QUAN ĐIỂM VÊ DÂN
TRONG VÃN KIỆN ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG
★ GS,TSNGUYỄN HÙNG HẬU
Viện Triếthọc,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
• Tóm tắt: Phân tích quan điểm về dân trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng như “dân là gốc”, dân là chủ thể, dân là trung tâm; dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng; từ đó dẫn đến chủ trương thân dân, tin dân, trọng dân, gần dân, sát dân, hiểu dân, yêu dân, kính dân, vì dân; là sự chắt lọc tinh túy truyền thống lịch sử;
bổ sung phát triển tư tưởng Hô Chí Minh lên một tầm cao mới, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thê của thời đại.
• Từ khóa: quan niệm về dân, tinh túy truyền thống tư tưởng Hồ Chí Minh.
T
ừtrưongChủ tịch Hồ Chí khi ra đòi “lấycho đếndânMinh làm gốc” nay, đã từng nói: “NướcĐảng , “dân ta luônlà gốc”.chủ lấy dân làmgốc”(1); “Gốc có vững câymói bền.Xây lầu thắng lọi trên nền nhân dân”(2). Theo Người, dân không chỉlàgốc,lànền móng, mà dâncònlà chủ.Qua các kỳ Đại hội,tư tưởng này ngàymộtphát triển, cụ thể thêm, rõ hon. Đặc biệt trongVăn kiện Đại hội XIII của Đảng, tư tưởng này đã có bước phát triển mới về chất, không chỉ cụ thể hon, rõ hơn, hệ thống hơn, mà còn chính xác hóa thêm.Chát lọc tinh túy của truyềnthốnglịch sử,của tư tưởng Hồ Chí Minh, bài học thứ haitrongVăn kiện Đạihội XIII của Đảngviết: “Trongmọi công việc của Đảngvà Nhà nước, phải luônquán triệt sâu sác,thực hiện nghiêm túc quan điểm “dânlàgốc”; thật sựtin
tưởng,tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm,dânkiểm ưa,dângiám sát,dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủthể của công cuộc đổimói, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sựxuất phát từ nhu cầu, nguyện vọng, quyền và lọi ích họppháp, chính đáng của nhân dân”(3). Quan điểm về dân ưong Văn kiện Đại hội XIII củaĐảng cónhững nội dung quan ttọngsau:
1. “Dân làgốc”
“Dân là gốc” tứcdân thực sự là gốc, vốnlà gốc.
Đó là điều khảng địnhdứt khoát,không cònbàn cãi, chứ khôngphải “lấy dân làm gốc” nhưtrước kia chúng ta thường nói. Lưu ý ràng, ữong truyền thống cóhai mệnh đề: “Dân vi bang bản” (dân là gốc nước) và “Dĩ dân vi bản” (lấy dân làm gốc).
LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - số 526 (12/2021)
Chảng hạn, Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) cho ràng xưanay nước phải lấy dân làmgốc, nên biếtràng“muốn giữ được nước, cốt phải được lòng dân” (cổ laiquốc dĩ dân vibản, đác quốc ứngtrị tại đác dân). Haimệnh đề này có phần khác nhau ở chỗ, một đàng dân vốn là gốc của nước, một đàng là lấy dânlàm gốc; mộtđàng nghiêng về tự nhiênvốn dĩ nó là như vậy, một đàngđãcósựcan thiệp của lý trí con ngưòi. Đi sâu phân tích thìchủthể “Dĩ dân vi bản” (lấy dân làm gốc) làvua chúaphong kiến.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ ChíMinhkhôngnói như vậy, Người nói: “Nước lấy dân làm gốc”;
“Gốccó vữngcây mói bền.Xây lầuthắng lọi trên nềnnhân dân”.Ở đó, nước là cái cây còndân là gốc. Khôngcó gốc thì không thể có cây.Thânvà ngọn nảysinh, xuất hiện trên cơ sở cái gốc, gốc mà còi cọc thì thân, ngọn và nói chung cây không thể khỏe mạnh được.
