PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM CHO VAY LÃI NẶNG _ _ TRONG GIAO DỊCH DÂN sự DƯỚI TÁC ĐỘNG h CỦA CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỬ Tư L
TS. Hà Lệ Thủy *
ThS. Nguyễn Hoàng Anh Tuấn **
C
ách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) bùng nổ đã tác động mạnh mẽvà mang đến thời cơ phát triển cho Việt Nam, tuy nhiên cũng
khiến cho Việt Nam phái đối mặt với những thách thức, trong đó có an ninh phi truyền thống.
Tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao gia tăng nhanh chóng, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, tài chính, ngân hàng. Việc sử dụng mạng internet để thực hiện hành vi phạm tội, trong đó các hành vi liên quan đến hoạt động cho vay lãi nặng cũng đã diễn ra dưới nhiều hình thức trá hình và biến tướng ngày càng tinh vi. Mặc dù không phải là hành vi phạm tội mới nhưng việc diễn ra công khai, dưới nhiều hình thức khác nhau với quy mô lớn và gia tăng theo từng năm, đặc biệt là sự tác động của công nghệ cao, tội phạm cho vay lãi nặng đã gây ra những thiệt hại nghiêm trọng về tài sán, đồng thời kéo theo những hệ lụy của nó. Chính vì vậy, việc
nghiên cứu, nhận diện hành vi phạm tội, thú đoạn phạm tội cho vay lãi nặng đê từ đó đưa ra các giải pháp phòng ngừa loại tội phạm này là điều cần thiết.
1. Hành vi cho vay lãi nặng và pháp luật hình sựhiện hành quy định về tộiphạmchovay lãi nặng
Cho vay lãi nặng là hành vi của cá nhân hay tô chức cho người khác vay tiền với lãi suất cao vượt quá mức lãi suất theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Các đối tượng phạm tội có thể núp bóng dưới danh nghĩa các cơ sở kinh doanh cầm đồ hay các công ty tư vấn tài chính để thực hiện hoạt động cho vay với lãi suất rất cao. Trong tài liệu nước ngoài, một số nhà nghiên cứu cho rằng, cho vay lãi nặng là những hành vi cho vay dưới chuân, khi người cho vay đưa ra mức lệ phí và lãi suất lớn hơn gấp nhiều lần so với rủi ro từ người đi vay1. Hành vi cho vay lãi nặng hay còn gọi là tín dụng đen được
thực hiện khi người cho vay hoặc môi giới có những hành vi như:
lợi dụng điếm yếu của người đi vay bằng cách tính phi rất cao nhưng không tương xứng với rủi ro phải chịu; cho vay vốn ngay cả khi đã biết người đi vay sẽ không thể hoàn trả; hoặc thay đổi các điều khoản cho vay không báo trước, dần tới sự hiểu lầm giừa hai bên2...
Hành vi cho vay lãi nặng xâm phạm đến trật tự quản lý tín dụng của Nhà nước, xâm hại đến chính sách quàn lý Nhà nước về tiền tệ, gây thiệt hại cho lợi ích của người đi vay3. Hành vi cho vay lãi nặng thường nhắm tới những đối tượng là những người nghèo, người dề bị tồn thương, người đang túng quần dẫn tới gây thiệt hại nặng nề cho người đi vay khi họ phải đối mặt với nguy cơ phá sản, nghèo đói và tịch thu tài sản.
Đối tượng cho vay lãi nặng ở đây có thế là cá nhân hay tổ chức, các tiệm cầm đồ tồ chức hoạt động cho vay tín dụng phi chính thức mà không chịu sự kiểm soát của cơ quan Nhà nước có thẩm
TẠP CHI NGAN HANỌ-
quyền. Trong khi đó, khách hàng đi vay là những khách hàng cá nhân, các doanh nghiệp tư nhân nhỏ, hộ kinh doanh buôn bán nhỏ lẻ hoặc những khách hàng không đủ tài sản thế chấp để vay ngân hàng hay thủ tục vay quá rườm rà, quá lâu so với nhu cầu cấp bách của họ.
Bộ luật Hình sự (BLHS) của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa (CHXHCN) Việt Nam cũng đã có quy định về tội phạm liên quan đến việc cho vay lãi nặng.
