• Tidak ada hasil yang ditemukan

VIÊM PHỔI NẶNG TRÊN BỆNH NHÂN HIV/AIDS TẠI BỆNH VIỆN BỆNH NHIỆT ĐỚI NĂM 2020

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "VIÊM PHỔI NẶNG TRÊN BỆNH NHÂN HIV/AIDS TẠI BỆNH VIỆN BỆNH NHIỆT ĐỚI NĂM 2020"

Copied!
7
0
0

Teks penuh

(1)

VIÊM PHỔI NẶNG TRÊN BỆNH NHÂN HIV/AIDS TẠI BỆNH VIỆN BỆNH NHIỆT ĐỚI NĂM 2020

Nguyễn Quang Diệu1, Võ Triều Lý1, Đông Thị Hoài Tâm3, Nguyễn Phú Hương Lan2, Nguyễn Thụy Thương Thương3

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Viêm phổi là một trong những nguyên nhân nhập viện thường xuyên ở bệnh nhân (BN) HIV/AIDS. Tỷ lệ tử vong còn cao, không chỉ do tình trạng suy giảm miễn dịch từ ký chủ, mà còn có thể do điều trị không phù hợp với nhiều loại tác nhân gây bệnh khác nhau ở bệnh nhân HIV. Tại Việt Nam, nghiên cứu về các tác nhân gây viêm phổi trên nhóm đối tượng này còn hạn chế.

Mục tiêu: Mô tả đặc điểm tiền căn, lâm sàng, cận lâm sàng, điều trị và xác định tỉ lệ các tác nhân phát hiện được trong bệnh phẩm đường hô hấp của bệnh nhân HIV/AIDS bị viêm phổi nặng điều trị tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới (BVBNĐ).

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca các trường hợp nhiễm HIV/AIDS bị viêm phổi nặng tại khoa Nhiễm E, BVBNĐ (tháng 1 đến tháng 6 năm 2020).

Kết quả: Trong 49 BN được khảo sát, nam giới chiếm đa số (95,9%). Có 98% BN thuộc giai đoạn AIDS (TCD4 trung vị là 14 tế bào/mm3) và 85,7% không điều trị dự phòng cotrimoxazole trước nhập viện. Triệu chứng lâm sàng thường gặp nhất là sốt và ho (91,8%). Xquang phổi ghi nhận 100% trường hợp có tổn thương mô kẽ và 83,7% có tổn thương phế nang phối hợp. P.jirovecii là tác nhân chiếm tỉ lệ nhiều nhất (69,4%), vi khuẩn 63,3%, vi nấm 34,7% và lao 36,5%. 73,5% BN viêm phổi do P.jirovecii có đồng nhiễm với tác nhân khác.

Kết luận: Viêm phổi nặng thường xảy ra khi BN đã vào giai đoạn AIDS. P.jirovecii là tác nhân gây bệnh thường gặp nhất, và thường đồng nhiễm nhiều tác nhân, gây khó khăn cho việc điều trị. Cần quan tâm đến điều trị dự phòng PCP với cotrimoxazole ở BN nhiễm HIV hiện nay.

Từ khóa: viêm phổi nặng, HIV/AIDS, P. jirovecii, PCP

ABSTRACT

SEVERE PNEUMONIA IN HIV/AIDS PATIENTS AT THE HOSPITAL FOR TROPICAL DISEASES IN 2020

Nguyen Quang Dieu, Vo Trieu Ly, Dong Thi Hoai Tam, Nguyen Phu Huong Lan, Nguyen Thuy Thuong Thuong

* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No 1 - 2021: 115 - 121 Background: Pneumonia is one of the common causes of hospitalization in HIV infected patients. The high mortality rate is due to an immune status deficiency from the host, but also due to a non accurate treatment of the pathogens in cause which are very various. In Vietnam, studies looking for causative agents in pneumonia among these individuals are quite limited.

Objectives: To describe the epidemiology, the clinical and laboratory features, the treatment of HIV/AIDS patients with severe pneumonia at the Hospital for Tropical Diseases and to determine the prevalence of the causative pathogens detected in the respiratory tract of those cases.

