THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN (TRƯỜNG HỢP TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐẠI HỌC QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH)
TS. Nguyễn Duy Mộng Hà1 HVCH. Trần Thị Hiếu Trung2
Tóm tắt: Sự thành công trong tương lai của sinh viên trong thời đại Cách mạng công nghiệp 4.0 không còn chỉ nhờ vào năng lực chuyên môn giỏi mà còn nhờ các kỹ năng chung (KNC). Bài viết trước tiên khái quát cơ sở lý thuyết về quy trình hoạt động quản lý đào tạo và lồng ghép các KNC này. Tiếp theo, bài viết phân tích các bước hiện thực hóa hoạt động quản lý đào tạo các KNC tại Trường Đại học KHXH&NV, ĐHQG- Hồ Chí Minh với những thuận lợi và khó khăn cơ bản. Sau cùng, một số đề xuất được đưa ra cho lãnh đạo các cấp và cả bản thân sinh viên để người học thích nghi với những yêu cầu mới của thị trường lao động.
Từ khóa: Kỹ năng chung, Năng lực nghề nghiệp, Phát triển toàn diện.
1. Mở đầu
Kỹ năng chung (generic skills) là một chủ đề quan trọng đã được nhiều trường đại học trên thế giới quan tâm, tìm hiểu và áp dụng trong đào tạo nhưng vẫn còn mới mẻ trong nhà trường đại học Việt Nam hiện nay. Với tốc độ phát triển nhanh chóng và mức độ cạnh tranh ngày càng cao trên nhiều lĩnh vực ngành nghề thì bằng cấp không còn được đề cập đến nhiều mà người học sau khi tốt nghiệp sẽ được đánh giá dựa trên khả năng thích ứng và tự học hỏi của họ. Nếu thiếu những KNC này thì SV tốt nghiệp sẽ rất khó được tuyển dụng và thăng tiến trong sự nghiệp vì sẽ khó đem lại những giá trị thật sự cho nhà tuyển dụng và cho xã hội. Trên thực tế, KNC còn bao gồm rất nhiều những kỹ năng cần thiết khác nữa trong bối cảnh hội nhập ở thế kỷ XXI hiện nay.
2. Cơ sở lý thuyết về hoạt động quản lý đào tạo kỹ năng chung 2.1. Các khái niệm liên quan đến quản lý đào tạo kỹ năng 2.1.1. Quản lý và quản lý đào tạo
Có nhiều định nghĩa về khái niệm quản lý của nhiều tác giả trong và ngoài nước.
1. TS., Trưởng phòng Khảo thí và Đảm bảo chất lượng, Trường ĐH KHXH & NV. HCM
Theo Harol Koontz (thập niên 60-thế kỉ XX) thì "Quản lý là một nghệ thuật nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra thông qua việc điều khiển, chỉ huy, phối hợp, hướng dẫn hoạt động của những người khác". Tác giả Nguyễn Minh Đạo (1997) có định nghĩa tương tự về khái niệm này "Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người nhằm đạt tới mục tiêu đã đề ra" [1]. Còn theo giáo trình học tập, Khoa học quản lý, tập I, Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân, Hà Nội thì định nghĩa chi tiết hơn "Quản lý là việc đạt tới mục đích của tổ chức một cách có kết quả và hiệu quả thông qua quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra các nguồn lực của tổ chức” [2]. Những định nghĩa trên chúng ta có thể khái quát được quản lý là một hoạt động liên tục, có mục đích, có kế hoạch rõ ràng, được triển khai thực hiện dưới sự tổ chức, lãnh đạo (điều khiển, phối hợp, chỉ huy, hướng dẫn) và có kiểm tra, giám sát…Ngoài ra, trong bối cảnh hiện tại, theo mô hình quản lý chất lượng tổng thể (Total Quality Management hay TQM) để nâng cao tính hiệu quả của hoạt động quản lý thì cần chú ý thêm bước “cải tiến” theo quy trình PDCA (Plan- Do- Check- Act) với tinh thần cải tiến liên tục.
Về khái niệm đào tạo thì từ điển Bách Khoa Việt Nam cho rằng: “Hoạt động đào tạo là quá trình tác động đến một con người nhằm làm cho người đó lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo… một cách có hệ thống để chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng nhận một sự phân công lao động nhất định, góp phần của mình vào việc phát triển xã hội…” [3]. Còn theo tác giả Nguyễn Minh Đường thì khái niệm này còn bao hàm thêm yếu tố thái độ và nhân cách như sau: “Đào tạo là quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức nhằm hình thành và phát triển hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ… để hoàn thiện nhân cách cho mỗi cá nhân để tạo điều kiện cho họ có thể vào đời hành nghề một cách có năng suất và hiệu quả” [4]. Tổng hợp các định nghĩa đào tạo, chúng ta có thể đúc kết được là, đào tạo ở bậc đại học là các hoạt động đa dạng, có mục đích rõ ràng theo chương trình, kế hoạch cụ thểnhằm giúp người học có thể vận dụng được các kiến thức chuyên môn và thực hành nghề nghiệp hiệu quả, trong quá trình này người học có thể chủ động tự nâng cao trình độ, kỹ năng của bản thân.