Trên cơ sở kê thừa Điều 163 BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 (BLHS năm 1999), Điều 201 BLHS năm 2015 quy định vê tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự như sau:
“7. Người nào trong giao dịch dân sự mà cho vay với lãi snẩt gâp 05 lần trớ lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự, thu lợi bất chỉnh từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xỏa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
2. Phạm tội mà thu lợi bất chính 100.000. 000 đồng trở lên, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đên 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. ”
Trước đây, Điều 163 BLHS năm 1999 quy định hành vi phạm tội cho vay nặng lãi với tên tội danh là Tội cho vay lãi nặng.
Trong đó, điều luật quy định mức lãi suất để bị coi là cấu thành tội phạm là cho vay với mức lãi suất
cao nhất mà pháp luật quy định từ mười lân trở lên có tính chất chuyên bóc lột. Quy định này đã không xác định được phạm vi của hoạt động cho vay lãi nặng là trong giao dịch dân sự nên đã dẫn tới có sự chồng lấn với hoạt động cho vay lãi nặng của các tô chức tín dụng, các ngân hàng mà câu thành các tội phạm tương ứng trong lĩnh vực tín dụng, ngân hàng. Thực tế, hoạt động cho vay diên ra giữa các cá nhân với cá nhân hoặc với tổ chức, nên đây thực chất là một giao dịch dân sự.
Xác định được điều này, BLHS năm 2015 đã có những sửa đổi về nội dung cũng như tên gọi của tội phạm này, đó là:
Thứ nhất, xác định rõ hơn hoạt động cho vay lãi nặng là thuộc lĩnh vực giao dịch dân sự nên đã đôi tên tội danh từ Tội cho vay lãi nặng thành Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự, xác định mức lãi suất cao nhất để làm căn cứ xác định hành vi phạm tội là mức lãi suất được quy định trong Bộ luật Dân sự, bỏ đi dấu hiệu có tính chất chuyên bóc lột và thay vào đó là bô sung dấu hiệu thu lợi bất chính, là dấu hiệu hậu quả của tội phạm. Đồng thời, điều luật cũng quy định cụ thể dấu hiệu định tội “thu lợi bất chinh lớn từ 30 triệu dong đến dưới 100 triệu đồng ” và dấu hiệu định khung tăng nặng “thu lợi bất chính từ 100 triệu đồng trở lên Chúng tôi cho rằng, với việc định lượng hóa các dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự là điều thực sự cần thiết, cho thấy quan diêm của các nhà làm luật nước ta đã có sự thay đổi đáng kê. Thay vì sử dụng những dấu hiệu mang tính định tính dẫn đến rất khó trong quá trình áp dụng vào thực tiễn như trước đây hoặc cần phải có những văn bản hướng dần dưới luật, thì nay các nhà làm luật đã sử dụng những dấu hiệu
--- CÓNG NGHE NGÀN HÀNG
mang tính định lượng, tạo điều kiện cho việc thực thi trong thực tiên. Quy định các dấu hiệu theo cách định lượng đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhận thức, áp dụng thông nhất pháp luật và góp phần hạn chế việc vận dụng tùy tiện4. Bởi lẽ, khi quy định các dâu hiệu định lượng, chắc chắn các nhà làm luật phải căn cứ vào thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm cũng như yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tương lai5.
Thứ hai, quy định mức để được coi là phạm tội cho vay lãi nặng là gấp 5 lần mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự, thay vì gấp 10 lần trở lên như BLHS 1999 quy định trước đây. Đông thời, điều luật cũng bổ sung trường hợp đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm làm dấu hiệu cấu thành tội phạm. Với những quy định này có thể thấy, BLHS năm 2015 đã mở rộng phạm vi xử lý hình sự đôi với hành vi cho vay lãi nặng, hình sự hóa các hành vi mà trước đây không bị coi là tội phạm. Sự thay đổi này, theo chúng tôi là phù họp hơn với bối cảnh tình hình hiện tại, tạo hiệu ứng tích cực hơn trong việc xử lý loại tội phạm này. Cũng với cách ấn định mức lãi suất như trong điều luật, có thế tính toán được như sau: Lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định mồi tháng là: 5 lần x 1,666%6 = 8,33%. Do đó, nếu mức lãi cho vay hàng tháng mà cao hơn con số này thì có thể sẽ bị truy tố về tội danh trên.
