• Tidak ada hasil yang ditemukan

TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH - QUẢN TRỊ KINH DOANH

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH - QUẢN TRỊ KINH DOANH"

Copied!
15
0
0

Teks penuh

(1)

CÔNG TÁC KIẺM ĐỊNH CHẮT LƯỢNG SỞ GIÁO DỤC TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH - QUẢN TRỊ KINH DOANH

ĐỖ Thị Minh Nhâm, Đỗ Văn Dũng, Đỗ Minh Nam,

Trường Đại học Tài chính - Quản trị kỉnh doanh Ngày nhận bài: 05/07/2021

Ngày nhận bài sửa: 28/07/2021 Ngày duyệt đăng: 06/08/2021

Tóm tắt:Kiếm định chất lượng cơ sở giáo dục (KĐCLCSGD) đã được hình thành và phát triển từ lâu. Tuy nhiên, trong 5 năm gần đây, công tác bảo đảm và kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng được ngành giáo dục quan tâm, chủ trọng, xuất phát từ nhu cầu tất yếu khách quan của công tác đào tạo nguồn nhãn lực và yêu cầu hội nhập quốc tế.

Mặt khác, Kiêm định chất lượng giảo dục được coi là một công cụ hiệu quả giúp các trường đại học nói chung, Trường đại học Tài chính - Quản trị kinh doanh nói riêng kiểm soát và đảm bảo chât lượng đào tạo một cách toàn diện. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác kiếm định chất lượng, trong thời gian qua Trường Đại học Tài chính - Quản trị kinh doanh đã sớm triển khai thực hiện công tác tự đánh giá cơ sở giáo dục đế phục vụ công tác kiểm định chất lượng Nhà trường theo quy định của Bộ giáo dục và đào tạo.

Từ khóa: Đảm bảo chất lượng, kiếm định chất lượng cơ sở giáo dục, giáo dục Đại học.

QUALITYINSPECTION OF EDUCATION INSTITUATIONS AT UNIVERSITYOF FINANCE - BUSINESS ADMINISTRATION

Abstract:Quality inspection of educational institutions has been formed and developedfor a long time. However, in the last 5 years, the inspection for educational units in general and higher education in particular has been interested and focused more in the education field. It stems from the objective need of human resources and international intergration.Otherwise, quality inspection of educational institutions is considered an effective tool for universities in general and University of Finance - Business Administration in particular to ensure training quality in a comprehensive way. Recognizing its importance, in recent years, the University of Finance - Business Administration has soon implemented the assessment of educational institutions to serve the quality control according to regulations of the Ministry of Education and Training.

Keywords: Quality assurance, quality accreditation of educational institutions, University of education

1. Tầm quantrọngcủa công tác kiểmđịnh chất lượng cơ sở giáo dục đại học

Kiểm định chất lượng là một quá trình đánh giá ngoài, nhằm đưa ra một quyết định công

nhận một trường đại học hay một chưcmg trình đào tạo của nhà trường đáp ứng các chuẩn mực qui định (SEAMEO, 2003). Ở Việt Nam, lần đầu tiên khái niệm “kiểm định chất lượng”

Số 23 tháng9 năm2021 16 Tạp chí Tài chính - Quản trị kinh doanh

(2)

được đưa vào Luật Giáo dục 2005, đến năm 2019 Luật giáo dục sửa đổi, đã làm rõ hơn khái niệm về kiểm định chất lượng giáo dục như sau:

“Kiểm định chat lượng giáo dục là hoạt động đánh giá, công nhận cơ sở giáo dục hoặc chương trình đào tạo đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục do cơ quan, tổ chức cỏ thẩm quyền ban hành" [6]. Hoạt động KĐCLGD được thực hiện định kỳ trong phạm vi cả nước và đối với từng cơ sở giáo dục. Kết quả KĐCLCSGD được công bố công khai để xã hội biết và giám sát.

Ngày nay, hoạt động KĐCLGD ở các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam, trở thành một công cụ hữu hiệu để duy trì các chuẩn mực chất lượng cơ sở giáo dục và không ngừng nâng cao chất lượng dạy và học trong các cơ sở giáo dục đại học, điều đó được thể hiện như sau:

Thứ nhất, KĐCLCSGD giúp các trường đại học định hướng và xác định chuẩn chất lượng cho từng hoạt động. Nhằm đánh giá mức độ đáp ứng mục tiêu đào tạo của các trường đại học trong từng giai đoạn, năm 2004 Bộ GD&ĐT ban hành quy định tạm thời về kiểm định chất lượng trường đại học (Quyết định số 38/2004/QĐ-BGDĐT ngày 02 tháng 12 năm 2004 của Bộ GD&ĐT). Theo đó, các tiêu chuẩn kiểm định chất lượng trường đại học gồm 10 tiêu chuẩn với 53 tiêu chí. Năm 2007, Bộ GD&ĐT xác định chuẩn mực chất lượng trong Quyết định số 65/2007/QĐ-BGDĐT ngày 1 tháng 11 năm 2007 của Bộ GD&ĐT, với bộ tiêu chuẩn gồm 10 tiêu chuẩn với 61 tiêu chí và đến nay là bộ tiêu chuẩn đánh giá theo AUN-QA với 25 tiêu chuẩn, 111 tiêu chí (Thông tư số 12/2017/TT-BGDĐT ngày 19/5/2017 của Bộ GD&ĐT, gọi tắt là Thông tư 12). Các tiêu chí được đánh giá theo thang đánh giá 7 mức, từ không đạt yêu cầu đến thực hiện xuất sắc, đạt mức của các CSGD hàng đầu thê giới. Trên cơ sở đó, Bộ GD&ĐT đã hướng dẫn chi tiết, với những chỉ số, chỉ báo, hướng dẫn cụ thể mà các CSGD đại học cần phải đạt để đảm bảo chất lượng toàn diện, có hệ thống. Đồng thời, Bộ

tiêu chuẩn nêu rõ trong báo cáo tự đánh giá cần mô tả, phân tích hiện trạng một cách chi tiết, rõ ràng, chỉ ra điểm mạnh, điểm tồn tại, từ đó lập kế hoạch hành động, đưa ra giải pháp nhằm giải quyết các tồn tại và phát huy điểm mạnh, đây chính là những định hướng phát triển cho giai đoạn tiếp theo của các CSGD đại học.

Thứ hai, KĐCLCSGD giúp các trường đại học có cơ hội xem xét lại toàn bộ thực trạng hoạt động của Nhà trường một cách toàn diện, tổng thể và có hệ thống, từ đó giúp cho Lãnh đạo nhà trường thấy được điểm mạnh, điểm tồn tại, để điều chỉnh các hoạt động theo chuẩn mực, theo quy định của Bộ GD&ĐT và có định hướng phù hợp, giúp cho Nhà trường ngày càng nâng cao uy tín và chất lượng.