Như vậy, quản lý đào tạo là hoạt động liên tục, có mục đích, có kế hoạch rõ ràng, được triển khai thực hiện dưới sự tổ chức, lãnh đạo và có kiểm tra, giám sát nhằm duy trì và cải tiến chất lượng các chương trình và hoạt động đào tạo. Hoạt động đào tạo bao gồm các việc chuyển giao có hệ thống, có phương pháp những kinh nghiệm, tri thức, kỹ năng chuyên môn, đồng thời bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức cần thiết và chuẩn bị tâm thế cho người học đi vào cuộc sống.
Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng khái niệm quản lý đào tạo trong phạm vi hẹp thuộc nhà trường bao gồm việc lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo, kiểm tra và điều chỉnh, cải tiến liên tục các chương trình và phương thức đào tạo chính khóa và ngoại khóa trong nhà trường nhằm đạt mục tiêu và chuẩn đầu ra về kiến thức, kỹ năng và phẩm chất, thái độ…đáp ứng sứ mệnh của đơn vị đào tạo. Ngoài mục tiêu đào tạo, trường đại học còn có mục tiêu nghiên cứu khoa học (NCKH) và phục vụ cộng
đồng…Đào tạo, cùng với nghiên cứu khoa học và phục vụ cộng đồng là các hoạt động đặc trưng của trường đại học.
Như vậy, quản lý hoạt động đào tạo đại học là quá trình tổ chức điều khiển, kiểm tra, đánh giá các hoạt động đào tạo theo kế hoạch và chương trình nhằm đạt được các mục tiêu gíao dục và đào tạo mà nhà trường đã xác định.
2.1.2. Khái niệm kỹ năng và kỹ năng chung
Về khái niệm kỹ năng thì có nhiều cách định nghĩa khác nhau về kỹ năng, tùy vào cách tiếp cận. Theo Từ điển Giáo dục học, kỹ năng được phân chia thành 2 bậc: Kỹ năng bậc thấp (bậc I) và kỹ năng bậc cao (bậc II). Kỹ năng bậc thấp là khả năng thực hiện đúng hành động phù hợp với những mục tiêu và điều kiện cụ thể. Kỹ năng bậc cao là khả năng thực hiện hành động, hoạt động một cách thành thạo linh hoạt, sáng tạo phù hợp với những mục tiêu trong những điều kiện khác nhau [5]. Trong lĩnh vực tâm lý học thì kỹ năng là “Khả năng vận dụng kiến thức để giải quyết một nhiệm vụ” [6]. Còn theo từ điển Oxford thì định nghĩa ngắn gọn về kỹ năng như sau: “Kỹ năng là khả năng để làm tốt một công việc nào đó được qua đào tạo hoặc kinh nghiệm (the ability to do something well, usually gained through training or experience). Như vậy, có thể tóm tắt khái niệm kỹ năng như sau: kỹ năng là khả năng vận dụng tốt các kiến thức hiểu biết nói chung để giải quyết các công việc theo mục tiêu đặt ra một cách linh hoạt, sáng tạo.
Khái niệm KNC còn được gọi là kỹ năng cốt lõi (key/core skills). Theo từ điển,
“generic” chỉ tính chất chung, bao quát, là cái trái ngược với cụ thể, riêng biệt (specific), do đó KNC được áp dụng với mọi ngành học không liên quan đến một ngành riêng biệt nào. Theo Vũ Xuân Hùng, KNC là loại kỹ năng biểu hiện ở mọi hoạt động của con người như kỹ năng sử dụng các công cụ lao động, kỹ năng học tập, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng nghiên cứu…Trong khi đó, trường Đại học Indiana University (Mỹ), xác định KNC là kỹ năng có thể được áp dụng trên nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau và cần nhiều thời gian hơn để luyện tập mới có thể đạt được, không phụ thuộc vào các lĩnh vực, tức là subject-independent skills (kỹ năng độc lập với chuyên ngành hay kỹ năng ngoài chuyên môn). Còn theo David Pencheon (1998), thì KNC là những kỹ năng mà tất cả chúng ta đều cần để quản lý thế giới xung quanh, để chúng ta có thể sử dụng các kỹ năng kỹ thuật của mình hiệu quả hơn [9].