Thứ ba, về trách nhiệm hình sự, BLHS năm 2015 đã quy định chế tài nghiêm khắc hơn, nâng mức hình phạt cải tạo không giam giữ lên đên 03 năm, cao hơn so với BLHS năm 1999, xác định cụ thể mức phạt tiền là từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng
Sú 2 ị THANG 1 Ị TAP CHÍ NGÁN HÁNG @
CÕNG NGHỆ NGÁN HANG ---
ở Cấu thành tội phạm cơ bản và từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng ở cấu thành tội phạm tăng nặng với tư cách là hình phạt chính.
Đe kịp thời đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm an ninh xã hội, đồng thời, khắc phục những vướng mắc, bất cập trong thực tế áp dụng, đồng thời, để phù hợp với các quy định mới của Bộ luật Dân sự năm 2015 và các văn bản pháp luật khác có liên quan, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Công văn số 4688/
VKSTC-V14 hướng dần giải đáp vướng mắc về Điều 201 BLHS.
Cụ thể là, Công văn đã hướng dần về việc xử lý khoản tiền gốc và khoản tiền thu lợi bất chính mà người phạm tội thu được từ việc cho vay lãi nặng. Trên cơ sở hướng dần của văn bản này, hoạt động áp dụng luật và xử lý tội phạm sẽ dễ dàng hơn, hành vi cho vay lãi nặng đê bị truy cứu trách nhiệm hình sự có những căn cứ pháp lý đầy đủ hơn. Tuy nhiên, mặc dù hành lang pháp lý đầy đủ và có tính kịp thời, đáp ứng tình hình xử lý tội phạm cho vay lãi nặng trong thời điểm hiện tại, nhưng thực tiễn phát hiện và xử lý tội phạm này vẫn còn tồn tại khiến cho việc đấu tranh phòng, chống tội phạm chưa đạt hiệu quả mong muốn, đặc biệt là đối với hành vi sử dụng công nghệ cao để thực hiện phạm tội.
2. Thực trạng và nguyên nhân phát sinh tội phạm cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự
Thời gian qua, hoạt động cho vay lãi nặng của các nhóm tội phạm có nhiều diễn biến phức tạp. Số vụ án được phát hiện ngày càng có quy mô lớn, diễn ra trên phạm vi rộng với thủ đoạn ngày càng tinh vi. Nhiều nhóm đối tượng thành lập các “công ty tài chính” trá hình, thậm chí
ứng dụng internet, mạng xã hội, ứng dụng công nghệ thông tin để quảng bá và lôi kéo “khách hàng”. Kèm theo những hoạt động cho vay lãi nặng là những hoạt động tội phạm khác nhăm mục đích thu hồi nợ của người vay như hành hung, gây thương tích, cưỡng đoạt tài san, gây rối trật tự công cộng, thậm chí giết người nếu người vay không trả được nợ... Các hoạt động cho vay lãi nặng đang là vấn nạn nhức nhối cho xã hội, ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an, an toàn công cộng của người dân.
Trước đây, hoạt động cho vay lãi nặng chủ yếu diễn ra dưới hình thức truyền thống, đó là thông qua các hoạt động kinh doanh dịch vụ cầm đồ, tư vấn, hồ trợ tài chính, mua bán, trao đồi, cho thuê xe máy, ô tô... (gọi chung là hình thức kinh doanh tài chính), hoạt động có hoặc không có đăng ký kinh doanh... đê cho vay tiền hoặc cầm cố tài sản với lãi suất cao, thủ tục đơn giản, không đúng với quy định của Nhà nước (có trường họp không cần bất cứ điều kiện bảo đám nào vẫn có the vay được tiền...).
Các đối tượng kinh doanh dưới hình thức này thường thành lập các công ty, cửa hàng kinh doanh để họp pháp hóa, cá biệt một số không có cơ sở, địa điểm cụ thề mà biến tướng theo dạng câu kết với nhau ở nhiều địa bàn trong và ngoài tỉnh...