1Bộ môn Nhiễm, ĐH Y Dược TP. Hồ Chí Minh 2Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới Đơn vị Nghiên cứu Lâm sàng Đại học Oxford

(2)

Methods: A cases serie study. Participants were HIV/AIDS patients with severe pneumonia admitted to Ward E, Hospital for Tropical Diseases from January to June 2020.

Results: 49 patients were recruited. Most of them were male (95.9%). 98% patients were in AIDS stage (median TCD4 count as 14 cells/mm3); 85.7% did not have pneumocystic jirovecii prophylaxis with cotrimoxazole before hospitalization. Fever and cough (91.8%) were clinical symptoms most seen. In chest X ray, 100% cases had interstitial lesions and 83.7% were associated with alveolar lesions. P.jirovecii was the principal agent detected with 69.4% of cases, followed by bacteria 63.3%, fungi 34.7% and TB 36.5% (35/49).

73.5% of PCP were co-infected with other pathogens.

Conclusion: Severe pneumonia happened when the patient was in AIDS stage. P.jirovecii was the most common pathogen detected, and was often co-infected with many other agents, making difficulties for the treatment. Cotrimoxazole prophylaxis in HIV-infected patients should be more considered.

Keywords: severe pneumonia, HIV/AIDS, P. jirovecii, PCP

ĐẶT VẤN ĐỀ

Viêm phổi (VP) là một trong những nguyên nhân dẫn đến nhập viện và tử vong đáng kể ở người nhiễm HIV, ngay cả trong kỷ nguyên các thuốc ARV có hiệu quả cao như hiện nay(1). Với sự đa dạng của các tác nhân nhiễm trùng gây viêm phổi ở bệnh nhân HIV (vi khuẩn, vi nấm, virus hay ký sinh trùng…), việc tìm ra tác nhân gây bệnh để có thể dùng thuốc điều trị chuyên biệt một cách đúng đắn còn là một thử thách lớn ở một số cơ sở điều trị bệnh nhân HIV.

Sự phân bố các tác nhân gây bệnh khác nhau tùy theo vùng địa lý và tùy theo thời điểm khảo sát. Theo tác giả Huang L (2009) tác nhân hàng đầu gây viêm phổi là vi khuẩn tại Hoa Kỳ và Tây Âu, trong khi ở vùng cận Sahara lao phổi lại chiếm ưu thế(2). Tác giả Buchacz K (2010) cho thấy Pneumocystis jirovecii trước đây là tác nhân gây nhiễm trùng cơ hội chỉ điểm quan trọng của các bệnh nhân vào giai đoạn AIDS ở các quốc gia phát triển, nhưng hiện nay tỉ lệ PCP ở các quốc gia này giảm đáng kể do hiệu quả của chiến lược dự phòng với cotrimoxazole(3). Ngược lại, gần đây, lại có báo cáo cho thấy tỉ lệ PCP có sự tăng lên ở các quốc gia trước đây hiếm gặp PCP như vùng cận Sahara(4).

Ở Việt Nam, nghiên cứu của tác giả Lê Mạnh Hùng (2006) tại BVBNĐ và nghiên cứu của Le Minor O (2004) trên dân số HIV/AIDS tại bệnh viện (BV) Phạm Ngọc Thạch cho thấy