Tại trường Đại học Hanze University of Applied Sciences, khái quát KNC là những kỹ năng áp dụng cho nhiều công việc và bối cảnh cuộc sống. Họ đưa ra các yếu tố phổ biến có liên quan đến KNC như kỹ năng cơ bản, kỹ năng liên quan đến con người, kỹ năng thuộc tính cá nhân, kỹ năng khái niệm/ tư duy, kỹ năng công dân…Ngoài ra, KNC còn được biết đến với một số tên gọi khác như kỹ năng chính, kỹ năng cốt lõi, kỹ năng thiết yếu, kỹ năng chuyển đổi, kỹ năng sống…
Trung Tâm Nghiên cứu Giáo dục nghề nghiệp (National Centre for Vocational Education Research hay NCVER), cũng khái quát các KNC là các kỹ năng giúp cho con người có thể chuyển đổi thích ứng trong bối cảnh làm việc và cuộc sống; bên cạnh
đó họ cũng nhấn mạnh rằng sở hữu các KNC là rất quan trọng cho thị trường lao động hiện nay. Trung tâm nhận thấy các nhà tuyển dụng kinh doanh muốn thành công phải biết cách giữ chân những nhân viên có nhiều kỹ năng cơ bản và có mối quan hệ tốt với gia đình và cộng đồng. Còn theo Anne Virtanene (2018), kỹ năng chung (còn được gọi là 'thuộc tính chung’ (generic attributes), 'kỹ năng chính' (key skills) và 'năng lực cốt lõi' (core competencies) được sử dụng và coi trọng trong các cuộc thảo luận hiện tại trong xã hội, giáo dục và cuộc sống làm việc [10].
Tóm lại, các KNC áp dụng cho mọi ngành đào tạo, không thuộc riêng ngành nghề nào hết, là các kỹ năng nền tảng gốc mà ngành nào cũng cần phải có trước khi nhắc đến các kỹ năng chuyên ngành. Kỹ năng này đòi hỏi hoạt động linh hoạt, sáng tạo với tư duy bậc cao để giải quyết nhiều vấn đề quan trọng trong cuộc sống và trong công việc. Đây là những kỹ năng thuộc nhóm kỹ năng mềm. Trong cuốn “Soft skills at the Malaysian institutes of higher learning” Asia Pacific Educ. Rev (2009) Trường Đại học Malaysia cho rằng kỹ năng cơ bản thường được gọi là những “kỹ năng con người”, là những kỹ năng không dễ để dạy mặc dù chúng rất cần thiết trong cuộc sống làm việc [11]. Vì vậy, trong thời đại ngày nay mỗi cá nhân cần phải không ngừng trau dồi kiến thức chuyên môn mà còn phải thường xuyên rèn luyện những KNC cần thiết cho công việc như:
ngoại ngữ, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng sống, kỹ năng viết các báo cáo, kỹ năng lãnh đạo, kỹ năng quản lý, giao tiếp...Nói cách khác, người lao động trong thế kỷ XXI phải có được trình độ chuyên môn xuất sắc nhất, có tư duy sáng tạo nhất và cần được trang bị những kỹ năng cần thiết để đối mặt với mọi sự thay đổi của thị trường trong đó không thể thiếu những KNC.
2.2. Nội dung quản lý hoạt động đào tạo các kỹ năng chung 2.2.1. Khung quản lý hoạt động đào tạo các kỹ năng chung
Nội dung quản lý đào tạo sẽ bao gồm một phổ rộng các thành tố liên quan chặt chẽ với nhau, đan xen và tác động vào nhau. Bao gồm các nhóm đối tượng (1) Quản lý mục tiêu đào tạo; (2) Quản lý nội dung và chương trình đào tạo; (3) Quản lý hoạt động dạy và học;(4) Quản lý nhân sự, cơ sở vật chất, tài chính và môi trường đào tạo; (5) Quản lý các hoạt động phục vụ đào tạo và đảm bảo chất lượng đào tạo [11]. Bộ tiêu chuẩn AUN-QA về đánh giá chất lượng chương trình đào tạo gồm 11 tiêu chuẩn trong đó cũng bao gồm các bước như trên: Tiêu chuẩn 1-3: Mục tiêu, chuẩn đầu ra và chương trình đào tạo; Tiêu chuẩn 4-5: Hoạt động dạy và học; Tiêu chuẩn 6,7,9: Nguồn lực (giáo viên, nhân viên, sinh viên, cơ sở vật chất, môi trường…); Tiêu chuẩn 8,10,11: Phục vụ đào tạo, đảm bảo chất lượng và đầu ra.
Trong mỗi nhóm đối tượng thì quy trình quản lý đều gồm các bước cơ bản: Lập kế hoạch; tổ chức, chỉ đạo, phối hợp thực hiện; giám sát, kiểm tra và đánh giá. Ngoài các bước cơ bản trên, còn cần bước điều chỉnh và cải tiến sau quá trình kiểm tra và đánh giá (PDCA). Điểm then chốt của việc tổ chức hoạt động đào tạo là làm sao hoàn thành được mọi nhiệm vụ và đạt được mục tiêu đào tạo đã đề ra. Việc tổ chức hoạt động đào tạo xuất
phát từ mục tiêu, nhiệm vụ đào tạo và căn cứ vào đặc điểm tình hình đội ngũ cán bộ giáo viên và các điều kiện hoạt động của từng nhà trường.