Để có thề thiết lập được giao dịch dân sự giữa bên cho vay và bên đi vay, qua mắt được cơ quan pháp luật và tránh bị xử lý hình sự, các đối tượng cho vay dùng nhiều thủ đoạn phạm tội khác nhau như: giao dịch cho vay thường là thỏa thuận ngầm, việc vay nợ thường được chuyên hóa bằng cách viết giấy nhận tiền để xin việc làm vào các cơ quan Nhà nước, thế chấp tài sản có giá trị cao (nhà, đất, ô tô...) với giá thấp
có công chứng hoặc buộc người vay tiền phải làm thủ tục bán tài sản cho đối tượng, sau đó thuê lại tài sản... Ngoài ra, các đối tượng còn tìm cách móc nối với một số cán bộ ngân hàng đê "cò", “môi giới” cho vay nặng lãi. Các đối tượng có thể tìm cách làm trung gian, bỏ vốn phục vụ việc “đáo nợ” cho những người vay ngân hàng đến hạn, hưởng lãi suất cao từ phía người vay. Cá biệt, một số đối tượng có biểu hiện hoạt động
“tín dụng đen”, lập dự án đê vay vốn ngân hàng với lãi suất thấp, dùng tiền vay được kinh doanh tài chính lấy lãi suất cao... Đen hạn, các chủ nợ bắt người vay nợ phải trả tiền hoặc viết giấy vay nợ tiếp (với số tiền vay nợ lần sau là cộng cả số tiền gốc và lãi của lần vay nợ trước, sau đó trừ luôn số tiền lãi ít nhất của một tháng liền kề tiếp theo...). Các khách hàng khi trả tiền gốc lẫn lãi đều không có giấy biên nhận trả tiền một cách công khai. Cứ như vậy, hoạt động vay và trả nợ diễn ra cho đến khi khách hàng lâm vào tình trạng không thể trả nợ được nữa. Đến lúc này, nếu khách hàng không tiếp tục trà nợ thì các đôi tượng sẽ tìm mọi cách đê uy hiếp, thúc ép, thậm chí tra tấn, khủng bố về tinh thần để khiến cho khách hàng sợ hãi phải tìm cách xoay tiên đê trả.
về sau, cùng với sự ra đời của mạng internet, các thiết bị số, các phần mềm và các thiết bị công nghệ cao, hoạt động cho vay lãi nặng ngày càng biến tướng với quy mô lớn, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hơn dần đến các cơ quan chức năng rất khó kiểm soát, phát hiện và xử lý. Một điều không thể phủ nhận rằng, công nghệ thông tin và mạng internet với nhiều tiện ích và tính năng tuyệt vời của nó đã đem lại cho người dân nhiều lợi ích khi họ tiếp cận được nhiều nguồn thông tin cùng lúc một cách nhanh chóng nhất,
TẠP CHÍ NGÂN HANG Ị so 2 i THANG 1 2021
CÔNG NGHẸ NGẢN HANG^^MHH
Bó Cong an cành báo vaỵ tién online qua ứng dụng là hình thức bién tướng của tín dụng đen
đỡ mất thời gian, đỡ tốn kém sức người, sức của. Thế giới phẳng đã khiến con người có cơ hội xích lại gần nhau hơn và dễ dàng hơn khi chỉ cần thông qua một cú nhấp chuột. Đây cũng chính là mảnh đất màu mỡ để bọn tội phạm lợi dụng mạng internet, len lỏi vào các trang web, phát tán các phần mềm gây nguy hại cho những người sử dụng hoặc đưa các thông tin gian dối nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của khách hàng.
Chính vì vậy, hiện nay, một số cá nhân hoặc nhóm cá nhân đã trực tiếp thực hiện hoạt động cho vay thông qua các thiết bị số hoặc các trang web ảo. Khách hàng chỉ cần tiếp cận trang web đó, ngay lập tức các thông tin về khách hàng sẽ được bọn tội phạm nắm bắt, sau đó, bằng nhiều cách thức khác nhau, các đối tượng tìm cách liên hệ và đưa ra những mời chào vô cùng hấp dẫn, đáp ứng đúng nhu cầu của khách hàng để có thể có tiền trong thời gian sớm nhất. Nguy hiểm hơn, các trang web trên còn tìm cách tan công vào các thông tin tài khoản cá nhân đe chiếm đoạt tài sản nếu khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ như
thỏa thuận ban đầu. Bên cạnh đó, các đối tượng cất giấu hợp đồng ở những nơi kín đáo, sử dụng mạng xã hội để chốt họp đồng, cho vay dưới dạng chơi họ, hụi trong thời gian ngắn.