Thứ ba, KĐCLCSGD là lời tuyên bố chắc chắn tới các bên liên quan về chất lượng của Nhà trường. Bởi, mục đích của kiểm định chất lượng không chỉ là đảm bảo nhà trường có trách nhiệm đối với chất lượng đào tạo mà còn mang lại động lực cải tiến và nâng cao chất lượng chương trình đào tạo cũng như chất lượng toàn diện ở mọi khía cạnh. Khi các cơ sở giáo dục đại học tự nguyện đăng ký KĐCLCSGD đồng nghĩa với việc Nhà trường cam kết về chất lượng đào tạo mang lại cho người học và các bên liên quan. Mặt khác, để đạt được giấy chứng nhận kiểm định chất lượng giáo dục, thì cơ sở giáo dục đại học phải trải qua hoạt động đánh giá ngoài của các chuyên gia về các mặt hoạt động của Nhà trường như: Đánh giá các yếu tố đầu vào, đánh giá cả quá trình đào tạo và chất lượng sinh viên khi ra trường. Hoạt động này được thực hiện khách quan thông qua bên thứ ba, đó là các chuyên gia có trình độ, kinh nghiệm trong đào tạo, nghiên cứu và quản lý giáo dục đại học, có chứng nhận đào tạo kiểm định viên và/hoặc thẻ kiểm định viên KĐCLGD. Hơn nữa, kết quả kiểm định được phản ánh khách quan, cụ thể những điểm mạnh, điểm yếu của cơ sở giáo dục đại học, được sử dụng làm căn cứ để xác định chất lượng, vị thế Số 23 tháng 9năm2021 17 Tạp chí Tài chính - Quảntrị kinhdoanh

(3)

và uy tín, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở giáo dục đại học.

Thứ tu, KĐCLCSGD tạo cơ sở xây dựng văn hoá chất lượng cho CSGD. Bởi lẽ, sau khi kiểm định chất lượng, Nhà trường và toàn thể cán bộ, giảng viên sẽ thay đổi quan điểm, nhận thức cũng như hành động về chất lượng giáo dục, các quy trình làm việc, hoàn thiện hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong, đặc biệt là việc giám sát về chất lượng sẽ được cải thiện, thực hiện thường xuyên, liên tục. Đồng thời, Nhà trường cũng sẽ có những cam kết mạnh mẽ và thực hiện cải tiến chất lượng ngay sau đánh giá ngoài. Neu có sự chênh lệch về kết quả đánh giá giữa báo cáo “tự đánh giá” và “đánh giá ngoài”

thì các CSGD đại học phải tự điều chỉnh mọi hoạt động trong Nhà trường sao cho đúng với thực tế và yêu cầu của chuẩn mực. Theo đó, văn hóa chất lượng sẽ dần được hình thành và ngày càng phát triển, phổ biến trong Nhà trường.

2. Công tác kiểm định chất lượng sở giáo dục tại Trường Đại học Tài chính - Quản trị kỉnhdoanh

-Côngtáckiểmđịnh chất lượng sở giáo dụcđạihọc ViệtNam'. Hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục đại học ở Việt Nam ngày càng được mở rộng và hoàn thiện hơn, cụ thể:

+ về thành lập các tổ chức kiểm định và kết quả thực hiện: Dưới sự quàn lý của Bộ GD&ĐT thông qua Cục Quản lý chất lượng, đến nay Việt Nam có 7 Trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục (Trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội; Trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục, Đại học Quốc gia TP.HCM; Trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục, Đại học Đà Nằng; Trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục, Đại học Vinh; Trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục trực thuộc Hiệp hội các trường Đại học, cao đẳng Việt Nam;

Trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn thuộc Công ty cổ phần đầu tư giáo dục TP.HCM và Trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long thuộc Công ty cổ phần

đầu tư giáo dục Hà Nội). Ngoài ra, công tác kiểm định chất lượng cũng được một số Bộ Ban ngành thành lập bộ phận chuyên trách để kiểm soát công tác đảm bảo chất lượng của các đơn vị trực thuộc. Tính đến ngày 31/7/2021, theo danh sách công bố của Cục Quản lý chất lượng - Bộ GD&ĐT, cả nước có 160 Trường Đại học và 10 Trường Cao đẳng sư phạm đã được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục theo bộ tiêu chuẩn trong nước, 7 trường đại học được đánh giá và công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng bởi tổ chức kiểm định nước ngoài [3],

+ về hệ thống văn bản quản lý công tác kiểm định chất lượng: Các văn bản quy phạm pháp luật về công tác KĐCLGD được thể hiện trong Luật giáo dục số 43/2019/QH14 ngày 14 tháng 6 nãm 2019; Nghị định của Chính phủ số 73/2015/NĐ-CP ngày 08/9/2015; Quyet định của Thủ tướng Chính phủ số 69/QĐ-TTg ngày 15/01/2019; Thông tư số 04/2016/TT-BGDĐT ngày 14/3/2016; Thông tư số 12/2017/TT- BGDĐT ngày 19/5/2017; Công văn 1668/QLCL-KDCLGD ngày 31/12/2019, Công văn 1669/QLCL-KĐCLGD ngày 31/12/2019 của Bộ GD&ĐT, ... đã được triển khai, hướng dần đến các cơ sở giáo dục đại học về yêu cầu, quy trình thực hiện đảm bảo chất lượng, cũng như bộ tiêu chuẩn kiểm định chất lượng theo hướng ngày càng hội nhập và toàn diện hơn. Cụ thể, năm 2004 Bộ giáo dục và đào tạo ban hành bộ tiêu chuẩn kiểm định cơ sở giáo dục đại học gồm 10 tiêu chuẩn, 53 tiêu chí; năm 2007 áp dụng Bộ tiêu chuẩn gồm 10 tiêu chuẩn, 61 tiêu chí, từ năm 2017 đến nay áp dụng Bộ tiêu chuẩn gồm 25 tiêu chuẩn, 111 tiêu chí.

+ về phía các cơ sở giáo dục đại học: Trong những năm gần đây, các cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam rất quan tâm đến hoạt động kiểm định chất lượng, xây dựng hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong và thành lập bộ phận chuyên trách về đảm bảo chất lượng, theo đó văn hóa chất lượng đã từng bước được hình thành và phát triển. Vì vậy, các nhà quản lý giáo Số 23 tháng 9 năm 2021 18 Tạp chí Tài chính - Quản trị kinh doanh

(4)

dục, cán bộ và giảng viên ở hầu hết các cơ sở giáo dục đại học đã biết đến các công tác kiểm định, tự đánh giá và đánh giá ngoài, cũng như Bộ tiêu chuẩn kiểm định chất lượng. Theo đó đội ngũ làm công tác đảm bảo chất lượng ở các cơ sở giáo dục từng bước được hoàn thiện về số lượng và chất lượng thông qua các khóa đào tạo, bồi dưỡng về đo lường, đánh giá trong giáo dục.

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác KĐCLCSGD đại học ở Việt Nam vần còn một số hạn chế như: Cơ chế, chính sách khuyến khích cũng như các chế tài về công tác kiểm định chất lượng giáo dục còn thiếu và chưa cụ thể; Một số hướng dẫn đánh giá đã được ban hành nhưng còn chậm; Đội ngũ chuyên gia, cán bộ chuyên trách về đánh giá và kiểm định chất lượng còn thiếu và chưa nhiều kinh nghiệm đặc biệt là ở các CSGD; Hệ thống phần mềm quản lý về bảo đảm chất lượng vẫn hạn chế chưa được áp dụng phổ biến. Ngoài ra, hoạt động đánh giá ngoài giữa các Trung tâm kiểm định chưa thật sự đồng đều, phụ thuộc vào đội ngũ chuyên gia và kinh nghiệm thực tế.