Bảng 1. Các bước quản lý hoạt động đào tạo các KNC tại Trường Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc Gia Hồ Chí Minh
Nội dung quản lý Quá trình quản lý
Mục tiêu
đào tạo Nội dung
đào tạo Hoạt động dạy và học
Nguồn lực và môi trường
đào tạo
Phục vụ đào tạo và đảm bảo chất lượng Lập kế
hoạch Lập kế hoạch về xây dựng mục tiêu
đào tạo
Lập kế hoạch về nội dung đào tạo theo mục tiêu đào
tạo
Lập kế hoạch về hoạt động dạy và học
Lập kế hoạch về nguồn lực và môi trường đào
tạo
Lập kế hoạch về phục vụ đào tạo và đảm bảo
chất lượng Tổ chức,
chỉ đạo, giám sát,
triển khai
Tổ chức, chỉ đạo, giám
sát, triển khai xây dựng mục tiêu đào tạo
Tổ chức, chỉ đạo, giám sát, triển khai
xâydựng nội dung đào tạo
Tổ chức, chỉ đạo, giám sát, triển khai hoạt động dạy
và học
Tổ chức, chỉ đạo, giám sát, triển khai nguồn
lực và môi trường đào tạo
Tổ chức, chỉ đạo, giám sát, triển khai phục
vụ đào tạo và đảm bảo chất
lượng Kiểm tra,
đánh giá Rà soát, kiểm tra, đánh giá mục tiêu đào tạo đã
được xây dựng
Rà soát, kiểm tra, đánh giá nội dung đào
tạo
Kiểm tra, đánh giá hoạt
động dạy và học
Kiểm tra, đánh giá nguồn lực và môi trường
đào tạo
Kiểm tra, đánh giá phục vụ đào tạo và đảm bảo
chất lượng
Điều chỉnh,
cải tiến Điều chỉnh, cải tiến mục tiêu đào tạo
Điều chỉnh, cải tiến nội dung đào tạo
Điều chỉnh, cải tiến hoạt động dạy và
học
Điều chỉnh, cải tiếnnguồn lực và môi trường
đào tạo
Điều chỉnh, cải tiến phục vụ đào tạo và đảm
bảo chất lượng Như vậy, quản lý hoạt động đào tạo đại học là quá trình đào tạo tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý (gồm các cấp quản lý khác nhau từ ban giám hiệu, các Phòng, Khoa, đến tổ bộ môn và từng giảng viên) nhằm tác động đến đối tượng quản lý (bao gồm giảng viên, sinh viên, cán bộ quản lý cấp dưới và cán bộ phục vụ đào tạo) thông qua việc vận dụng các chức năng và phương tiện quản lý nhằm đạt được mục tiêu đào tạo của nhà trường.
2.2.2. Các bước quản lý đào tạo các kỹ năngchung
Trong phạm vi nghiên cứu này chúng tôi chỉ tập trung vào 2 nhóm đối tượng của hoạt động quản lý đào tạo sau: (1) Mục tiêu và nội dung đào tạo (chính khóa và ngoại khóa); (2) Hoạt động dạy và học ở cấp độ chuyên môn của Khoa/Bộ môn.
2.2.2.1 Việc lập kế hoạch chương trình và hoạt động đào tạo lồng ghép các kỹ năng chung
Nội dung của kế hoạch cần nhấn mạnh vào vấn đề cơ bản là lồng ghép các KNC vào mục tiêu, chuẩn đầu ra và chương trình đào tạo theo yêu cầu nguồn lực của nhà trường. Việc phát triển các KNC có thể nằm trong các chương trình chính khóa hoặc ngoại khóa. Kế hoạch chi tiết thực hiện phát triển các KNC ở cấp độ chuyên môn của Khoa/Bộ môn cần trả lời một số câu hỏi sau: Việc phát triển các KNC sẽ được xây dựng trong các đề cương chi tiết môn học với các hoạt động dạy và học ra sao? Trách nhiệm của các thành viên tham gia xây dựng chương trình? Thời gian và điều kiện thực hiện?
Kiểm tra, theo dõi chu trình thực hiện của các bộ phận như thế nào?
2.2.2.2 Chỉ đạo, triển khai hoạt động đào tạo lồng ghép kỹ năng chung
Để chỉ đạo, triển khai nội dung lồng ghép các KNC vào chương trình và hoạt động đào tạo nhà quản lý có thể tổ chức chỉ đạo theo các nội dung sau: (1) Xác định kết quả mong muốn của chương trình đào tạo theo cách tiếp cận chuẩn đầu ra có tích hợp KNC.