Thời gian qua, không ít nhóm tội phạm đã sử dụng công nghệ cao đê thực hiện hoạt động phạm tội. Chẳng hạn như, một nhóm tô chức tội phạm cho vay lãi nặng đến từ Hà Nội, chỉ trong 3 tháng hành nghề đã có đến 145 người vay với lãi suất hơn 120%/
năm, đã bị pháp luật xử lý, mà hình thức hoạt động cho vay của chúng vô cùng tinh vi và xảo quyệt. Nhóm đối tượng này hoạt động không có trụ sở giao dịch cố định, thường xuyên thay đổi chồ ở, không đăng tải, in phát tờ rơi quảng cáo hay lưu trữ hồ sơ, sổ sách, giấy tờ mà chỉ giữ lại ảnh chụp trên điện thoại. Toàn bộ quá trình cho vay được quản lý bằng các phần mềm và liên lạc, trao đôi, báo cáo tình hình cho vay, thu nợ diễn ra trên mạng, thông qua Zalo, Telegram... Vì vậy, thủ tục cho vay tiền của nhóm này rất đơn giản, chúng chụp ảnh lại các thông tin, giữ giây chứng minh nhân dân hoặc hộ khẩu, giấy phép lái xe, người vay chỉ
cần viết giấy vay tiền. Để thuận lợi cho việc thu nợ và lãi, các đối tượng phân công nhau phụ trách từng khu vực, hàng ngày có nhiệm vụ tìm người vay để thu tiền7. Hay, một nhóm tội phạm mua trang web có tên miền nhất định dùng để đăng tin cho vay tiền với lãi suất vay 5.000 đồng/
triệu đồng/ngày, trong khi theo quy định, mức lãi suất cao nhất được phép cho vay tối đa không quá 556 đồng/triệu/ngày, tức là không quá 1,666%/tháng. Thậm chí, có nhóm đối tượng cho vay tín dụng đen với mức lãi suất lên đến 110 - 146%/năm.
Để tránh bị xử lý theo pháp luật hiện hành hoặc nhằm che mắt các cơ quan chức năng, các đối tượng đã sử dụng nhiều cách khác nhau như tách lãi suất ra thành nhiều món khác nhau và ghi nhận là phí quản lý hay các loại phí khác, lập hợp đồng vay nhưng không thể hiện lãi suất. Hoặc các đối tượng yêu cầu nạn nhân viết giấy nhận tiền với mục đích nhờ mua hộ tài sản. Điều này sẽ giúp cho hành vi cho vay lãi nặng không bị xử lý nếu chỉ có bằng chứng là giấy nhận tiền. Đối với trường họp vay tiền trên mạng, thông qua các app8 trên điện thoại di động,
so 2 I THANG 1.2021 I TẠP CHÍ NGÀN HÀNG Hi
CÒNG NGHÉ NGAN HANG---
các đối tượng không thiết lập hợp đồng cho vay cũng như không có thỏa thuận mức vay và lãi suất vay trên các ứng dụng. Khi vay, khách hàng chỉ được nhận số tiền ít hon khoản tiền muốn vay vì đã bị trừ đi các khoản mà đối tượng mặc định là phí dịch vụ, phí làm hồ sơ. Gần đây, đã xảy ra một dạng cho vay lãi nặng có sử dụng công nghệ cao, trong đó bọn tội phạm lợi dụng phần mềm Icloud trên điện thoại Iphone (phân mềm cho phép người dùng lưu trừ gần như toàn bộ các thông tin cá nhân), thuyết phục hay dụ dồ khách hàng sử dụng quyền riêng tư đối với Icloud này đê thế chấp cho các khoản vay. Chăng hạn như, đối tượng yêu cầu khách hàng phải đăng xuât Icloud đê chúng đồi Icloud mới, yêu cầu bật tính năng Find my phone và đồng bộ danh bạ sau đó mới làm họp đồng. Từ đây, bọn chúng kiểm soát và nắm được toàn bộ thông tin của khách hàng. Neu khách hàng không trả nợ được sẽ bị khóa tài khoản Icloud, vô hiệu hóa điện thoại Iphone, tệ hơn là các thông tin hình ảnh cá nhân sẽ bị bọn chúng sử dụng với những mục đích trái pháp luật.