- Công tác kiểmđịnh chất lượng sởgiáo dục tại Trường Đại học Tàichính- Quản trị kinh doanh

Nhận thức được “Nâng cao chât lượng đào tạo” là nhiệm vụ quan trọng, trọng tâm và xuyên suốt của Trường đại học trong bối cảnh tự chủ đại học, và hội nhập sâu rộng của ngành giáo dục. Trường Đại học Tài chính - Quản trị kinh doanh, đã đưa ra chủ trương về việc tiếp tục nâng cao chất lượng đào tạo của Nhà trường, nhằm đáp ứng được nhu cầu về chất lượng nguồn nhân lực và được nhà tuyển dụng cũng như toàn xã hội công nhận. Để đạt được mục tiêu này trong thời gian qua, Nhà trường xác định một trong những nhiệm vụ cấp bách đó là thực hiện KĐCLCSGD. Với tinh thần đó, đến nay Nhà trường đã thực hiện 3 lần hoạt động tự đánh giá và đã nộp Báo cáo tự đánh giá về Bộ GD&ĐT, cụ thể như sau:

Số 23 tháng 9 năm2021

- Năm 2010: Đây là năm đầu tiên Nhà trường triển khai thực hiện công tác tự đánh giá cơ sở giáo dục, khi đó là Trường Cao đẳng Tài chính - Quản trị kinh doanh theo Bộ tiêu chuẩn gồm 10 tiêu chuẩn, 53 tiêu chí. Tại thời điểm đó, Trường Cao đẳng Tài chính - Quản trị kinh doanh là một trong các Trường triển khai sớm công tác tự đánh giá, nên còn nhiều khó khăn về kinh nghiệm, về đội ngũ nhân lực, tuy nhiên kết quả tự đánh giá số tiêu chuẩn, tiêu chí đều đạt với tỷ lệ là 100%.

- Năm 2015: Theo đúng chu kỳ kiếm định 5 năm, Trường Đại học Tài chính - Quản trị kinh doanh triển khai hoạt động tự đánh giá lần thứ 2 theo Bộ tiêu chuẩn gồm 10 tiêu chuẩn, 61 tiêu chí. Trên cơ sở đánh giá điểm mạnh, điểm hạn chế trong hoạt động tự đánh giá, Nhà trường thành lập Hội đồng tự đánh giá, lập kế hoạch tự đánh giá và phân công cho các nhóm công tác chuyên trách thực hiện việc thu thập minh chứng để xây dựng báo cáo tự đánh giá. Ket quả có 57 tiêu chí đạt (chiếm 93,4%), 3 tiêu chí chưa đạt (chiếm 4,9%) và 1 tiêu chí không đánh giá (chiếm 1,6%). Công tác tự đánh giá đã được Nhà trường thực hiện nghiêm túc, khoa học, được tập thể cán bộ, giảng viên, sinh viên đánh giá cao.

-Năm 2017 đến nay: Năm 2017 Bộ GD&ĐT ban hành Thông tư 12, đồng thời yêu cầu và hướng dẫn công tác KĐCLCSGD thực hiện theo bộ tiêu chuẩn mới này. Theo đó năm 2019, Trường Đại học Tài chính - Quản trị kinh doanh tiếp tục ban hành Kế hoạch xây dựng báo cáo tự đánh giá lần 3 theo bộ tiêu chuẩn mới, đúng quy định của Bộ GD&ĐT. Ngoài ra, Nhà trường xác định công tác kiểm định không chỉ dừng lại ở hoạt động tự đánh giá mà phải tiến tới hoàn thành đánh giá ngoài vào năm 2021.

Được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng ủy, Hội đồng trường, Ban Giám hiệu, công tác KĐCLGD của Nhà trường đã triển khai và đạt được nhũng kết quả nhất định:

19 Tạp chí Tài chính - Quản trị kinhdoanh

(5)

+ về công tác chỉ đạo: Nhà trường đăng ký đánh giá ngoài với Trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2017, đồng thời chuẩn bị các điều kiện về đội ngũ, cơ sở vật chất cho công tác tự đánh giá và đánh giá ngoài như (cử cán bộ làm công tác đảm bảo chất lượng tham gia các lớp tập huấn về kiểm định chất lượng theo Thông tư 12, hoàn thiện nâng cấp giảng đường, nhà làm việc, ký túc xá, thư viện, công nghệ thông tin,...). Đồng thời, Ban Giám hiệu tổ chức họp toàn Trường để phổ biến, quán triệt, tạo sự đồng thuận trong công tác kiểm định chất lượng.

+ về triển khai thực hiện: Từ năm 2018 đến nay, Nhà trường ban hành Quy định về đảm bảo chất lượng, trong đó xác định cấu trúc hệ thống đảm bảo chất lượng của Nhà trường, từ Hội đồng đảm bảo chất lượng cho đến bộ phận đảm bảo chất lượng ở cấp đơn vị, Khoa, Bộ môn, Phòng và Trung tâm. Trên cơ sở đó, Nhà trường thành lập Hội đồng đảm bảo chất lượng; Hội đồng tự đánh giá, Kế hoạch kiểm định chất lượng, Kế hoạch đảm bảo chất lượng cho từng năm học và các quy định có liên quan đến công tác kiểm định chất lượng gửi đến các đơn vị trong toàn Trường. Theo đó, những vấn đề liên quan đến hoạt động kiểm định chất lượng, đảm bảo chất lượng đã được lan tỏa đến toàn thể cán bộ, giảng viên, sinh viên trong toàn Trường.

Ngoài ra, Nhà trường tiếp tục cử cán bộ tham gia các lớp tập huấn, học tập bồi dưỡng về công tác kiểm định chất lượng theo Thông tư 12 của Bộ GD&ĐT. Đồng thời, tổ chức mời chuyên gia về trao đổi, tập huấn cho Hội đồng tự đánh giá, các nhóm công tác chuyên trách. Tổ chức trao đổi kinh nghiệm của một số trường đã được chứng nhận, đánh giá ngoài. Trên cơ sở đó, Nhà trường triển khai các hoạt động xây dựng, phục hồi minh chứng, song song với viết báo cáo tự đánh giá. Hàng tháng, thậm chí hàng tuần, Ban Giám hiệu tổ chức các phiên họp, để nghe báo cáo của các nhóm công tác, trao đổi, thảo luận những thuận lợi, khó khăn và các giải pháp khắc

phục, cải tiến. Đến tháng 7 năm 2020, Nhà trường đã hoàn thành báo cáo tự đánh giá sơ bộ và gửi cho chuyên gia kiểm định góp ý, hướng dẫn chỉnh sửa, hoàn thiện. Đốn tháng 12 năm 2020, Nhà trường đã hoàn thành việc chỉnh sửa báo cáo tự đánh giá lần thứ 2 và gửi cho chuyên gia kiểm định góp ý. Tháng 4 năm 2021 Nhà trường hoàn thành việc xây dựng báo cáo tự đánh giá, kết quả tự đánh giá như sau: Có 41 tiêu chí đạt 5 điểm; 68 tiêu chí đạt 4 điểm; 2 tiêu chí đạt 3 điểm; số tiêu chí đạt từ 4 điểm trở lên chiếm 98.2% và số tiêu chuẩn có điểm trung bình từ 4,0 điểm trở lên là 25/25 ( đạt 100%).

Báo cáo tự đánh giá đã được Nhà trường gửi về Bộ GD&ĐT, đồng thời gửi Trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục Đại học Quốc gia Hà Nội để triển khai công tác đánh giá ngoài vào tháng 7, đến nay mọi công việc phục vụ cho đánh giá ngoài đã sẵn sàng, dự kiến đầu năm học mới Nhà trường sẽ hoàn thành công tác KĐCLCSGD.

Bên cạnh kết quả đạt được, công tác kiểm định chất lượng Trường Đại học Tài chính - Quản trị kinh doanh, vẫn còn một số khó khăn nhất định, cụ thể:

- Trong hoạt động tự đánh giá, hầu hết các thành viên trong Hội đồng tự đánh giá là cán bộ quản lý, phụ trách nhiều công việc trong Nhà trường, nên việc đầu tư thời gian cho công tác này còn chưa nhiều. Bên cạnh đó, một số cán bộ, viên chức thuộc các nhóm chuyên trách viết báo cáo TĐG chưa được tập huấn, bồi dưỡng các kĩ thuật thu thập, xử lý thông tin, minh chứng. Các buổi thảo luận chung giữa các nhóm chuyên trách, giữa các nhóm chuyên trách với Hội đồng TĐG còn ít.