P.jirovecii chiếm hơn 50% trong tổng số các tác

nhân(5,6). Gần đây hơn, theo một số khảo sát trên

bệnh nhân HIV/AIDS ở miền Bắc, sự phân bố tác nhân đã thay đổi hẳn: lao là tác nhân gây viêm phổi hay gặp hơn P. jirovecii với tần suất mới mắc của lao phổi là 28,4 đợt/1000 người- năm và của PCP là 2,9 đợt/1000 người-năm trong nghiên cứu của Tanuma J năm 2014(7), cũng như tỉ lệ lao phổi là 10,2% và tỉ lệ PCP là 3,4% trong nghiên cứu của Gangcuangco LMA năm 2010(8). Điểm chưa được thuyết phục ở 2 tác giả này là chẩn đoán PCP chỉ dựa vào lâm sàng, Xquang phổi… chứ không có bằng chứng vi sinh. Từ 2009 đến nay, chiến lược điều trị ARV và điều trị dự phòng các nhiễm trùng cơ hội (NTCH) cho bệnh nhân HIV đã thay đổi: sử dụng ngay ARV khi mới phát hiện nhiễm HIV, không tùy thuộc vào số lượng TCD4. Việc dự phòng các NTCH bằng INH, cotrimoxazole, fluconazole được thực hiện rộng rãi hơn. Khả năng tìm thấy sự khác biệt về tần suất các tác nhân gây viêm phổi ở bệnh nhân HIV so với trước kia là một yếu tố cần được khảo sát. Việc tìm hiểu sâu hơn về các đặc điểm tiền căn, lâm sàng và nhất là tác nhân gây bệnh, cũng như về diễn tiến bệnh và điều trị sẽ hy vọng mang lại thêm kinh nghiệm cho bác sĩ lâm sàng chăm sóc các đối tượng này.

Mục tiêu

Mô tả đặc điểm tiền căn, lâm sàng, cận lâm sàng và điều trị các trường hợp viêm phổi nặng

(3)

ở BN HIV/AIDS điều trị nội trú tại bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới (BVBNĐ).

Mô tả phân bố tác nhân nhiễm trùng phát hiện được trong bệnh phẩm đường hô hấp của BN HIV/AIDS viêm phổi nặng điều trị nội trú tại BVBNĐ.

ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu

Bệnh nhân nhiễm HIV bị viêm phổi nặng nhập khoa Nhiễm E, BVBNĐ từ tháng 1/2020 đến tháng 6/2020, có biểu hiện suy hô hấp.

Tiêu chuẩn chọn mẫu

BN ≥18 tuổi, đã được chẩn đoán nhiễm HIV.

Có ít nhất 1 triệu chứng hô hấp (ho, khó thở, đau ngực) và/hoặc có dấu hiệu tổn thương trên Xquang phổi, có suy hô hấp trên lâm sàng.

Lấy được ít nhất một mẫu bệnh phẩm hô hấp trong quá trình nằm viện.

Điều trị kháng sinh không quá 48h kể từ lúc nhập viện.

Đồng ý tham gia nghiên cứu bằng văn bản.

Tiêu chuẩn loại trừ

Trường hợp BN không thể khạc được đàm, và chúng tôi hoàn toàn không thu thập được mẫu bệnh phẩm đường hô hấp để khảo sát Phương pháp nghiên cứu

Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca.

Kỹ thuật lấy bệnh phẩm và xác định tác nhân gây bệnh

Kỹ thuật lấy bệnh phẩm

+ Đối với bệnh nhân không đặt nội khí quản (NKQ): Khạc đàm thường trong các buổi sáng liên tiếp cho tới khi có mẫu đàm soi ra AFB dương tính và có mẫu đàm đã đạt tiêu chuẩn để cấy (tối đa 3 lần khạc).

+ Đối với bệnh nhân có đặt NKQ: Lấy dịch hút khí quản qua ống NKQ.

Các mẫu bệnh phẩm thu thập được trên lâm sàng sẽ được chuyển qua các phòng xét nghiệm tương ứng để xác định tác nhân.

Kỹ thuật xác định tác nhân gây bệnh

+ Phân lập vi khuẩn: Cấy vi khuẩn trên các mẫu bệnh phẩm đạt chất lượng để cấy (phòng xét nghiệm vi sinh BVBNĐ).

+ Phát hiện lao: Soi thấy trực khuẩn kháng acid-cồn hoặc cấy lao (tại phòng xét nghiệm OUCRU).

+ Phát hiện P. jirovecii: làm PCR tìm P. jiroveci (tại phòng xét nghiệm SHPT, BVBNĐ).

+ Phân lập vi nấm: Cấy vi nấm trên các mẫu bệnh phẩm đạt chất lượng để cấy (tại phòng xét nghiệm vi sinh BVBNĐ).