Đúng nhưHồ Chí Minh nói,gốc vững câymới bền, bởi vậy, còn dân là cònnước. Nước cũng nhưmộtcáinhà thìdân là nềnmóng. Nền móng vững thì nhà mới vững được; còn ngược lại, móngkhôngvững thì nhà sẽbịlún,nứtvà rấtdẻ đổ sập.Theo nghĩa đó, Hồ Chí Minh cho ràng, xây lầu(nhà) tháng lọiphảitrêncơ sở cái nềnlà nhân dân. Quan điểmĐại hội XIII của Đảng, mộtmặt, chắt lọc tinh hoa truyềnthống lịchsử;
mặt khác,kế thừa, pháttriểntư tưởng Hồ Chí Minh, khi đưara quan điểm “dân là gốc”. Cần lưuý, hiệnnaytrêncác phươngtiện thông tin đạichúng vẫn còn dùng từ “lấy dân làm gốc”là không còn phù họp, không chínhxác.
Đi sâuphântích ta thấy,Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng nói “nướclấydân làm gốc” (quốc dĩ dân vi bản), nhưng ngaytrongquan điểmvề dân ở Hồ Chí Minh đãcó sự khác xaso vói Nho giáo cũng như truyền thống lịch sửmàtiêubiểulà Nguyễn Bỉnh Khiêm. Hồ Chí Minh cho ràng
dânchính lànhân dân, quần chúng, đồng bào.
“Quần chúng tức là toàn thể chiến sĩ trong quân đội, toànthể công nhân trong xưởng,toàn thể nhân viên trongcơ quan V.V.. rồi đến toàn thể nhân dân”t4). Trong Nho giáo, dân nhìn chung và cơ bản là những ngườibị trị, dođóhọ là những lực lượng bịđộng,thiếu sức sáng tạo.
Các nhàtư tưởngViệt Namquan niệm về dân có tiến bộ hơn, họ đã phần nào nhìn ra sức mạnh, sự sángtạocủadân. Nhưng ỞTrần Quốc Tuấn khi nhìnvề dân,ông vẫn có một cái nhìn có vẻcủa người từtrên cao nhìn xuống, đặc biệt đối vớibinh lính, quân sĩ, chứ không phải là ngang hàng bình đảng. Nguyễn Trãi có tiến bộ hơn,kháiniệmdân được mởrộng hơn bao gồm cả những ngườinghèo khổ, những người lao độngbình thường, dân nhưmộtlực lượng to lớn, như nước. Nhưng Nguyễn Trãi vẫn chỉ nhìn mộtcách chung chungnhư vậy, chưa thấy sức mạnh toàn diện, vai trò, vị trí của dân.
Nguyễn BỉnhKhiêmcũng vậy. Chỉ đến Hồ Chí Minh trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin,cách nhìn nhận về dânđãcó sự thayđổi về chất.Nếu Nhogiáo coi dân là người bịtrị, thụ động, không có sức sáng tạo, thì ởHồ Chí Minh, dân là quầnchúng-động lực của lịch sử, là lựclượng vô địch,là nguồn sáng tạo bấttận.
Hồ ChíMinh choràngtrongthế giói không gì mạnhbànglựclượng đoàn kết của nhân dân.
NếuNho giáo coithường những ngườilao động chântay và những người dân nói chung thì Hồ Chí Minhchoràng trong bầu tròi không gì quý bàng nhân dân. Như vậy, quanđiểm “dân là gốc” mà Văn kiện Đại hội XIII củaĐảng nêu ra là sự chát lọc,kết kinh nhữnggì tinh túy nhất của truyền thống lịch sử, đồngthời bổ sung, phát triểntư tưởng Hồ ChíMinhlên một trình độ mới phù họpvới thực tiễn ViệtNam và xu hướngcủa thòi đại.
LÝLUẬN CHÍNH TRỊ - số 526 (12/2021)
2. Dân làchủ thể
Dân không chỉlàgốc,mà dân còn là chủthể.
