ https://thitruongtaichinhtiente.vn/51-ngan-hang-asean- chua-hoan-thanh-tham-chi-tieu-chi-esg-27658.html

Economy and Forecast Review

23

Referensi

Dokumen terkait

Một số tài liệu như: niên giám thống kê qua các năm của Cục thống kê tỉnh Thanh Hóa; Quyết định của Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam, về việc điều

Để ngành Dệt May có sự phát triển bền vững trong những năm tiếp theo, vượt qua ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, mới đây, ông Lê Tiến Trường – Thành viên HĐTV, Phó Tổng giám

trưởng kinh tế với ứng phó BĐKH, để giảm thiểu ảnh hưởng của BĐKH tới phát triển bền vững, như: nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị về bảo vệ môi trường, ứng phó BĐKH, tích cực

đề xuất giải pháp Để các doanh nghiệp nông nghiệp phát triển, nhóm nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững cho doanh nghiệp gồm: Một là, cùng

Như vậy, có thể hiểu, bảo đảm ANMT nhằm phát triển bền vững về kinh tế là sự chủ động của con người trong việc lựa chọn cách thức sử dụng các nguồn lực vào tăng trưởng kinh tế nhằm vừa

Để SDĐ cho phát triển nông nghiệp bền vững cần thực hiện đồng bộ các giải pháp: quy hoạch vùng chuyên canh tập trung kết hợp với mô hình cánh đồng mẫu lớn và “ba cùng”; áp dụng kỹ thuật

Trong nhiều trường hợp, sẽ hữu ích và Băng1; 3 trụ cột, 12thành phần và 51 chi tiêu củachỉ số tiến bộ xã hội Nhu cầu cơ bản con người Nềntảngphúclợi _________________

Oudheusden, p.lại cho rằng, TCTD là việc cung cấp các dịch vụ tài chính phù hợp và thuận tiện cho mọi thành viênxã hội với mức chi phí hợp lý, thông qua những cách thức thuận tiện, phù