Biến số

- Viêm phổi: Sốt hoặc có biểu hiện hô hấp (ho, khạc đàm, nhịp thở tăng hoặc khó thở, phổi có ran bệnh lý) và có tổn thương trên Xquang phổi.

- Viêm phổi nặng: Theo Hiệp hội lồng ngực Hoa Kỳ năm 2007(9), BN viêm phổi nặng thuộc 1 trong 2 tình huống sau:

a. Có ít nhất 3 đặc điểm: Nhịp thở ≥30 lần/phút; PaO2/FiO2 250; Thâm nhiễm phổi lan tỏa nhiều thùy; Rối loạn tri giác; BUN ≥20 mg/dL;

Bạch cầu máu <4000 tế bào/mm3; Tiểu cầu máu

<100000 tế bào/mm3; Hạ thân nhiệt <360C; Hạ huyết áp đòi hỏi phải hồi sức dịch truyền.

b. Có 1 trong 2 đặc điểm: Cần phải thở máy xâm lấn; Có sốc nhiễm trùng.

- Ca bệnh xác định được tác nhân khi có ít nhất một (hoặc nhiều) kết quả như sau: vi khuẩn (+) khi phân lập được một loại vi khuẩn nào đó trên mẫu cấy; lao (+) khi soi c1o trực khuẩn kháng acid cồn (+) hoặc cấy ra vi khuẩn lao trên mẫu cấy; vi nấm (+) khi phân lập được một loại vi nấm nào đó trên mẫu cấy; P. jiroveci (+) khi kết quả PCR (+).

- Ca bệnh không xác định được tác nhân khi tất cả các kỹ thuật trên không phát hiện được tác nhân nào.

Phương pháp thống kê

Nhập và phân tích số liệu bằng phần mềm

(4)

SPSS 22.0, p <0,05 được xem là có ý nghĩa thống kê. Các biến số liên tục được biểu diễn bằng giá trị trung bình ± SD hay trung vị (IQR) tùy phân phối chuẩn hay không chuẩn.

Y đức

Nghiên cứu này được thông qua bởi Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Đại học Y Dược TP. HCM, số 31/HĐĐĐ, ngày 29/7/2019.

KẾT QUẢ

Đặc điểm dân số nghiên cứu

Từ tháng 1/2020 đến tháng 6/2020, có 49 BN nhiễm HIV bị viêm phổi nặng đủ tiêu chuẩn vào nghiên cứu (NC). Trong đó, 6 BN được lấy dịch hút khí quản qua ống NKQ và 43 BN được lấy đàm thường để khảo sát tác nhân gây bệnh.

Đặc điểm xã hội – tiền căn của dân số NC Bảng 1: Đặc điểm xã hội – tiền căn của dân số nghiên cứu (n = 49)

Đặc điểm Tần số Tỉ lệ

Tuổi Trung vị: 37 (IQR 30 – 47)

Giới: Nam 47 95,9

Đường lây truyền

Quan hệ tình dục không an toàn 33 67,4

Tiêm chích ma túy 6 12,2

Không rõ 10 20,4

Nơi cư ngụ

TP. Hồ Chí Minh 28 57,1

Tỉnh 21 42,9

Tình trạng phát hiện nhiễm HIV (n = 47) Được phát hiện nhiễm đợt NV này 35 71,4

Đã biết nhiễm  1 năm 5 10,2 Đã biết nhiễm > 1 năm 9 18,4

Khởi trị ARV trước nhập viện (n = 14)

Không 1 7,1

Đã khởi trị  1 năm 7 50

Đã khởi trị > 1 năm 6 42,9 Dự phòng bệnh nhiễm trùng cơ hội (n = 14)

Cotrimoxazole 2 14,3

INH 1 7,1

Fluconazole 0 0

Đặc điểm của dân số thu tuyển vào nghiên cứu được tóm tắt trong Bảng 1. Nam giới vẫn chiếm ưu thế ở dân số BN HIV (95,9%), tuổi còn trẻ với tuổi trung vị 37 (IQR 30 – 47), có nguồn lây là quan hệ tình dục tình dục không an toàn

(67,4%) và hơn 70% mới biết nhiễm HIV ở đợt nhập viện này và chưa điều trị ARV.