- Các hoạt động ở các đơn vị trong Trường đặc biệt là các Khoa, liên quan đến công tác đảm bảo chất lượng của Nhà trường đã thực hiện tương đối tốt, tuy nhiên việc lưu trữ dưới dạng biên bản, kế hoạch, báo cáo còn thiếu, nên minh chứng chưa được đầy đủ, phong phú.

Số 23tháng9 năm 2021 20 Tạp chí Tài chính- Quản trịkinh doanh

(6)

- Công tác kiểm định chất lượng trường đại học theo Thông tư 12/2017 có nhiều điểm mới theo xu hướng hội nhập quốc tế. Vì vậy, một số tiêu chuẩn, tiêu chí các trường đại học mới tiếp cận và triển khai thực hiện nên dẫn đến hiện tượng không hiểu một cách nhất quán các nội dung (các tiêu chí về quản trị trường đại học, các tiêu chí về phục vụ cộng đồng). Điều này ảnh hưởng đến việc thu thập minh chứng cũng như viết Báo cáo tự đánh giá của các trường đạỉ học.

3. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm định chất lượng sở giáo dục tại Trường Đại học Tài chính- Quản trị kinh doanh

Trong thời gian tới, để thực hiện tốt hơn nữa, công tác KĐCLCSGD của Trường đại học Tài chính - Quản trị kinh doanh cần tập trung thực hiện các nội dung sau:

- Công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt:

Nhà trường nên tiếp tục phổ biến, quán triệt và nâng cao nhận thức về công tác kiểm định chất lượng cho toàn thể cán bộ giảng viên và sinh viên thông qua các buổi hội nghị, hội thảo hoặc tham gia các lớp tập huấn, bồi dường kiến thức về kiểm định chất lượng. Theo đó, việc thực hiện đảm bảo chất lượng bên trong không còn mang tính đối phó với yêu cầu của bên ngoài, mà phải là một nhu cầu tự thân với mục đích tự cải thiện chất lượng các sản phẩm đào tạo của Nhà trường cung cấp cho xã hội.

- Phối hợp nhịp nhàng, ăn khớp trong giải quyết công việc của các đơn vị: Tiếp tục tăng cường sự tham gia ủng hộ vào cuộc của các Khoa, giảng viên trong toàn Trường để công tác đảm bảo chất lượng thực sự trở thành hoạt động thường kì tại Nhà trường, để từng người, từng đơn vị trong Trường hiểu rõ, quan tâm và có trách nhiệm đối với chất lượng đào tạo cũng như sự phối hợp nhịp nhàng, thống nhất nhằm phục vụ tối đa nhu cầu của người học. Ngoài ra, cần đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác tự đánh giá, cần tăng cường trao đổi, thảo luận, Số 23tháng 9 năm 2021

phối hợp, học hỏi kinh nghiệm trong việc triển khai, viết báo cáo tự đánh giá giữa các nhóm chuyên trách, giữa các nhóm chuyên trách với Hội đồng tự đánh giá.

- Cập nhật thông tin và lưu trữ: Nhà trường cần quan tâm, đầu tư công sức, chỉ đạo sát sao thì công tác kiểm định của CSGD mới có thể thực hiện đúng quy trình, đạt hiệu quả, đặc biệt là công tác cập nhật văn bản, thông tin, thu thập và lưu trữ minh chứng ở các đơn vị sao cho khoa học, đầy đủ, kịp thời.

- Hoàn thiện, khắc phục hạn chế: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong, theo định hướng chuẩn quốc gia; kiện toàn đơn vị chuyên trách về ĐBCL; tăng cường năng lực ĐBCL bên trong cho đội ngũ cán bộ viên chức của Nhà trường, không nên chỉ tập trung vào đơn vị chuyên trách. Đồng thòi khẩn trương rà soát, hoàn thiện minh chứng và Báo cáo tự đánh giá, cũng như việc chuẩn bị các điều kiện cần thiết (thời gian, kinh phí, cơ sở vật chất, hậu cần) cho hoạt động đánh giá ngoài.

Bên cạnh đó, Nhà trường cần tập trung khắc phục hạn chế, cải tiến chất lượng ở các tiêu chí chưa đạt, phát huy những tiêu chí đã làm tốt và hoàn thiện một số nội dung công việc còn thiếu hoặc đã làm nhưng chưa ghi chép lại.

Cuối cùng, hằng năm Nhà trường cần định kỳ rà soát, bổ sung, điều chỉnh các nhiệm vụ, mục tiêu, giải pháp của các lĩnh vực sao cho phù hợp với thực tiễn. Đồng thời, chủ động thường xuyên triển khai hoạt động tự đánh giá CSGD và CTĐT, giải pháp cải tiến chất lượng trên mọi mặt hoạt động của Nhà trường; chủ động duy trì và phát triển các điều kiện bảo đảm chất lượng (đội ngũ cán bộ giảng viên; chương trinh đào tạo, giáo trình, tài liệu giảng dạy; cơ sở vật chất như giảng đường, thư viện, hệ thống thông tin, phòng thực hành,...) hướng tới tiêu chuẩn chất lượng trong nước và khu vực.

4. Kết luận

Có thể khẳng định hoạt động KĐCLCSGD, là một quá trình đánh giá, nhằm đưa ra một 21 Tạp chí Tàichính- Quản trịkinh doanh

(7)

quyết định để công nhận một CSGD, đáp ứng các chuẩn mực theo Quy định. Bài viết đã cho thấy công tác kiểm định chất lượng giáo dục đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của CSGD. Đồng thời, làm rõ thực trạng công tác KĐCLCSGD ở các Trường Đại học, trong đó có Trường Đại học Tài chính - Quản trị kinh doanh. Trên cơ sở đánh giá kết quả đạt được và những tồn tại, hạn chế, bài viết đề xuất các giải

pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác KĐCLCSGD tại Trường Đại học Tài chính - Quản trị kinh doanh và xác định chỉ có thực hiện KĐCLCSGD mới giúp cho các Trường đại học nói chung, Trường Đại học Tài chính - Quản trị kinh doanh nói riêng có thể khẳng định được vị thế, uy tín và nâng cao được thương hiệu cũng như chất lượng đào tạo.

Tàiliệu tham khảo

Bộ Giáo dục và đào tạo, Quyết định số 65/2007/QĐ-BGDĐT ngày 1 tháng 11 năm 2007.

Bộ Giáo dục và đào tạo, Thông tư số 12/2017/TT-BGDĐT ngày 19/5/2017.

https://moet.gov.vn/giaoducquocdan/khao-thi-va-kiem-dinh-chat-luong-giao- duc/Pages/Default.aspx?ItemID=7469

PGS. TS. Mai Văn Chung, Kiểm định chất lượng giáo dục và yêu cầu đối với các cơ sở giáo dục.

NGND, GS, TSKH Bành Tiến Long, Kiểm định chất lượng để phát triển giáo dục đại học bền vừng.

Quốc hội (2019), Luật giáo dục, Hà nội.