Từ thực trạng trên, có thê thây nguyên nhân làm phát sinh tội phạm đến từ nhũng yếu tố sau:
Xuất phát từ nhu cầu sử dụng nguồn vốn trong nhân dân, tuy nhiên, tiếp cận vốn vay từ hệ thống tín dụng họp pháp phải đáp ứng các điều kiện, thủ tục pháp lý theo quy định, trong khi tín dụng đen đáp ứng “nhanh - gọn”
vấn đề này. Công tác quản lý Nhà nước về an ninh trật tự đối với ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện còn chưa chặt chẽ dần tới các đối tượng dề dàng làm giấy phép đăng ký kinh doanh, tạo “vỏ bọc” đê hoạt động. Quy định của pháp luật về xử lý đối với hành vi cho vay lãi nặng còn nhiều bất cập, chưa cụ thế, khó
áp dụng trong thực tế nên các đối tượng đã lợi dụng để hoạt động.
Quy định của pháp luật hình sự hiện hành về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự về cơ bản cũng đã cụ thể, rõ ràng. Các dấu hiệu định tội và định khung hình phạt cũng đã tạo ra khung hành lang pháp lý chặt chẽ cho việc xử lý tội phạm. Tuy nhiên, với quy định tại Điều 201 BLHS, tội danh này chỉ được coi là tội ít nghiêm trọng, mức hình phạt cao nhất cũng chỉ đến 3 năm tù. Chính vì vậy, các đối tượng phạm tội không tỏ ra lo sợ nếu bị xử lý hình sự. Mức hình phạt đó có thế chưa đủ sức răn đe các đối tượng cũng như ngăn ngừa hành vi phạm tội tiếp tục xảy ra.
Lực lượng, đội ngũ cán bộ điều tra, phát hiện tội phạm còn chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm có sử dụng công nghệ cao nói chung và tội cho vay lãi nặng nói riêng như về trình độ, kiến thức chuyên môn trong lĩnh vực công nghệ.
Điều này khiến cho hoạt động xử lý tội phạm chưa hiệu quả, dẫn đến đối tượng phạm tội tiếp tục thông qua các tiện ích, tính năng công nghệ đề tiến hành các hoạt động cho vay lãi nặng.
3. Phòng ngừa tội phạm cho vay lãi nặng trong bối cảnh hiện nay
Như một nghiên cứu đã chỉ ra rằng, việc cho vay lãi nặng có thể được coi là hậu quả của một số khiếm khuyết bên trong thị trường tín dụng hợp pháp khi mà hợp đồng cho vay nặng lãi là hệ quả của tình trạng đòi nợ thuê9. Việc người dân lựa chọn các tổ chức, cá nhân khác thực hiện hoạt động cho vay và chấp nhận vay với lãi suât cao ngât ngưởng cũng chỉ là nhằm đe giải quyết nhu cầu cá nhân trước mắt và có thể là lâu dài Chỉ có điều,
họ không thể lường trước và tính toán được những rũi ro quá lớn về việc mất khả năng thanh toán là hệ quả và hệ lụy tất yếu phát sinh từ hành vi cho vay lãi nặng mang lại.
Đẻ phòng ngừa hoạt động cho vay lãi nặng cũng như tội phạm cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự thì cần phải có chính sách phù hợp để các tổ chức tín dụng hợp pháp có thể đáp ứng được nhu cầu của người dân, những người đang thiếu hụt nguồn vốn để kinh doanh hoặc không có tiền để phục vụ cho những mục đích cá nhân. "Chổng lại sự cho vay nặng lãi có nghĩa là trước tiên phái đánh giá mức độ ô nhiêm tội phạm ở một quốc gia, sau đó đầu tư vào việc phô biên các thông lệ tốt trong công dãn nhăm tăng cường lòng tin vào các tô chức”w. Việc tạo ra lòng tin của người dân đối với hệ thống các tô chức tín dụng cũng chính là việc làm thay đồi tư tưởng đi vay các tồ chức bên ngoài hoạt động tín dụng đen của người đi vay, qua đó làm giảm tội phạm cho vay lãi nặng.