Đặc điểm lâm sàng các trường hợp viêm phổi Trung vị ngày bệnh thời điểm nhập viện là 14 ngày (IQR 7 – 29), đa số BN có thời gian bệnh trước nhập viện hơn 7 ngày (73,5%). Sốt và ho là 2 triệu chứng thường gặp nhất trên lâm sàng (91,8%). Chỉ 30,6% BN có bất thường khi khám phổi. Biến chứng nặng của bệnh là hạ huyết áp chiếm 30,6% (15/49). 37 trường hợp (75,5%) có các bệnh nhiễm trùng ngoài phổi đi kèm. Trong đó, nấm miệng chiếm tỉ lệ cao nhất với 30/37 trường hợp (61,2%), kế đó là nấm thực quản (8,2%), lao ngoài phổi (6,1%) và nhiễm trùng huyết từ các ngõ vào khác ngoài phổi (4,1%). Các nhiễm trùng khác như nhiễm trùng huyết do Samonella, viêm màng não nấm, viêm hạch ổ bụng, viêm hạch cổ do vi trùng, viêm mô tế bào, giang mai... chiếm tỉ lệ thấp hơn nhiều với 2%.

Bảng 2: Đặc điểm lâm sàng của dân số nghiên cứu (n = 49)

Đặc điểm Tần số Tỉ lệ %

Ngày bệnh Trung vị: 14 (IQR 7 – 29) Nhập viện sau 7 ngày từ lúc khởi phát 36 73,5

Sốt 45 91,8

Ho 45 91,8

Bất thường khi khám phổi 15 30,6

Đau ngực 15 30,6

Hạ huyết áp 15 30,6

Bệnh nhiễm trùng ngoài phổi đi kèm 37 75,5

Đặc điểm cận lâm sàng các trường hợp VP Bảng 3: Công thức máu của dân số NC (n = 49)

Đặc điểm Trung vị IQR

Bạch cầu (tế bào/mm3) 9960 [7235 – 14545]

Lymphocyte (tế bào/mm3) 540 [255 – 730]

Hemoglobin (g/dL) 12 [10,1 – 13]

TCD4 (tế bào/mm3)* 14 [5 – 65]

Tiểu cầu (103 tế bào/mm3) 221 [174 – 284]

Đa số BN trong dân số nghiên cứu có tình trạng suy giảm miễn dịch tế bào trầm trọng, với 45/49 trường hợp (91,8%) có lymphocyte thấp

<1200 tế bào/mm3 và có 20/21 BN có TCD4 <200 tế bào/mm3 (chỉ xét nghiệm TCD4 được trên 21 BN) chiếm 95,2%. Hình ảnh sang thương trên

(5)

Xquang phổi cho thấy tổn thương mô kẽ và phế nang chiếm tỷ lệ cao nhất với 41/49 trường hợp (83,7%), mô kẽ dạng lưới nốt đơn thuần chỉ chiếm 16,3% (8/49), các tổn thương khác chiếm tỉ lệ thấp hơn nhiều với tràn dịch màng phổi 8,2% (4/49) và tạo hang 2% (1/49).

Điều trị và kết quả điều trị

Đa số BN đều được điều trị phối hợp nhiều loại kháng sinh khác nhau: 40/49 trường hợp được phối hợp cotrimoxazole + kháng sinh khác (81,6%), có 3 trường hợp được điều trị vừa cotrimoxazole, vừa kháng sinh và kết hợp thêm thuốc kháng lao (6,1%) hoặc kháng nấm (2 trường hợp: 4,1%). Điều trị một kháng sinh đơn thuần rất hiếm (chỉ có 4 trường hợp: 8,2%). Kết quả điều trị phân thành 3 nhóm gồm tử vong/bệnh nặng xin về chiếm 30,6% (15/49), chuyển viện 17/49 (34,7%) và xuất viện do đáp ứng với điều trị 34,7% (17/49).