Sau khi kết thúc khóa học, người học cần phải làm tốt những công việc cụ thể gì? Hướng dẫn, chỉ đạo, xác định các môn học nền tảng, môn học cơ sở, môn học cốt lõi, môn học tự chọn trong chương trình đào tạo sẽ lồng ghép các KNC như thế nào?; (2) Chỉ đạo, hướng dẫn giảng viên biên soạn tài liệu, thiết kế đề cương môn học có tích hợp các KNC;
(3) Chỉ đạo, hướng dẫn giảng viên các phương pháp, kỹ thuật tổ chức dạy học tích hợp phát triển KNC cho sinh viên; sử dụng các biện pháp kỹ thuật hiện đại nhằm tạo môi trường học tập, rèn luyện tích cực cho sinh viên…; (4) Chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp (hoạt động Đoàn Thanh Niên, Hội Sinh viên, trải nghiệm lao động nghề nghiệp tại các doanh nghiệp…) từ mục tiêu, cách tiến hành, tổng kết, thông tin phản hồi…
2.2.2.3 Kiểm tra, đánh giá hoạt động đào tạo các kỹ năng chung
Sau khi triển khai các hoạt động đào tạo KNC chính khóa và ngoại khóa, nhà quản lý cần liên tục kiểm tra đánh giá xem hiệu quả triển khai như thế nào. Đây là một khâu quan trọng trong việc phát triển học tập toàn diện cho sinh viên, là một quá trình thu thập các cứ liệu nhằm xem xét chương trình có những ưu điểm và hạn chế nào cần phải sửa đổi, bổ sung hay điều chỉnh chương trình đó hay không thông qua các bước như:
(1)Xây dựng hay chọn lựa các tiêu chí đánh giá chương trình và hoạt động đào tạo các KNC cũng như hiệu quả đào tạo, xây dựng các phiếu khảo sát ý kiến các bên liên quan trong hoạt động dạy và học và xây dựng công cụ kiểm tra đánh giá kiến thức, kỹ năng, vận dụng các KNC của sinh viên trong đánh giá kết quả học tập.
(2) Tiến hành đánh giá xem các điểm mạnh, điểm yếu của hoạt động đào tạo như thế nào? Phân công các bộ phận chiụ trách nhiệm kiểm tra- đánh giá. Sắp xếp các nguồn lực phối hợp cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện đánh giá.
(3) Phân tích nguyên nhân các điểm mạnh, hạn chế và đề xuất biện pháp cải tiến.
2.2.2.4 Điều chỉnh,cải tiến các hoạt động việc đào tạo các kỹ năng chung
Từ các kết quả đánh giá và các đề xuất điều chỉnh, cải tiến tiến hành những hiệu chỉnh phù hợp để bắt đầu cho một chu trình hiệu chỉnh đề cương mới hay cách thức đào tạo mới. Với các nguồn lực hỗ trợ cần phối hợp với các tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan để thực hiện cải tiến điều chỉnh hoạt động đào tạo KNC. Bên cạnh đó, việc nhà quản lý trong suốt quá trình thực hiện hoạt động đào tạo các KNC cần khuyến khích, động viên cho cán bộ, giảng viên tư vấn, hỗ trợ hiệu quả cho sinh viên trong học tập, nghiên cứu khoa học, định hướng nghề nghiệp và các hoạt động xã hội, đoàn thể chia sẻ các kết quả cải tiến qua các sinh hoạt chuyên môn, tọa đàm, hội thảo, hội nghị hoặc tổ chức tập huấn sau đó nhà trường sẽ xây dựng các đề án cải tiến và phân công cụ thể.
3. Khái quát thực trạng hoạt động quản lý đào tạo các kỹ năng chung tại Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQG-Hồ Chí Minh
3.1. Khái quát về Triết lý giáo dục Trường Đại học KHXH&NV
Giáo dục đại học phải cung cấp giáo dục toàn diện, chú trọng tính tương tác trong dạy và học không những trang bị kiến thức mà còn các kỹ năng và phẩm chất, thái độ để thúc đẩy tinh thần, trí tuệ, tính nhân văn, phát triển năng lực xã hội và thể chất của sinh viên, nuôi dưỡng họ trở thành những “công dân toàn cầu” tự tin, chu đáo, kiên trì và có ý thức trách nhiệm với bản thân và người khác.
Trường Đại học KHXH&NV, ĐHQG-Hồ Chí Minh đã ban hành quyết định phổ biến nội hàm Triết lý giáo dục Trường, bao gồm Toàn diện - Khai phóng - Đa văn hóa.
Triết lý giáo dục toàn diện nhấn mạnh việc trang bị kiến thức chuyên môn những kỹ năng mềm cho sinh viên, tư duy tổng hợp phân tích; vừa có kỹ năng chuyên môn vừa có các KNC và kỹ năng mềm (cá nhân và nhóm); biết tự đánh giá và hoàn thiện bản thân, có tinh thần cầu tiến. Triết lý giáo dục khai phóng đề cập đến việc rèn luyện tư duy độc lập, sáng tạo, hướng đến giải pháp; Kỹ năng giải quyết vấn đề một cách độc lập, sáng tạo; Kỹ năng đọc, suy luận và trình bày (nói và viết) có cơ sở khoa học và mạch lạc; Khả năng lãnh đạo, quản lý, học tập suốt đời...Triết lý giáo dục đa văn hóa nhằm mục đích trao dồi tư duy tổng hợp, phản biện, hệ thống; Kỹ năng giao tiếp, làm việc nhóm, hòa giải và đàm phán; Khả năng chuyển đổi và thích ứng với môi trường đa văn hóa. [Trích QĐ 68/ Đại học KHXH&NV, ĐHQG-Hồ Chí Minh ban hành ngày 06/08/2018].