Số 23 tháng 9 năm 2021 22 Tạp chí Tài chính -Quản trị kinhdoanh

(8)

ẢNH HƯỞNG CỦA DỊCH BỆNH COVID ĐÉN KHẢ NÃNG SINH LỢI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP KINH DOANH DU LỊCH

Trương Thảo Nghi,

Trường Đại học Tài chính - Marketing Ngày nhận bài: 12/06/2021

Ngày nhận bài sửa: 15/07/2021 Ngày duyệt đăng: 06/08/2021

Tómtắt: Đại dịch Covid-19 với diễn biến phức tạp hiện nay đã tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống xã hội cũng như mọi ngành kinh tế. Là một ngành bị ảnh hưởng trực tiếp, du lịch thời gian đã phải gánh chịu những tổn thất nặng nề, lượng khách du lịch quổc tế cũng như du lịch trong nước sụt giảm nghiêm trọng so với trước khi dịch bệnh xuất hiện. Trước tình hình đỏ, đê tôn tại và phát triến, đòi hỏi các doanh nghiệp du lịch phải hoạt động có hiệu quả, phải duy trì và nâng cao khả năng sinh lợi. Nghiên cứu này được thực hiện với mục đích cho thấy sự ảnh hưởng của dịch bệnh Covid -19 đến khả năng sinh lợi của các doanh nghiệp kinh doanh du lịch.

Từ đó, gợi mở một số vấn đề nhằm giúp các doanh nghiệp kinh doanh du lịch nâng cao khả năng sinh lợi trong tình hình hiện nay. Dữ liệu nghiên cứu được tổng hợp từ báo cảo tài chính của các doanh nghiệp du lịch giai đoạn 2016 - 2020.

Từ khóa:Du lịch, Khả năng sinh lợi, ROE, ROA, ROS.

IMPACT OF COVID 19 STANDARDS ON THE CAPACITY OF TOURISM BUSINESS

Abstract: The complicated developments of the current Covid-19 pandemic have strongly affected all aspects of social life as well as all economic sectors. As an industry directly affected by the pandemic, tourism businesses have suffered heavy losses in the past time, the number of international tourists as well as domestic tourism has decreased significantly compared to before the epidemic appeared. Facing that situation, to survive and develop, tourism businesses must operate effectively, maintain and improve their profitability. This study was conducted to indicate the impact of the Covid-19 epidemic on the profitability of tourism businesses. From there, propose several issues to help tourism businesses improve profitability in the current situation.

Research data is compiledfrom financial reports of tourism businesses for the period 2016 - 2020.

Keywords: Tourism; Profitability, ROE, ROA, ROS.

1. Giới thiệu

Du lịch có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế quốc gia, vì thế đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt, đối với Việt Nam, ngành du lịch hiện nay được xem như là một trong 3 ngành kinh tế mũi nhọn, được chú trọng đầu tư, không ngừng phát triển và có những đóng góp tích cực

vào tăng trưởng của toàn nền kinh tế. Làm thế nào để phát triển và hoạt động du lịch được phục hồi hiệu quả sau dịch Covid-19 và thích ứng với trạng thái bình thường mới, ngành du lịch Việt Nam cần xây dựng một mô hình phát triển bền vững hơn, linh hoạt hơn, đặc biệt đối với các doanh nghiệp. Khả năng sinh lợi có Số 23tháng 9 năm2021 23 Tạp chí Tài chính- Quản trị kinh doanh

(9)

chức năng là công cụ quản lý kinh tế hữu hiệu sẽ giúp các nhà quản lý điều hành hoạt động của doanh nghiệp du lịch đạt hiệu quả cao nhât.

Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm đánh giá và xác định mức độ ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 đến khả năng sinh lợi của doanh nghiệp du lịch Việt Nam.

2. sở thuyết

Khi đánh giá khả năng sinh lợi nói riêng và phân tích hiệu quả kinh doanh nói chung, việc xác định nội dung và chỉ tiêu cần phân tích là vấn đề quan trọng hàng đầu đối với các nhà phân tích. Vì trên cơ sở nội dung cần phân tích, các nhà phân tích mới có thể tiến hành xác định các công việc khác của việc phân tích như: hệ thống chỉ tiêu phân tích, phương pháp và trình tự phân tích, loại hình phân tích, báo cáo phân tích,... Các yếu tố đo lường khả năng sinh lợi bao gồm:

- Tỳ sổ lợi nhuận trên tài sản - Return on assets (ROA):

Tỷ số này phản ánh mối quan hệ giữa lợi nhuận sau thuế và tổng tài sản hiện có của doanh nghiệp. Chỉ số này cho thấy một công ty sử dụng tài sản của mình hiệu quản đến mức nào, bằng cách thể hiện mức độ lợi nhuận của công ty so với tài sản của chính nó. Theo Phan Đức Dũng (2008), tỷ số lợi nhuận trên tài sản là một tỷ số tài chính dùng để đo lường khả năng sinh lợi trên mỗi đồng tài sản của doanh nghiệp.

Theo Nguyễn Thị Ngọc Trang và Nguyễn Thị Liên Hoa (2007), nếu tỷ số này lớn hơn 0, thì có nghĩa doanh nghiệp làm ăn có lãi. Tỷ số càng cao cho thấy doanh nghiệp làm ăn còn nếu tỷ số nhỏ hơn 0, thì doanh nghiệp làm ăn thua lỗ.

Mức lãi hay lỗ được đo bằng phần trăm của giá trị tổng tài sản của doanh nghiệp. Tỷ số cho biết hiệu quả quản lý và sử dụng tài sản để tạo ra thu nhập của doanh nghiệp. Tỷ số lợi nhuận trên tài sản phụ thuộc vào mùa vụ kinh doanh và ngành nghề kinh doanh. Do đó, người phân tích tài chính doanh nghiệp chỉ sử dụng tỷ số này trong so sánh doanh nghiệp với toàn ngành hoặc với doanh nghiệp khác cùng ngành và so sánh cùng một thời kỳ. Tỷ số này được tính ra bằng cách lấy lợi nhuận ròng (hoặc lợi nhuận sau

thuế) của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo (có thể là 1 tháng, 1 quý, nửa năm, hay một năm) chia cho tổng giá trị tài sản bình quân của doanh nghiệp trong cùng kỳ. số liệu về lợi nhuận ròng hoặc lợi nhuận sau thuế được lấy từ báo cáo kết quả kinh doanh, còn giá trị tài sản được lấy từ bảng cân đối kế toán. Công thức được xác định như sau :

Tỷ số lợi nhuận trên tài sản = Lợi nhuận ròng/ Tổng tài sản bình quân

Chỉ số ROA không thể dùng để so sánh giữa các doanh nghiệp hoạt động khác ngành, do đặc thù của mỗi ngành khiến cho qui mô và cơ cấu tài sản của các doanh nghiệp rất khác biệt. Do đó, khi sử dụng chỉ số ROA để phân tích doanh nghiệp thì nên so sánh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành hoặc so sánh chỉ số ROA qua nhiều năm đối với cùng một doanh nghiệp.

- Tỷ sổ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu - Return On Equity (ROE):

Theo Nguyễn Minh Kiều (2009), tỷ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu là tỷ số tài chính để đo khả năng sinh lợi trên mỗi đồng vốn ở một công ty. Tỷ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) cho biết cứ 100 đồng vốn chủ sở hữu của công ty này tạo ra bao nhiều đồng lợi nhuận.

Nếu tỷ số này mang giá trị dương, là công ty làm ăn có lãi; nếu mang giá trị âm là công ty làm ăn thua lồ (Nguyễn Thị Ngọc Trang và Nguyễn Thị Liên Hoa, 2007). Lợi nhuận trong tỷ số này là lợi nhuận ròng dành cho cổ đông, lấy từ báo cáo kết quả kinh doanh của công ty, tính trong một thời kỳ nhất định (1 tháng, 1 quý, nửa năm, hay 1 năm) gọi là kỳ báo cáo. Còn vốn trong tỷ số này là vốn phổ thông bình quân (common equity). Công thức của tỷ số này như sau: Tỷ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu = Lợi nhuận ròng/ vốn chủ sở hữu bình quân.