Bảng 4: Đặc điểm điều trị của dân số NC (n = 49)

Đặc điểm Tần số (N) Tỉ lệ (%) Điều trị kháng sinh ban đầu

Cotrim + Kháng sinh 40 81,6

Kháng sinh đơn thuần 4 8,2

Cotrim + kháng sinh + kháng lao 3 6,1 Cotrm + kháng sinh + kháng nấm 2 4,1

Kết quả điều trị

Tử vong/bệnh nặng xin về 15 30,6

Chuyển viện 17 34,7

Đáp ứng và xuất viện 17 34,7

Phân bố tác nhân nhiễm trùng phát hiện được trong dịch hô hấp

Hình 1: Tỉ lệ các tác nhân gây bệnh phát hiện được trong dịch hô hấp (n = 49)

Sau khi phát hiện hoặc phân lập tác nhân gây bệnh từ các dịch hô hấp, chúng tôi có được kết quả trình bày trong Hình 2. Gần 70% các trường hợp (34 BN) là do tác nhân P. jirovecii, hoặc đơn thuần (26,5%) hoặc đồng nhiễm với một tác nhân khác (15 BN - 44,1%) hoặc hai tác nhân (7 BN - 20,6%) hoặc 3 tác nhân (3 BN - 8,8%). Đồng nhiễm P. jirovecii với vi khuẩn chiếm tỉ lệ cao nhất (21 BN - 61,8%), đồng nhiễm P. jirovecii với vi nấm chiếm 35,3% (12 BN) và đồng nhiễm với lao với 14,7% (5 BN).

Bảng 5 ghi nhận các loại vi khuẩn và vi nấm phân lập được.

Bảng 5: Phân bố các vi khuẩn (n=31) và vi nấm (n=17) phân lập được trong dịch hô hấp

Tác nhân Tần số (n) Tỉ lệ (%) Vi khuẩn

Staphylococcus aureus 1 3,2

Klebsiella pneumoniae 1 3,2

Actinomyces odontolyticus 1 3,2

VK thường trú 29 93,6

Vi nấm

Candida albicans 13 76,4

Candida tropicalis 1 5,9

Aspergillus fumigatus 1 5,9

Talaromyces marneffei 2 11,8

BÀN LUẬN

Đa số các BN trong nghiên cứu mới biết nhiễm HIV và hầu hết đều chưa điều trị ARV.

Tỉ lệ BN được điều trị dự phòng bệnh NTCH với cotrimoxazole và INH trong số các BN đã biết nhiễm HIV còn thấp dù 98% BN đã được chẩn đoán ở giai đoạn AIDS trên lâm sàng hoặc dựa vào xét nghiệm lymphocyte hoặc TCD4.

Điều này cho thấy việc điều trị dự phòng bệnh NTCH cho các BN nhiễm HIV vẫn chưa được thực hiện rộng rãi. Đây có thể là lý do góp phần vào tần suất bị viêm phổi nặng của BN nhiễm HIV trong nghiên cứu.

Đa số BN (73,5%) có thời gian bệnh trước nhập viện trên 7 ngày, trung vị ngày bệnh khi vào nhập viện là 14 ngày (IQR 7-29). Điều này có thể lý giải do BN bị nhiễm các tác nhân gây

(6)

bệnh cảnh bán cấp hoặc tình trạng suy giảm miễn dịch nặng không tạo được các phản ứng viêm dữ dội, mạnh mẽ. Các giá trị trung vị của bạch cầu máu (9960 tế bào/mm3), dung tích hồng cầu (12 g/dL) và tiểu cầu máu (221000 tế bào/mm3) đều trong giới hạn bình thường.

Ngoài sốt và ho, viêm phổi ở BN nhiễm HIV có triệu chứng thực thể khá nghèo nàn, chỉ có 30,6% BN có bất thường khi khám phổi. Đa số BN có bệnh nhiễm trùng ngoài phổi đi kèm.