Như vậy, triết lý giáo dục nhà trường như trên bao gồm những yếu tố liên quan đến kỹ năng mềm học tập suốt đời; Kỹ năng giao tiếp, làm việc nhóm, hòa giải và đàm phán;
Khả năng chuyển đổi và thích ứng với môi trường đa văn hóa... đều là những yếu tố quan trong trong KNC đã được phân tích ở phần 2. Vậy, với triết lý giáo dục như trên, Trường Đại học KHXH&NV, ĐHQG-Hồ Chí Minh đã và đang từng bước nâng cao chất lượng đào tạo các KNC cho sinh viên.
3.2. Các hoạt động quản lý đào tạo kỹ năng chung tại Trường Đại học KHXH&NV, ĐHQG-Hồ Chí Minh
3.2.1. Các hoạt động quản lý đào tạo kỹ năng chung trong chương trình chính khóa
3.2.1.1 Xây dựng và triển khai chương trình đào tạo các kỹ năng chung
Các Trưởng Khoa/ Bộ môn hay Chủ tịch hội đồng khoa học Khoa/ Bộ môn của Trường tổ chức hoặc tham gia nghiên cứu/ tập huấn/ hội thảo về xây dựng chuẩn đầu ra chương trình đào tạo và môn học trong chương trình đào tạo theo hướng tiếp cận mô hình CDIO và theo Bộ tiêu chuẩn AUN-QA về đánh giá chất lượng chương trình đào tạo đòi hỏi các KNC. Mỗi năm, trường tổ chức ít nhất từ 2-3 lần tập huấn/ hội thảo/ hội nghị về chương trình đào tạo … việc áp dụng CDIO đã giúp ĐHQG-Hồ Chí Minh gặt hái được nhiều thành quả cũng như tái thiết kế các CTĐT, đáp ứng tốt hơn yêu cầu thị trường lao động thông qua phát triển đồng thời kiến thức, kỹ năng, phẩm chất và năng lực thực hành nghề nghiệp cho sinh viên. Từ đó, trưởng các bộ môn tổ chức chủ trì xây dựng chuẩn đầu ra môn học trong chương trình đào tạo lồng ghép các KNC, đặc biệt là trong từng đề cương chi tiết môn học và bài giảng ứng với mức độ năng lực mong muốn đã xác định.
Trong giảng dạy và tổ chức các hoạt động trên lớp học, giảng viên trường ngày càng có ý thức và thực hiện khuyến khích sự sáng tạo, hợp tác qua các hoạt động nhóm nhằm giúp sinh viên phát triển các kỹ năng giao tiếp,trình bày, giải quyết vấn đề, tư duy phản phản biện... Các hình thức tổ chức dạy học được lồng ghép phối hợp một cách linh hoạt như: Roleplay (đóng vai, đóng kịch), Project – based learning (học tập theo dự án), Problem – based learning (dạy học dựa trên vấn đề), Case study (nghiên cứu tình huống), Mind map (sơ đồ tư duy), Seminar…Với những hình thức dạy học này, sinh viên được trải nghiệm cả lý thuyết lẫn thực hành. Qua các hoạt động dự giờ giữa các giảng viên trong các khoa/bộ môn, giảng viên có cơ hội học hỏi kinh nghiệm và khắc phục các hạn chế trong việc tổ chức hoạt động nhóm. Ví dụ như giảng viên học hỏi được qua các góp ý là việc yêu cầu sinh viên làm việc nhóm không có nghĩa là sinh viên sẽ học được những kỹ năng làm việc theo nhóm hiệu quả, nếu giảng viên không biết cách hướng dẫn sinh viên thành lập một nhóm hợp lý, không lập kế hoạch và phân chia công việc trong nhóm chi tiết, khoa học và hiệu quả và không biết làm sao để giải quyết những vấn đề bất đồng, bất hợp tác trong nhóm…Từ đó chú trọng đến phương pháp tự học của sinh viên, hình thành nên những kỹ năng cốt lõi, tạo cho người học lòng ham học, khơi dậy sự tìm tòi, hợp tác. Ngoài ra, còn có các buổi hướng dẫn tra cứu tài liệu điện tử tại thư viện, trích dẫn sử dụng thông tin trên mạng, diễn đàn học tập, CLB học thuật…do Khoa và nhà trường tổ chức đã mở ra các cơ hội cho sinh viên có thể tiếp cận, hình thành những thói quen học tập, năng cao các KNC cá nhân và tương tác nhóm.
Bên cạnh một số thuận lợi cũng có không ít những khó khăn như trong quá trình giảng dạy, một số giảng viên còn chưa thành thục kỹ năng sử dụng các phương tiện dạy học, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học còn ít và chưa hiệu quả, hạn chế phát huy tính tích cực của người học hay việc đánh giá quá trình học tập các môn học ngoài kỹ năng ngôn ngữ thường thiếu tài liệu, giáo trình có thiết kế sẵn bài tập, câu hỏi, công cụ…mà đa phần giảng viên phải tự chủ động thiết kế.