Trong lịch sử, từTuân Tử cho đến Nguyên Trãi đềucho dân như nước, chính quyển, chế độ, nhànướcnhư thuyền, nước cóthể chở thuyền màcũng có thể lật thuyền. Hồ ChíMinh cũng cho như vậy, nhưng khái niệm “Dân", “Nhà nước” hoàn toàn có sự khác về chất so với những ngườiđi trước. Nhà nước ở đâykhông phải đúng trên dân mà nhìnxuống, nhà nướcở đây là nhà nướccủa dân, dodân, vì dân. Ở Hồ Chí Minh, có một hình ảnh khá cụ thể, sinh động:dân như nước, chínhquyền (nhà nước) nhưthuyền, Đảng làngười cầm lái, chủ nghĩa là tríkhôn,la bàn. Người viết: “Chúng ta phải hiểu ràng, cáccơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vácviệc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thòi kỳ dưới quyềnthốngtrị của Pháp, Nhật”(5). Trong bài Dânvận, Hồ Chí Minh giảithích thếnào là nướcdân chủ? Nước dânchủ là bao nhiêulọi ích đều vìdân. Bao nhiêu quyền hạn đềucủa dân. Công việc đổi mới, xây dựng làttách nhiệm của dân. Sự nghiệpkháng chiến, kiếnquốc là công việccủa dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đếnxã dodântổchức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở noi dân. Hiến pháp của nước ta quy định: tấtcả quyền lực trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đều thuộc về nhân dân. Nhiều lần Ngườinhác nhở:
“Chính phủ talà một Chính phủlàm đầy tớ của nhân dân, một lòng một dạ phục vụ nhân dân”(6). Nhưvậy,không chỉ dânlàgốc, dânlà nền móng, dân như nước, mà dân còn là chủ.
Mục đíchxâydựng nước Việt Namkhôngchỉ độclập mà còn tự do, hạnh phúcvà dân chủ.
Bởi vậy, việc gìcó lợicho dân, ta phải hếtsức
làm;việc gì có hại cho dân, ta phảihếtsức tránh.
Văn kiện Đại hộiXIII của Đảng chỉ rõ mọi hoạt động của hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên, công chức phảiphụcvụlọi íchcủa nhân dân, lấy hạnhphúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Chúng taphải thực hành và phát huy rộng rãi dân chủxã hội chủ nghĩa, quyềnlàm chủ vàvaitrò tự quảncủa nhândân.
Hồ Chí Minh nói dân làchủ, nhưng đến Văn kiện Đại hộiXIII cho ràngdânlà chủ thể. “Đảng lãnh đạo, Nhànước quản lý, Mặt trận Tổquốc và các tổ chứcchínhtrị - xã hội làm nòng cốt để nhân dầnlàm chủ. Cấp ủy,tổ chức đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị, đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức nêu gương thực hành dân chủ, tuân thủ pháp luật,đề cao đạo đức xãhội. Đảng và Nhànước ban hành đường lối,chủ trương,chính sách, phápluậttạo nền tảng chínhtrị, pháp lý,tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Đề cao vai trò chủ thể,vị trí trung tâmcủanhân dân trong chiến lược phát triển đất nước,trong toànbộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổquốc”(7).
Như vậy, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã có sự chát lọc, kếtkinh những nội dung tinh túy nhất của truyền thống lịch sử, đổng thời kế thừa, bổ sungvà phát triển tưtưởng Hồ Chí Minh lên một trình độ mới phù họp với thực tiềnViệtNam và xu hướng của thời đại. Tuy nhiên, trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng chỉ ra: “Quyền làm chủ của nhân dân có lúc, có nơi cònbịvi phạm; vẫn còn biểuhiện dân chủ hình thức"í8).