- Tỉ suất lợi nhuận doanh thu - ROS:

Theo Phan Đức Dũng (2008) và Nguyễn Minh Kiều (2009), tỷ số lợi nhuận trên doanh thu là một tỷ số tài chính dùng để theo dõi tình hình sinh lợi của công ty. Nó phản ánh quan hệ giữa lợi nhuận ròng dành cho cổ đông và doanh thu của công ty. Tỷ số này cho biết lợi nhuận Số 23 tháng 9 năm 2021 24 Tạp chí Tài chính - Quảntrị kinhdoanh

(10)

chiếm bao nhiêu phần trăm trong doanh thu. Tỷ số này mang giá trị dương nghĩa là công ty kinh doanh có lãi; tỷ số càng lớn nghĩa là lãi càng lớn. Tỷ số mang giá trị âm nghĩa là công ty kinh doanh thua lỗ. Tuy nhiên, tỷ số này phụ thuộc vào đặc điểm kinh doanh của từng ngành. Vì thế, khi theo dõi tình hình sinh lợi của công ty, người ta so sánh tỷ số này của công ty với tỷ số của toàn ngành mà công ty đó tham gia. Mặt khác, tỷ số này và số vòng quay tài sản có xu hướng ngược nhau. Do đó, khi đánh giá tỷ số này, người phân tích tài chính thường tìm hiểu nó trong sự kết hợp với số vòng quay tài sản (Nguyễn Thị Ngọc Trang và Nguyễn Thị Liên Hoa, 2007). Công thức tính tỷ số này như sau:

Tỷ số lợi nhuận trên doanh thu = Lợi nhuận ròng/ Doanh thu

Do ROS đo lường % lợi nhuận trên doanh thu, chỉ số ROS dương đồng nghĩa với việc công ty có lãi. ROS càng cao thì lợi nhuận của công ty càng lớn. Thông thường, một doanh nghiệp có tỉ số ROS cao được đánh giá là quản lí tốt về chi phí trong hoạt động kinh doanh hay thực hiện chiến lược cạnh tranh về mặt chi phí.

Tuy nhiên, việc đánh giá tỉ số ROS nên được sử dụng với các doanh nghiệp cùng ngành, do các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành khác nhau có sự khác biệt rất lớn về tỉ số ROS.

Tóm lại, không có một con số cụ thể và cố định nào để đánh giá các chỉ số ROI - ROE - ROA là tốt. Chỉ cần các chỉ số này càng cao và luôn dương (đối với ROI) thì coi như hoạt động đầu tư và kinh doanh hiệu quả. Ngoài ra, việc đánh giá (tốt hay xấu) còn phụ thuộc vào đặc điểm ngành nghề kinh doanh và quy mô tài sản so với doanh thu của mồi doanh nghiệp.

3. Thực trạng khả năng sinh lợi của các doanh nghiệp du lịch hiện nay

Nhìn lại tác động của dịch Covid-19 đối với du lịch Việt Nam có thể thấy khi dịch xảy ra, lệnh cấm và hạn chế đi lại đã được áp dụng cho tất cả các điểm du lịch. Các hoạt động trong lĩnh vực khách sạn, nhà nghỉ, nhà hàng và giao thông hầu hết bị hoãn lại do lệnh đóng cửa trên toàn quốc. Ngoài ra, ngành Hàng không cũng bị

ảnh hưởng nặng nề khi hàng loạt các chuyến bay nội địa và quốc tế đến và đi từ Việt Nam đều bị hủy. Lượng khách quốc tế chỉ có vào thời điểm tháng 1 và 2, từ tháng 3 hầu như không có khách. Khách du lịch nội địa cũng giảm mạnh do diễn biến phức tạp của dịch bệnh và Việt Nam thực hiện giãn cách xã hội. Doanh nghiệp du lịch gặp khó khăn khiển không ít nhân viên ngành Du lịch mất việc làm giảm, thậm chí không có thu nhập. Theo Tổng cục Thống kê, khách quốc tế đến Việt Nam trong tháng 3/2020 giảm mạnh chỉ đạt gần 450.000 lượt khách, giảm 68,1% so với cùng kỳ năm 2019 và giảm 63,8% so với tháng 2. Tổng lượt khách của cả quý 1/2020 đạt 3,7 triệu lượt khách, giảm hơn 18% so cùng kỳ; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống trong kỳ ước đạt 126.200 tỷ đồng, tương đương 10% tổng doanh thu hoạt động thương mại, dịch vụ của cả nước, giảm 9,6% so với quý 1/2019; doanh thu du lịch lữ hành quý 1/2020 ước đạt 7.800 tỷ đồng, chiếm 0,6% tổng mức và giảm 27,8%.

Lượng khách quốc tế đến du lịch tại Việt Nam có vai trò quan trọng trong phát triển của nền kinh tế do nguồn ngoại tệ từ lĩnh vực này tăng liên tục qua các năm (năm 2005 đạt 2.300 triệu USD, năm 2010 đạt 4,45 tỷ USD, năm 2015 đạt 7,35 tỷ USD, năm 2019 đạt 11,83 tỷ USD - cao nhất từ trước đến nay) (Hùng Đạt, 2021).Tuy nhiên, kể từ tháng 3/2020 đến nay do ảnh hưởng của dịch Covid-19 các đường bay quốc tế không được hoạt động khiến du khách quốc tế suy giảm mạnh, ngành du lịch bị ảnh hưởng, phản ánh rõ nét qua kết quả kinh doanh của nhóm doanh nghiệp niêm yết. Điển hình là CTCP Dịch vụ du lịch Phú Thọ (mã:

DSP) - chủ sở hữu công viên văn hóa Đầm Sen - vừa có một kỳ kinh doanh không mấy tươi sáng với doanh thu quý 11/2020 sụt giảm 87%

so với cùng kỳ xuống còn 12 tỷ đồng; giá vốn tăng khiến công ty lỗ gộp hơn 144 tỷ đồng trong khi cùng kỳ lãi gần 18 tỷ đồng. Sau khi trừ đi các chi phí, Công ty Dịch vụ du lịch Phú Thọ báo lỗ ròng 146,5 tỷ (cùng kỳ lãi 17 tỷ đồng) (Vietstock, 202le).

Số 23 tháng 9 năm2021 25 Tạp chí Tàichính- Quản trịkinh doanh

(11)

Là công ty lữ hành lớn nhất nước với nguồn thu chính đến từ các tour du lịch quốc tế trong khi đây lại là mảng kinh doanh đình trệ nhất trong nừa đầu năm 2020, CTCP Du lịch và Tiếp thị Giao thông Vận tải Việt Nam (Vietravel, mã: VTR) ghi nhận mức thua lỗ gấp 3 lần dự kiến cho cả năm. Cụ thể, doanh thu hợp nhất quý 11/2020 Vietravel tiếp tục giảm mạnh từ mức 2.204 tỷ về 206 tỷ đồng, sau khi trừ đi các chi phí công ty báo lỗ 38 tỷ. Luỳ kế nửa đầu năm, Vietravel ghi nhận doanh thu 996 tỷ đồng, giảm hơn 72% so với cùng kỳ và lỗ ròng hơn 76 tỷ. Năm 2020, Vietravel đặt kế hoạch doanh thu giảm sâu, xuống chỉ còn 3.065 tỷ đồng, tương đương mức giảm gần 60% so với năm trước. Đáng chú ý, Vietravel dự kiến sẽ lỗ khoảng 22 tỷ đồng sau nhiều năm liền liên tục có lãi (Vietstock, 2021b).