Tổn thương trên phim Xquang phổi đa dạng, trong đó 100% BN có tổn thương mô kẽ dạng lưới nốt và 83,7% BN có tổn thương dạng phế nang phối hợp. Điều này gợi ý tình trạng đồng nhiễm nhiều tác nhân gây viêm phổi cùng một lúc. Với lý do này, khuynh hướng phối hợp vừa cotrimoxazole vừa kháng sinh ngay từ đầu là khá hợp lý, và được kiểm chứng rằng P. jirovecii chính là tác nhân hiện diện với tỷ lệ cao nhất trong nghiên cứu. Có 10,2% BN được điều trị phối hợp thêm kháng lao và 4,1% được phối hợp thêm cả kháng nấm trong quá trình nằm viện dựa vào bằng chứng vi sinh hoặc đáp ứng trên lâm sàng, cho thấy việc điều trị viêm phổi nặng ở BN nhiễm HIV vô cùng khó khăn và phức tạp với tỉ lệ tử vong/nặng xin về khá cao (30,6%) và đáp ứng điều trị chỉ có 34,7%.

Trong 34,7% ca chuyển viện, hầu hết là chuyển sang BV Phạm Ngọc Thạch khi BN được xác định có nhiễm vi khuẩn lao. Giới hạn của nghiên cứu là không theo dõi được kết cục của nhóm các BN được chuyển viện này.

Về phân bố các tác nhân gây bệnh, chúng tôi thấy có sự tương đồng với nghiên cứu của tác giả Lê Mạnh Hùng năm 2008 khi phân lập tác nhân gây bệnh từ dịch rửa phế quản của BN HIV (P.jirovecii chiếm tỉ lệ nhiều nhất 56,4%, vi khuẩn đứng hàng thứ 2 với 42,2%, tiếp theo là lao 27,6% và vi nấm là 19,6%)(5) và nghiên cứu của Le Minor O cũng cho thấy tỉ lệ phân lập được P. jirovecii cao hơn vi khuẩn lao (55% với 13%)(6). Với tác giả Figueiredo-Mello C (2012 - 2014), tại Brazil, trên BN HIV viêm phổi mắc phải từ cộng đồng, hàng đầu vẫn là P. jirovecii

(36%), kế đến là lao (20%), Streptococcus pneumoniaRhinovirus trong 15% BN, Influenzae (10%)(10). Tỉ lệ hiện diện cao của vi trùng thường trú trong nghiên cứu này (93,6% - 29 BN) có khả năng do bị lây nhiễm vào mẫu đàm trong quá trình BN khạc đàm, tương tự nấm Candida albicans với tỉ lệ phân lập được 76,4% (17 BN) cũng được giải thích do số lượng lớn BN có nấm miệng. Do đó, trong nghiên cứu này, các tác nhân này nhiều khả năng không thực sự gây viêm phổi mặc dù các mẫu đàm đều được kiểm tra đảm bảo đạt chất lượng trước khi cấy. Kỹ thuật được sử dụng để lấy đàm cũng là một điểm hạn chế cho nghiên cứu chúng tôi.

KẾT LUẬN

Viêm phổi nặng ở BN HIV là một bệnh cảnh cần được lưu ý. Đây là các trường hợp đã bước vào giai đoạn AIDS, không được phòng ngừa NTCH với cotrimoxazole trong khi đó tác nhân gây bệnh hàng đầu chính là P. jirovecii.

Đặc điểm P. jirovecii đồng nhiễm với các tác nhân khác hoặc đồng nhiễm giữa vi khuẩn, vi nấm… đòi hỏi cần phối hợp kháng sinh, kháng nấm. Việc điều trị còn phức tạp và tỉ lệ tử vong còn cao.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Wolff AJ, O'Donnell AE (2001). Pulmonary manifestations of HIV infection in the era of highly active antiretroviral therapy.

Chest, 120(6):1888-1893.

2. Wolff AJ, O'Donnell AE (2001). Pulmonary manifestations of HIV infection in the era of highly active antiretroviral therapy.

Chest, 120(6):1888-1893.

3. Buchacz K, Baker RK, Palella FJ, et al (2010). AIDS-defining opportunistic illnesses in US patients, 1994-2007: a cohort study. AIDS, 24(10):1549-1559.