Nhà nước cũng cần siết chặt hơn nữa các hoạt động cho vay lãi nặng, kiểm soát chặt chẽ và liên tục các hoạt động, dịch vụ và đối tượng cho vay lãi nặng bằng các quy định của pháp luật, bàng các chê tài có tính nghiêm khăc và tính răn đe cao hơn nữa. cần phải nhìn nhận ràng, hoạt động cho vay bên ngoài tổ chức tín dụng (phi tín dụng) cũng là một hoạt động cần thiết và là nguồn cung tài chính cho các khách hàng khó có khả năng tiếp cận các tô chức tài chính chính thống. Nhưng vấn đề là cần phải kiểm soát sao cho hoạt động phạm tội khó xảy ra. Do đó, Nhà nước cũng như chính quyền địa phương cần tăng cường kiểm soát hoạt động của các tổ chức tài chính nhỏ như các tiệm cầm đồ, các quỳ tự phát,
TAP CHÍ NGAN HANG ■ so 2 . WANG - 202:
CONG NGHỆ NGAN HANG^S)
các nhóm hụi đê hạn chê những hiện tượng lợi dụng sự thiếu hiếu biết của khách hàng hoặc gây sức ép đối với khách hàng khi họ có nhu cầu khẩn cấp để đưa ra những điều khoản có khả năng gây bất lợi, rủi ro cho khách hàng, từ đó tội phạm cho vay lãi nặng có điều kiện để phát sinh.
Dưới góc độ quy định của pháp luật hình sự, dấu hiệu phạm tội có sử dụng các thiết bị công nghệ, sử dụng các phần mềm công nghệ phục vụ cho hoạt động cho vay lãi nặng cũng cần được xem xét là một dấu hiệu phản ánh tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội, tăng nặng hơn so với những dấu hiệu thông thường. Điều này là bởi vì, nhờ sừ dụng các thiết bị công nghệ hay các phần mềm công nghệ mà đối tượng dễ dàng thực hiện hành vi phạm tội hơn, các dấu vết, chứng cứ chứng minh tội phạm dễ bị xóa bỏ hơn dần tới rất khó phát hiện đế xử lý hoặc khi bị phát hiện, các đối tượng nhanh chóng hủy các chứng cứ, dấu vết, gây khó khăn trong quá trình điều tra tội phạm. Hơn nữa, việc sử dụng công nghệ cao đê hoạt động phạm tội có the dẫn tới hậu quả phá hủy hệ thống quản lý của các ngân hàng đối với tài khoản cúa các cá nhân, tác động xấu đến lĩnh vực tài chính của đất nước.
Trong bối cảnh tác động của CMCN 4.0, cần tăng cường đội ngũ những người có kiến thức và kinh nghiệm trong lĩnh vực công nghệ thông tin đê giúp cho việc phát hiện và xử lý tội phạm có sử dụng công nghệ cao hiệu quả hơn, cần trang bị các thiết bị công nghệ cao phục vụ cho việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm. Cùng với đó, Nhà nước tổ chức tuyên truyền, phổ biến về phương thức, thủ đoạn hoạt
động của tội phạm cho vay nặng lãi, siết nợ, đòi nợ theo kiểu “xã hội đen” cũng như hậu quả, tác động từ việc vay nặng lãi đến kinh tế của cá nhân, gia đình, trật tự an toàn xã hội đê người dân nâng cao cảnh giác, chủ động phòng ngừa. Đồng thời, các cap, các ngành tô chức phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tồ quốc tại các địa bàn cơ sở nhằm vận động quần chúng nhân dân tích cực phát hiện, tố giác tội phạm; phối hợp với lực lượng công an trong đấu tranh, trấn áp tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến hoạt động cho vay lãi nặng.
Kết luận
Phòng ngừa tội phạm cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự chính là hoạt động “phòng ngừa tội phạm nhằm mục đích kìm chế sự gia tăng, hạn chê dân mức độ và tỉnh chất nghiêm trọng của tội phạm và ngăn ngừa tội phạm xảy ra ■’ll. Chính vì vậy, nới lỏng hoạt động và chính sách cho vay tín dụng hợp pháp đồng nghĩa với việc làm giảm hoạt động cho vay tín dụng bất hợp pháp, qua đó kìm chế được sự gia tăng tội phạm này trong tương lai. Quan trọng hơn, ngăn ngừa được tội phạm cho vay lãi nặng cũng sẽ ngăn chặn được các hành vi phạm tội khác có liên quan phát sinh.B
Nguyền Vân Hà, Nguyễn Thị Việt Hà, Nguyễn s Ngọc Sơn, Lưu Thanh ly (20 id), Bài họớỵê quản lý tin dụng đen cho Việt Nam tự kinh nghiệm' của Trung Quốc, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng, sổ 194, tr.66.