3.2.1.2. Giám sát, đánh giá và cải tiến hoạt động đào tạo các kỹ năng chung Các Khoa/Bộ môn, theo hướng dẫn và chỉ đạo của nhà trường cũng như theo quy
trình điều chỉnh chương trình đào tạo định kỳ 2 năm/lần đều phải tổ chức hội thảo, tọa đàm rộng để lấy ý kiến đóng góp của các nhà quản lý, nhà khoa học, chuyên gia, cơ sở tuyển dụng, sinh viên tốt nghiệp, giảng viên…Từ đó có cơ sở để rà soát, điều chỉnh các chương trình và hoạt động đào tạo, trong đó gần đây đặc biệt lưu ý việc lồng ghép các KNC…..
Ngoài ra, trong quá trình giảng dạy, hoạt động đánh giá dạy học được nghiêm túc thực hiện định kỳ và xử lý qua các buổi họp, đợt khảo sát ý kiến người học bằng phiếu hỏi với các câu hỏi đóng và mở. Từ đó, chia sẻ, đề xuất cải tiến hoạt động giảng dạy phù hợp với chương trình và mục tiêu đào tạo lồng ghép triển khai đào tạo KNC hiệu quả.
Giảng viên còn hướng dẫn SV biết phát triển kỹ năng tự đánh giá để tự điều chỉnh việc học, thông qua đánh giá chéo lẫn nhau trong cả đánh giá quá trình lẫn đánh giá cuối kỳ để người học có cơ hội thể hiện sự tiến bộ của mình trong quá trình học. Quy định khảo thí và đảm bảo chất lượng của Trường yêu cầu giảng viên phải là rõ các tiêu chí đánh giá các kỹ năng làm việc nhóm, thuyết trình, giải quyết vấn đề, quản lý thời gian, tư duy phản biện trong các tiểu luận/dự án, thực tập thực tế của sinh viên, xây dựng các rubrics đánh giá cụ thể.
Thế nhưng, một số mặt hạn chế đó là chưa có nhiều sinh hoạt chuyên môn về kiểm tra, đánh giá nhằm giúp giảng viên học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm trong hoạt động dạy học;
Chưa có nhiều chuyên gia hướng dẫn chuyên sâu về đào tạo KNC…
3.2.2. Các hoạt động quản lý đào tạo kỹ năng chung trong chương trình ngoại khóa 3.2.2.1 Xây dựng và triển khai chương trình đào tạo ngoại khóa
Việc lồng ghép đào tạo các KNC trong các hoạt động ngoại khóa diễn ra ở hai cấp độ; (1) cấp độ Trường, (2) cấp độ Khoa/ bộ môn [ở cấp độ Khoa/Bộ môn lãnh đạo và các cán bộ phụ trách công tác sinh viên, xây dựng và triển khai nhiều hoạt động hàng năm như CLB học thuật, các cuộc thi lễ hội, …hướng dẫn sinh viên các khóa tự xây dựng kế hoạch và phối hợp triển khai].
Ở cấp trường, Đoàn trường phối hợp với Phòng đào tạo tổ chức nhiều câu lạc bộ, hội thi mang tính học thuật để sinh viên có thể ứng dụng lí thuyết vào thực hành thực tiễn. Các buổi lễ (khai giảng, thành lập Trường, các buổi sinh hoạt đầu năm, tư vấn ngành nghề, gặp gỡ, trao đổi với cựu sinh viên, nhà tuyển dụng giúp sinh viên ý thức hơn về việc tự rèn luyện các KNC. Ngoài ra, các câu lạc bộ, đội nhóm trực thuộc Đoàn như: CLB Tình nguyện IR4C (International Relations for Community), CLB Sinh viên 5 Tốt,CLB Guitar Nhân Văn, CLB Văn minh học đường đã liên kết với rất nhiều các CLB khác trong và ngoài nhà trường (CLB Thư pháp Kiến Việt thuộc Đại học Kiến Trúc, CLB học thuật khoa Y, ĐHQG-Hồ Chí Minh…) từng bước định hình, tạo môi trường lành mạnh để sinh viên giao lưu chia sẻ kinh nghiệm phát triển các kỹ năng Đặc biệt, công tác xã hội của Đoàn trường là một trong những hoạt động mang nhiều ý nghĩa và nét đẹp nhân văn, ngày càng thu hút được nhiều sinh viên tham gia, góp phần khơi gợi lòng yêu thương, sống chia sẻ của sinh viên như chiến dịch tình nguyện mùa hè xanh,
hiến máu nhân đạo, quản trị các diễn đàn, hoạt động quyên góp, cứu trợ…Qua đó, tạo điều kiện để sinh viên có thể cống hiến sức trẻ cho xã hội và phát triển các kỹ năng giao tiếp lãnh đạo, học tập suốt đời.