4. Fisk DT, Meshnick S, Kazanjian PH (2003). Pneumocystis carinii pneumonia in patients in the developing world who have acquired immunodeficiency syndrome. Clin Infect Dis, 36(1):70-78.

5. Lê Mạnh Hùng (2008). Viêm phổi nhiễm trùng trên người nhiễm HIV/AIDS nhập viện tại thành phố Hồ Chí Minh. Luận án Tiến sĩ Y học, chuyên ngành Dịch tễ học.

6. Le Minor O, Germani Y, Chartier L, et al (2008). Predictors of pneumocystosis or tuberculosis in HIV-infected Asian patients with AFB smear-negative sputum pneumonia. J Acquir Immune Defic Syndr, 48(5):620-627.

7. Tanuma J, Lee KH, Haneuse S, et al (2016). Incidence of AIDS- Defining Opportunistic Infections and Mortality during Antiretroviral Therapy in a Cohort of Adult HIV-Infected

(7)

Individuals in Hanoi, 2007-2014. PLoS ONE, 11(3):e0150781- e0150781.

8. Gangcuangco LMA, Sawada I, Tsuchiya N, Do CD, et al (2017). Regional Differences in the Prevalence of Major Opportunistic Infections among Antiretroviral-Naïve Human Immunodeficiency Virus Patients in Japan, Northern Thailand, Northern Vietnam, and the Philippines. American Society of Tropical Medicine and Hygiene, 97(1):49-56.

9. Mandell LA, Wunderink RG, Anzueto A, et al (2007).

Infectious Diseases Society of America/American Thoracic Society consensus guidelines on the management of

community-acquired pneumonia in adults. Clin Infect Dis, 44(2):27-72.

10. Figueiredo-Mello C, Naucler P, Negra MD, et al (2017).

Prospective etiological investigation of community-acquired pulmonary infections in hospitalized people living with HIV.

Medicine, 96(4):e5778-e5778.

Ngày nhận bài báo: 08/12/2020

Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 20/02/2021 Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021

Referensi

Dokumen terkait

Chúng tôi tiến hành nghiên cứu “ Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và một số yếu tố liên quan đến mức độ nặng của viêm phổi ở trẻ từ 2 - 36 tháng tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên”..

TỶ LỆ CÁC LOẠI BỆNH TIM MẠCH ĐỒNG MẮC Ở BỆNH NHÂN BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH TẠI PHÒNG KHÁM NGOẠI TRÚ BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH BẮC NINH Trần Thị Yến1*, Nguyễn Minh Hiệp1, Trịnh Xuân

Nhìn lại các kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ viêm tụy cấp nặng trong nghiên cứu của chúng tôi khá cao so với các nghiên cứu khác trên thế giới và các nghiên cứu tại các bệnh viện khác

Mục tiêu nghiên cứu nhằm mô tả một số đặc điểm dị ứng của bệnh nhân điều trị thuốc chống lao hàng một tại Bệnh viện Phổi Hải Phòng từ 2019 đến 2020.. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

KẾT LUẬN Nghiên cứu đã cho thấy chăm sóc điều dưỡng toàn diện giúp dự phòng và hỗ trợ điều trị các biến chứng cấp ở bệnh nhân đột quỵ nặng một cách hiệu quả từ đó giảm thiểu tỉ lệ tử

Test đi bộ 6 phút thể hiện khả năng dung nạp của hô hấp với gắng sức, khoảng cách đi bộ 6 phút có liên quan đến tiên lượng sống của bệnh nhân tăng áp động mạch phổi,4 trong khi đó NT -

Nghiên cứu còn cho thấy có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm tuôi với đặc điểm lâm sàng sôt, ho và mức độ bệnh, với đặc điểm cận lâm sàng lympho, CRP, D-Dimer, ferritin,

Đề tài nghiên cứu nhằm mục tiêu: Khảo sát nồng độ glucose, HbA1c máu tại thời điểm nhập viện và mối liên quan với một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân đột quỵ não BN ĐQN