3. Dân là trungtâm
Dân không chỉ là gốc, là chủ, mà dân còn là trung tâm. Thực ra tưtưởng này đã có ởHồ Chí Minh, nhưngnói một cáchngán gọn, côđọng, rõràng như vậychỉ đếnVăn kiện Đại hội XIIIcủa Đảngmới cóđược. Chínhvì là trung tâm, nên
LÝLUẬN CHÍNH TRỊ - Số526 (12/2021)
mọi cáikhác đều xoay xungquanh Đảng, chảng hạn, “Xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân”(9); “Tiếp tụcxây dựng nền tư pháp ViệtNam chuyên nghiệp, côngbàng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phụcvụ nhân dân”(10); Đảng lãnh đạo,Nhà nước quảnlý, Mặt trận Tổ quốcvà các tổ chức chính trị -xãhội làmnòngcốt để nhân dân làm chủ. Mục đích của Đảng và Nhà nước là hướng đến cáitrung tâm,xoay quanh cái trung tâm này, tức là hướng đếnngười dân, không ngừng nâng cao đời sống vậtchất và tinh thần củanhândân. “Vì trướcsau như một, ngoài lợi ích của nhân dân, Đảng không có lọi ích nào khác”(11).Bỏi vậy, Vănkiện Đạihội XIII của Đảngchủ trưong thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyềnlàm chủ vàvai trò chủ thể của nhân dân.
Xây dựng cáccơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiếnvìđất nướccủamọi người dân Việt Nam. Phát huy tối đanhântố con người, conngườilà trung tâm, chủ thể, là nguồnlựcchủ yếu và mụctiêu của sự phát triển. Xây dựng con ngườiViệtNam phát triển toàn diện, gán kết chặt chẽ, hài hoà giữa giá trị truyềnthốngvầ giá trị hiện đại; nâng caochất lượng cuộc sống và hạnh phúc củanhân dân. Cụ thể, tiếp tục triển khaiđồng bộcác giải pháp giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững. Phát triển hệ thống bảo hiểm xãhội linh hoạt, đa dạng, đatầng,hiệnđại.
Bảođảm cung cấp và nâng cao khảnăngtiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, nhất làđốivới người nghèo, ngườiyếu thế trong xãhội,quan tâmchăm sóc bảo vệsức khỏe của nhân dân. Vị trí chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân ta xuyênsuốt Văn kiện Đại hội XIII của Đảng trên mọi lĩnh vực.Điều này thể hiện: (1) Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước; (2) Phát huy tính tích cực chính trị-xã hội,quyền vàtráchnhiệm
của nhân dân thamgia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chínhtrị - xã hội, xây dựngđộingũđảng viên, cán bộ, công chức; có cơ chế giải phóng mọi tiềm năng,sức mạnh, khả năng sáng tạo,động viênnhân dân tham giapháttriển kinh tế và quản lý phát triển xã hội; (3) Bảo đảmcông khai, minh bạch thông tin, quyền được thông tin và cơ hội tiếp cậnthông tin củamọi tầng lóp nhân dân; (4) Thựchiệnđúng đán, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đạidiện, nhất là dânchủở cơ sở; (5) Chống các biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức; (6) Đẩy mạnh việc hoàn thiện, xâydựnghệ thốngpháp luật thốngnhất, đổngbộ,hiệnđại, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếpcận,có sứccạnh tranhquốc tế, bảo đảm quyền vàlợi ích chính đáng của nhân dân, thúc đẩyđổi mói sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển bển vững kinh tế, xã hội và quốc phòng, anninhtrong điều kiện mói(12).
4. Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra,dân giám sát, dân thụ hưởng
Trước Đại hội XIII, chúng ta mói chỉ nói: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiém tra. Vănkiện Đại hội XIII của Đảng bổ sung thêm: dângiám sát, dân thụ hưởng và chỉ raphải bảođảm công khai, minh bạch thông tin, quyền đượcthông tin vàcơ hội tiếp cận thông tincủamọitầnglóp nhân dân để dân biết. Trêncở sở dânbiết thì dân mói bàn. Trong bài Dân vận, theo Hồ Chí Minh bấtcứ việcgìđều phải bàn bạcvới dân, hỏi ý kiến và kinhnghiệm của dân, cùng vói dân đặt kế hoạch cho thiết thực vói hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổchứctoàndân rathi hành. Trong lúc thi hành phải theo dõi,giúp đỡ, đôn đốc,khuyếnkhích dân. Khi thi hành xong phải cùngvới dân kiểm thảo lạicông việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khenthưởng. Hồ Chí
LÝ LUẬNCHÍNH TRỊ - Số526 (12/2021)
Minh chủ trương lấy dân để làm lợicho dân;
đem tàidân, sứcdân, của dânđểlàmlọi cho dân.Triết lý nàycaosiêu ở chỗ người cánbộ, các cơ quan chính quyềnchỉ là người tổ chức, chỉ dẫn,chỉđường, dẫn lối, còn tất cảlà ở người dân.