Cùng báo lỗ, doanh thu lữ hành và doanh thu vé máy bay đồng loạt giảm mạnh 98% và 77% so với cùng kỳ đã làm cho Công ty cổ phần Dịch vụ Du lịch Bến Thành (BenThanh Tourist, mã: BTV) phải báo lỗ hơn 7 tỷ đồng trong quý II. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2020,

BenThanh Tourist ghi nhận doanh thu thuần giảm 60%, khấu trừ chi phí khiến công ty báo lỗ hơn 15 tỷ đồng (cùng kỳ lãi hơn 6 tỷ đồng) (Vietstock, 2021c). CTCP Du lịch Dịch vụ Hội An (mã: HOT) trong 9 tháng đầu năm 2020 đã ghi nhận doanh thu đạt 35,4 tỷ đồng, giảm 76%

và lỗ 17,8 tỷ đồng so với cùng kỳ lãi 11,1 tỷ đồng, doanh nghiệp kinh doanh dưới giá vốn (Vietstock, 2021a). CTCP Dịch vụ Du lịch Mỹ Trà (mã: MTC) trong năm 2020 ghi nhận doanh thu 18,1 tỷ và 1,4 tỷ. Doanh nghiệp cho biết kết quả kinh doanh đi xuống do ảnh hưởng đại dịch Covid-19 bùng phát (Vietstock, 202Id).

Từ sau tháng 6/2020, tình hình dịch bệnh trong nước được kiểm soát mang lại tín hiệu mới cho ngành du lịch, nhiều doanh nghiệp tung gói khuyến mãi kích cầu khách nội địa.

Tuy nhiên, dịch bệnh đang bùng phát trở lại và đang diễn biến phức tạp trở lại dự kiến sẽ tiếp tục gây áp lực lên ngành thời gian tới.

Khả năng sinh lợi của một số công ty du lịch niêm yết trong giai đoạn trước và sau đại dịch Covid thể hiện trên các chỉ tiêu ROA, ROE và ROS như sau:

Bảng 1- Các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lợi của các công ty khảo sát (%)

Năni\

Chỉtiêu

2016 2017 2018 2019 2020

l.ROA

-DSP 4.2 4.6 4.4 -16 -15.6

- VTR 4.7 3.5 4.7 2.1 -5.3

-BTV 5.8 5.7 3.0 2.9 -10.7

-HOT 7.2 7.8 13.2 8.7 -28.1

-MTC 1.2 3.8 2.6 0.2 -2.5

2. ROE

-DSP 4.9 4.9 4.6 -16.9 -16.8

- VTR 35.1 27.0 25.0 10.0 -58.3

-BTV 9.0 9.5 4.4 4.7 -18.6

-HOT 9.6 10.4 16.3 10.9 -32.1

-MTC 1.3 4.1 2.9 0.2 -2.6

3. ROS

-DSP 19.10.8 19.2 20.0 -138.2 -204.6

- VTR 3.4 0.6 0.8 0.6 -6.5

-BTV 6.0 3.0 1.3 1.36.9 -10.1

-HOT 2.2 6.2 10.2 0.3 -65.2

-MTC 5.7 4.6 -7.8

Số 23tháng 9 năm 2021 26 Tạp chí Tàichính - Quản trị kinh doanh

(12)

Nguồn: Tác giả tỉnh toán và tống hợp từ (2021c), Vietstock (2021d), Vietstock (2021e)

4. B.quân

-RO A 4.6 5.1 5.6 -0.4 -12.4

-ROE 12.0 11.2 10.6 1.78 -25.7

-ROS 6.3 6.9 7.38 -25.8 -58.8

Nhìn vào bảng 1, cho thấy khả năng sinh lợi qua các năm từ năm 2016 đến năm 2019 khá đồng đều dao động từ 10% đến 20%, đến năm 2020 có biến động lớn từ 40% đến hon 100%.

Vietstock (2021a), Vietstock (2021b), Vietstock Trong đó CTCP Du lịch Dịch vụ Hội An (mã:

HOT) và CTCP Du lịch và Tiếp thị Giao thông Vận tải Việt Nam (Vietravel, mã: VTR) biến động nhiều nhất về khả năng sinh lợi thông qua 3 chỉ tiêu ROA, ROE, ROS.

60

—ROA VTR —♦—ROE VTR • ROS VTR

^►-ROA BÌNH QUÂN NGÀNH ^^“ROE BÌNH QUÂN NGÀNH —♦—ROS BÌNH QUÂN NGÀNH

Hình1: Khả năng sinh lợi của CTCP Dulịch Dịch vụ Hội An (mã: HOT) CTCP Dulịch vàTiếp thị Giaothông Vận tải Việt Nam (Vietravel, mã:VTR) bìnhquân ngành giai

đoạn năm2016 - 2020

Nguồn: Tác giả tổng hợp trên cơ sở bảo cảo tài chính của công ty khảo sát Hình 1 cho thấy khả năng sinh lợi của 2

CTCP Du lịch Dịch vụ Hội An (mã: HOT) và CTCP Du lịch và Tiếp thị Giao thông Vận tải

Việt Nam (Vietravel, mã: VTR) và bình quân ngành có chiều hướng đi xuống trong năm 2020.

20 15 1O 5 o -5 -1O -15 -20 -25 -30 -35

■ 2018 «2019 «2020

Hình 2: Tỷ sốlợi nhuận trên TS (ROA) của các công tykhảosáttrong giai đoan 2018-2020 Nguồn: Tác giả tổng hợp trên cơ sở bảo cáo tài chính của công ty khảo sát Số 23 tháng 9 năm 2021 27 Tạpchí Tài chính - Quảntrị kinhdoanh

(13)

Kết quả thống kê ở hình 1 cho thấy, khả năng sinh lợi trên tài sản của các công ty trong năm 2018, 2019 không chênh lệch nhiều, tuy nhiên năm 2020 lại sụt giảm mạnh. Trong đó, CTCP Du lịch Dịch vụ Hội An (mã: HOT) ROA năm 2016 là 7.2 %, năm 2017 là 7.8%, năm 2018 13.2% con số này cho thấy chỉ số của

công ty tăng đều qua các năm, riêng năm 2019 có giảm nhưng không nhiều nhưng năm 2020 biến động mạnh nhất hiệu quả sử dụng tài sản giảm 400% vì tình hình dịch bệnh ảnh hưởng cũng như bão lũ ở miền Trung diễn ra triền miên.

30 20 1O o -1O -20 30 -AO

-50 60 -70

■ 2018 — 2019 «2020

Hình 3: Tỷsố lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu(ROE) của các côngty khảo sát trong giai đoan 2018-2020

Nguồn: Tác giả tổng hợp trên cơ sở báo cảo tài chinh của công ty khảo sát Kêt quả thông kê ở hình 2 cho thây, khả năng

sinh lợi trên vốn chủ sở hữu của các công ty trong năm 2018, 2019 không chênh lệch nhiều, tuy nhiên năm 2020 lại sụt giảm mạnh. Trong đó, CTCP Du lịch và Tiếp thị Giao thông Vận tải Việt Nam (Vietravel, mã: VTR) có chỉ số ROE năm 2017 là 27%, năm 2018 là 25% chỉ số công ty giảm không đáng kể, năm 2019 là 10% có xu hướng giảm nhanh hơn vì CTCP Du

lịch và Tiêp thị Giao thông Vận tải Việt Nam là công ty lữ hành lớn nhất nước với nguồn thu chính đến từ các tour du lịch quốc tế với tình hình dịch trên thế giới bùng phát bị ảnh hưởng đáng kể. Đến năm 2020 khi tình hình dịch bệnh lan rộng trên toàn thế giới nói chung và cả Việt Nam nói riêng làm ảnh hưởng sâu sắc đến khả năng sử dụng với của công ty.