‘ Anna Beth Ferguson (2000), Predatory Lending: Practices, Remedies and Lack of Adequate Protection for Ohio Consummers, Cleveland State Law Review, Volume 48, Issue 3, p.608-609.
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam phẩn các tội phạm (quyển ỉ), NXB Cong ữn nhân dân, Hà Nội, tr.308.
'Đặng Anh (2002), Bàn vé định lượng trong BLHS nam '1999, Tạp chí Tòa án nhân dân, s.ẹ 7, 028.
' Lê Thị Sơn- (2005), Đâu hiệu định lừợng trọng BLHS, Tạp chiLuật học sớ. í tr.50.
Died 468 BộTuãt Dân sự 2015 qụy đinh:" 1.
Leri suất vay ừb các bén thòa thuận. Trường hợp các bên Cữ thỏa thuận vê-lãi suât thỉ 'lai suất thẹo thỏa thuận không được vượt quá 2&ịỄ/hỂm của khoăn tiển vay, trử trường hợp luật khác có liển quan quy định khác.. 7.
Điếu này có nghĩa lữ, lãi suẩpcho yựy tét đa trưng bình một tháng sẽ là: 20%: 12 tháng =
ĩ ,&ỗỂ9ễýháng.
'h tt,ps:ffnld,com.vn/phap--luqf/tuyet- chieu-hóặt-dong-bì-mũt-cưa-nhom-cho- vay-nang-lai-2ŨỈ00214173953236.htm, truy cặp ngày 4/TJ72020.
- App l'i viết tdỉcũatừ tiếng anh Application nghĩơTữủng dụngtrêSệớc thiết bị cõng nghệ như trển điện thoại di động haý trên mdyĩính bàng, mđy vi tính.
' Raffaelld'BaronPand Donato Masciandaro- (2017), Crime, money-laundering, and credit markets: cạn usury exist at the zero .lower bound?, Working paper serie, Bocconi, N.&T, P* 3 4 * * 7.
Raffae'ila Barone and Donato Masciandaro (2017), Crime, money laundering, and credit markets: can usury exist at the zero lower boưnđ?Ị Working paper serie, Bocconi, N.6.1,p.l4.
!! Trupng Đại học Luật Hự Nội (2013), Giáo trình Tội phạm học, NXB. Còng an nhân dàn, Hà NỘI, tr. 190,
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Đặng Anh (2002), Bàn về định lượng trong BLHS năm 1999, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 7.
2. Demyanyk Yuliya (2006), Income Inequality: Time for Predatory Lending Laws?, The Regional Economist, Federal Reserve Bank of St. Louis, issue Oct.
3. Ferguson, A. B (2000), Preda
tory Lending: Practices, Rem
edies and Lack of Adequate Protection for Ohio Consummers.
4. Nguyễn Vân Hà, Nguyễn Thị Việt Hà, Nguyễn Lê Ngọc Sơn, Lưu Thanh Ly (2018), Bài học về quản lý tín dụng đen cho Việt Nam từ kinh nghiệm của Trung Quốc, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng, só 194.
5. Quốc hội (2016), BLHS của nước CHXHCN Việt Nam năm 2015, sủa đổi, bổ sung năm 2017, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Quốc hội (2016), Bộ luật Dân sự nước CHXHCN Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Raffaello Barone and Donato Masdandaro (2017), Crime, money laundering,andcreditmarkets:canusury existat the zero lower bound?, Working paper serie, Bocconi, N.61.
8. Lê Thị Sơn (2005), Dấu hiệu định lượng trong BLHS, Tạp chí Luật học số
ỉ.
9. Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình Tội phạm học, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
10. Trường Đợi học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam phân các tội phạm (quyền 1), NXB Công an nhân dán, Hà Nại.
SO 2 Ị THANG 1 2021 ] TẠP CHI NGÂN HANG