Mục đích của mọi chủtrương,đường lối, suycho cùnglà vì dân. Nhưng lực lượng vật chất để thực hiện chủ trương, đường lối này thì lấy ởđâu, dựa vào đâu?Hồ Chí Minh đãchỉrõ: dựa vàodân, lấy ở dân. Nhưvậy, người cán bộ làm nhưng dường như khônglàm, chỉ bày cho dân tựlàm; còn dân lại nghĩ:tất cả là do mình, tựmìnhlàm, không có sự canthiệp từ bênngoài, làm một cách tự nhiên, bởi lẽcán bộ đềutừ dân mà ra, làcông bộc, đầy tớ của dân. Do đó dân thấy tự nhiên, thoải mái, không cảmthấy nặng ở phía trên.
Điềunày có một số điểmgiống vói triếtlý vô vi củaLãoTử. Lão Tử choràng người giỏicaitrị là trịdân nhưng dân không biết cóngười trị, ởtrên dân mà dânkhôngthấy nặng, làm như không làm, khônglàm nhưng khôngcó gì là không làm (vôvi nhi vô bất vi). Điềunày hoàn toàn khác vói cách làm hữu vi,tức làmđểphô trương, khoe khoang, kể công, hình thứccho nên không bền.
Cùng vói triết lý lấy sức dânlàmlợi cho dân, Hồ Chí Minh còn đưara triếtlý lấyquần chúnggiáo dục quần chúng vôcùngthâm sâuvi tế.
Nhưng đíchcuối cùnglà dân thụhưởng. Thật vô lý khi dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiếm tra,dân giám sát, nhưng dânlạikhông được thụ hưởng, dân không hạnh phúc. Lần đầu tiên trong Văn kiện của Đảng có nói đến “nângcao chất lượngcuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam”(13). Dođó, phát triểntoàn diện con ngườiViệt Namđangtừngbước trở thànhtrung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Quanđiểm chỉ đạo thứ ba trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng làphải phát huy dân chủ xã
hội chủ nghĩa, bồidưỡng sứcdân, có cơ chếđột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài. Định hướng thứ tư phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030 trong Văn kiện Đại hộiXIII của Đảng chỉ ra ràngphải phát triển con ngườitoàndiệnvà xây dựngnền văn hóa Việt Nam tiêntiến,đậm đà bản sácdân tộc đểvăn hóa, con người Việt Nam thực sự trởthành sức mạnh nội sinh, động lực pháttriển đấtnước và bảo vệTổ quốc;tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa; xây dựng, pháttriển, tạo môi trường và điềukiệnxã hội thuận lợi nhấtđể khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dântộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nướcphồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tũệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triểnquan trọng nhấtcủa đất nước; định hướng thứchín trongVăn kiện Đại hội XIII củaĐảng chủ trươngthực hành và pháthuyrộngrãidân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thểcủanhân dân; tập trung nghiêncứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóavà chuẩn mực con người gánvóigiữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đìnhViệt Nam trong thòi kỳ mới; từng bước vươn lên khácphụccác hạnchếcủa con người Việt Nam;
có cơ chế, chính sách, giải pháp để xây dựng môi trường văn hóa thật sự trong sạch, lành mạnh, cải thiện điều kiện hưởng thụ văn hóa của nhân dân; phát huy các nhân tố tích cực, nhân vãntrong các tôn giáo, tín ngưỡng; bảo đảm tấtcả quyền lực nhànước thuộc về nhân dân. Thực hiện đúng đán, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện,đặc biệt là dânchủ ở cơ sở.