CLB nghiên cứu khoa học các tổ chức tự nguyện của sinh viên, trực thuộc Hội sinh viên trường, được Ban Giám hiệu, Phòng đào tạo, Phòng quản lý khoa học, trực tiếp chỉ đạo về chuyên môn và được sự bảo trợ của Ban Chủ nhiệm các khoa trong nhà trường tạo điều kiện, khuyến khích cho sinh viên thi đua học tập, tập sự nghiên cứu khoa học, giúp sinh viên có điều kiện tiếp cận với thực tế, phát triển tư duy phản biện và sáng tạo là những kỹ năng quan trọng nhất trong các nhóm KNC. Tuy vậy, chưa có nhiều các khóa học đào tạo KNC miễn phí hoặc ưu đãi học phí phù hợp khả năng tài chánh của sinh viên.
Việc kết nối với các doanh nghiệp, cựu sinh viên chưa được chú trọng một cách thường xuyên và phổ quát ở các khoa.
3.2.2.2. Giám sát, đánh giá và cải tiến hoạt động đào tạo ngoại khóa
Cán bộ quản lý các cấp kiểm tra đơn đốc thường xuyên về nội dung, kết quả thực hiện chương trình đào tạo các KNC, đánh giá, chấm điểm rèn luyện của sinh viên hoạt động ngoại khóa và thực hiện công tác lưu trữ, thống kê kết quả tích lũy số điểm hoạt động ngoại khóa.
4. Kết luận
Phát triển chương trình đào tạo các KNC cho sinh viên trong mối quan hệ gắn kết với thị trường lao động và việc tổ chức thực hiện chương trình đào tạo đạt chuẩn đầu ra để đáp ứng nhu cầu tuyển dụng đang là xu hướng quan tâm của các nhà giáo dục. Tuy nhiên, để đạt hiệu quả cao trong công tác quản lý, thực hiện đào tạo các KNC này cũng như thay đổi toàn diện từ tư duy nhận thức đến hành động của sinh viên để có khả năng thích nghi với môi trường làm việc mới vẫn còn là một nhiệm vụ khó khăn đòi hỏi phải có chiến lược rõ ràng cùng với sự đầu tư công sức, thời gian cũng như tâm huyết của cá nhân và cả tập thể nhà trường. Tiến hành hàng loạt các hoạt động đổi mới chương trình và tổ chức đào tạo nhằm trang bị cho người học những kiến thức chuyên môn cùng với tổ chức thực hiện chương trình đào tạo trong mối quan hệ gắn kết với doanh nghiệp để tăng cường hoạt động trải nghiệm của sinh viên, sự tham gia của doanh nghiệp trong quá trình đào tạo là các nhiệm vụ trọng tâm. Vì vậy, các trường đại học Việt Nam nói chung và Trường Đại học KHXH&NV. Hồ Chí Minh nói riêng nên xem xét và cải tiến việc tích hợp các KNC này vào việc xây dựng và triển khai các chương trình đào tạo ở các ngành học cho phù hợp với điều kiện thực tiễn hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nguyễn Minh Đạo (1997), “Cơ sở khoa học quản lý”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[2]. Giáo trình Khoa học quản lý (2001), tập I, Trường ĐH KTQD, Hà Nội.
[3]. Nguyễn Minh Đường (1996), “Tổ chức và quản lí quá trình đào tạo”, Tài liệu giảng dạy - Viện Nghiên cứu phát triển Giáo dục, Hà Nội.
[4]. Bùi Hiền, Nguyễn Văn Giao, Nguyễn Hữu Quỳnh, Vũ Văn Tảo, (2001), “Từ điển giáo dục học”, NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
[5]. Viện Ngôn ngữ học (2001), “Từ điển tiếng Việt”, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[6]. Lê Văn Hồng, Lê Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thàng, (2001), “Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm”, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
[7]. Lê Quang Sơn (2010), “Những vấn đề của quản lý giáo dục theo học tín chỉ trường Đại học sư phạm”, Tạp chí Khoa học và công nghệ, ĐH Đà Nẵng (Số 6-41).
[8]. Indiana University (1999) “What is a Generic Skill?”.
[9]. David Pencheon (1998) Development of generic skills.
[10]. National Centre for Vocational Education Research NCVERR (2003), “Defining generic skills: At a glance”.
[11]. Malaysia university (2009): “Soft skills at the Malaysian institutes of higher learning”Asia Pacific Educ. Rev.
Title: MANAGEMENT OF GENERIC SKILLS TRAINING IN VIETNAMESE UNIVERSITIES ON COMPREHENSIVE DEVELOPMENT ORIENTATIONS
(A CASE STUDY AT UNIVERSITY OF SOCIAL SCIENCES AND HUMANITIES, HO CHI MINH CITY NATIONAL UNIVERSITY)
NGUYEN DUY MONG HA VNUHCM-University of Social Sciences and Humanities TRAN THI HIEU TRUNG Abstract: In the era of the Industrial Revolution 4.0, besides excellent professional competences, generic skills will contribute to students’ success in their future. The paper initially focuses on generalizing the theoretical background where management processes of generic skills training and integration are presented. Then, implementation steps along with basic advantages and disadvantages in the management of general skills training at University of Social Sciences and Humanities, Ho Chi Minh City National University will be analyzed. Finally, some suggestions will be offered to both leaders and students so that they can understand new trends on the labour market.
Key words: Generic skills, Vocational competence, Comprehensive development.