Mặt khác, phải xây dựng và hoànthiệnNhà nướcpháp quyềnxãhội chủ nghĩaViệtNam củanhân dân, do nhân dân vàvì nhândân; tập trung xâydựng độingũ cán bộ, công chức có
LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ- Sô526 (12/2021)
đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụnhân dân;tạomôi trường, điều kiện làm việc để thúc đẩy đổimới sáng tạo, phục vụ pháttriển; có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dámđổi mớisáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hànhđộng vì lọi ích chung.
Chúng ta cần tiếp tụchoàn thiện, cụ thể hóa, thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và phương châm
“Dân biết, dân bàn, dân làm,dân kiểm tra, dân giám sát,dân thụhưởng”. Tổ chức có hiệu quả, thực chất việc nhân dân tham gia giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị và thamgia một phần vào giám sát, đánhgiá phẩmchất, năng lựccủa đội ngũ cánbộ, đảngviên. Lấy kết quả công việc, sự hàilòngvàtín nhiệmcủa nhândân làm tiêu chí quan trọngđểđánh giáchấtlượngtổ chức bộ máy và chấtlượng cán bộ, đảng viên.
Nhiệm vụtrọng tâm thứ tư và thứ năm trong Văn kiện Đạihội XIII của Đảng đã chỉ ra:khoi dậy khát vọng phát triển đất nước phồnvinh, hạnh phúc; giữ gìn và phát huy giá trịvănhóa, sứcmạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hộinhập quốc tế;
có chính sách cụ thể phát triển văn hóavùng đồng bào dântộcthiểu số; thực hiệntốt chính sách xã hội,bảo đảman ninh xã hội, anninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lýphát triểnxã hội, thực hiện tiến bộ, công bàngxã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống vàchỉ sốhạnhphúc của con người Việt Nam; hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhàm phát huy mạnhmẽ dânchủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủcủa nhân dân.
Tuy nhiên, Văn kiện Đại hội XIII củaĐảng cũngđãchỉ ra,chúng ta “chưa tạo được môi trường thuận lợi đểpháthuysức sáng tạo, thu hút nhân tài; nănglực sáng tạo của các nhà khoa học chưa được phát huy”; “chưa cógiải pháp hữu hiệu để ngăn chặn, đẩy lùisự xuống cấp nghiêm trọng vể một số mặt vănhóa, đạo đức, lối sống, gây bức xúc xã hội”; “các nguồn lực, tiềm năngsáng tạo của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc chưa được phát huy tốt”.
Từ những quan điểm về dân nêu trên,xuyên suốt trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta chủ trương phải thân dân, tin dân, ttọng dân, gần dân, sátdân, hiểudân, yêu dân, kính dân,vìdân;vói phương châmmà Hồ Chí Minh đãchỉra: óc nghĩ, mát trông, tai nghe,chân đi, miệng nói, taylàm □
Ngày nhận bài: 31-5-2021; Ngày phảnbiện: 25-10- 2021;Ngày duyệt đãng: 20-12-2021.
(1), (2) Hồ ChíMinh: Toàn tập, t.5, Nxb Chính trị quốcgia, Hà Nội 2011, tt.502,502.
(3), (7), (8), (9), (10), (12) ĐCSVN: Vănkiện Đại hội đại biểu toànquốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc giaSự thật,HàNội,2021,ư.96-97,173,89,176, 177,51.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, Nxb Chính trịquốc gia, Hà Nội, 2011,tr,362.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trịquốc gia, Hà Nội, 2011, tr.64-65
(6) Hồ ChíMinh: Toàn tập, t.12, Nxb Chínhtrị quốc gia, Hà Nội, 2000,tr.188.
(11) Hồ ChíMinh: Toàn tập, t.13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011,tì.221.
(13)ĐCSVN: Văn kiện Đạihội đại biếu toàn quốc lần thứXIII, t.II, Nxb Chính trị quốcgia Sựthật, Hà Nội,2021, tr.336.
LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - Sô 526 (12/2021)