-2SO

■ 2018 «2019 *2020

Hình 4: Tỉsuất lợinhuận doanhthu (ROS) của các công ty khảo sát trong giai đoạn 2018-2020

Nguồn: Tác giả tống hợp trên cơ sở báo cáo tài chinh của công ty khảo sát

Số 23 tháng 9 năm 2021 28 Tạp chí Tàichính- Quản trị kinhdoanh

(14)

Kết quả thống kê ở hình 1 cho thấy, khả năng sinh lợi trên doanh thu của các công ty trong năm 2018, 2019 không chênh lệch nhiều, tuy nhiên năm 2020 lại sụt giảm mạnh. Ảnh hưởng của đại dịch Covid ảnh hưởng nghiêm trọng đến doanh thu của các công ty du lịch.

Để làm rõ khả năng sinh lợi của các doanh nghiệp du lịch bị tác động như thế nào, nghiên cứu tiếp tục phân tích xu hướng và nhịp điệu

Tốc độ tăng trưởng định gốc của ROE (%) =

tăng trưởng của ROE của 2 CTCP Du lịch Dịch vụ Hội An (mã: HOT) và CTCP Du lịch và Tiếp thị Giao thông Vận tải Việt Nam (Vietravel, mã: VTR) và của bình quân ngành cho thấy được nhịp điệu biến động của ROE qua các năm liền kề là đều đặn hay bấp bênh từ đó đánh giá được tính ổn định trong tăng trưởng. Khi tính toán sử dụng theo công thức:

ROEi - ROE2016

ROE2016 - X 100 Tốc độ tăng trưởng định gốc (phản ánh xu hướng tăng trưởng), năm 2016 sẽ là năm gốc.

Tôc độ tăng trưởng liên hoàn (%) = ---

roe ” x 100

Tốc độ tăng trưởng liên hoàn (phản ánh nhịp điệu tăng trưởng), cứ năm sau so với năm trước (2017/2016, 2018/2017, 2019/2018, 2020/2019). Năm 2016, cả tốc độ tăng trưởng

Bảng2- Các chỉtiêu phản thông qua

định gốc và liên hoàn đều có trị số 0. Biết rằng chỉ số ROE của nhóm ngành du lịch năm 2016 là 17%, năm 2017 là 15.9%, năm 2018 là 13.2%, năm 2019 là 9.3% và năm 2020 là -5.6%.

điệu tăngtrưởng khảnăng sinh lợi ánhxu hướng nhịp

chỉtiêu ROE của các công tykhảo sát(%)

—___ ______ Năm

Chỉ tiêu ____ 2016 2017 2018 2019 2020

1. Tốc độ tăng trưởng định gốc ROE bình quân ngành

0,0 -6,4 -22,4 -45,3 -133,1 2. Tốc độ tăng trưởng liên hoàn ROE bình

quân ngành

0,0 -6,4 -17,1 -29,5 -160,2 3. Tốc độ tăng trưởng định gốc ROE của HOT 0,0 8,3 69,8 13,5 -400,3 4. Tốc độ tăng trưởng định gốc ROE của VTR 0,0 -23,1 -28,8 -71,5 -266,1 Nguôn: Tác giả tính toán và tổng hợp trên cơ sở bảo cáo tài chinh của công ty khảo sát Dựa vào bảng 2 tiếp tục phản ánh xu hướng và nhịp điệu tăng trưởng về khả năng sinh lợi.

100

—^1^—Tốcđộ tăng trưởng định gốcROE bình quân ngành

Tócđộ táng trường liênhoàn ROE bỉnh quân ngành

ih-TỔcđộ tăng trường định gốc ROE của HOT Tốcđộ tăng trưởng định gốc ROE của VTR -500

Hình 5:Tốc độ tăng trưởng định gốc và liên hoàn về khảnăng sinhlợi củaHOT, VTR và bình quân ngànhgiai đoan 2016-2020

Nguồn: Tác giả tổng hợp trên cơ sở báo cáo tài chính của công ty khảo sát

Số 23 tháng 9năm 2021 29 Tạpchí Tàichính- Quảntrị kinh doanh

(15)

Trên cơ sở tính toán, bằng cách sử dụng đồ thị để phản ánh, đánh giá được nhịp điệu tăng trường của khả năng sinh lợi qua các năm không đều đặn. Đường biểu thị tốc độ tăng trưởng liên hoàn qua thời gian cho thấy trong suốt cả kỳ nghiên cứu là thiếu ổn định và tốc độ tăng trường của khả năng sinh lợi giữa năm sau với năm liền kề là thấp.

4. Kếtluận

Nghiên cứu cho thấy, trong giai đoạn từ năm 2016 đến 2020, có sự liên hệ giữa tình hình dịch bệnh Covid 19 và khả năng sinh lợi của các công ty du lịch. Trong năm 2020, sự sụt giảm nghiêm trọng lượng khách du lịch quốc tế cũng như du lịch trong nước dịch Covid-19 tác động tiêu cực đến mọi lĩnh vực của nền kinh tế, trong đó có ngành du lịch của Việt Nam, so với trước khi dịch bệnh xuất hiện năm 2018 và 2019. Vi vậy, ROA, ROE và ROA cũng bị suy giảm so với giai đoạn trước. Để gia tăng khả năng sinh lợi thì bắt buộc doanh nghiệp du lịch phải thích nghi và chuyển mình để thích nghi với đại dịch, đẩy mạnh mô hình kinh doanh làm tăng doanh thu.

Sau khi trải qua đợt dịch bệnh Covid-19 đã thay đối về hành vi dẫn đến nhiều thay đổi nhu

cầu của khách du lịch, có xu hướng chú trọng hơn tới các yếu tố an toàn sức khỏe, vệ sinh, bảo hiểm du lịch, tránh tiếp xúc đông người, nhu cầu đối với các kỳ nghỉ dưỡng cao cấp ở các không gian mở gia tăng, phù hợp với xu hướng, nhu cầu của thị trường. Đồng thời các doanh nghiệp phải đa dạng hóa thị trường du lịch để tránh phụ thuộc vào một số thị trường nhất định, từ đó có thể hạn chế rủi ro trước những biến cố trong khu vực và thế giới. Mở ra nhiều lựa chọn các điểm du lịch gần, cắt ngắn thời gian các kỳ nghỉ, kế hoạch đi du lịch được xây dựng sát với thời điểm chuyến đi và có thể thay đối linh hoạt hơn trước. Thay vì ưu tiên về giá cả, khách hàng sẽ ưu tiên về an toàn và lựa chọn sản phẩm du lịch có chất lượng cao. Các doanh nghiệp cần điều chỉnh lại cách hoạt động, nghiên cứu nhu cầu thị trường để có những sản phẩm du lịch phù hợp có chất lượng, tăng cường sự liên kết để tăng sức đề kháng và phát triển mạnh mẽ, liên kết với hàng không, vận tải, khách sạn, nhà hàng để xây dựng những gói kích cầu du lịch, đưa du lịch hồi phục nhanh sau giai đoạn khủng hoảng.

Tài liệu tham khảo

Hùng Đạt. (2021, 1 25). Nhìn lại tác động của dịch Covid-19 đối với du lịch Việt Nam và xu hướng phát triển năm 2021. Retrieved 5 2021, from Tạp chí Con số và Sự kiện:

http ://consosukien. vn/nhin-lai-tac-dong-cua-dich-covid-19-doi-voi-du-lich-viet-nam-va- xu-huong-phat-trien-nam-2021 .htm

Nguyễn Minh Kiều, Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản Thống kê, 2009.

Nguyễn Thị Ngọc Trang và Nguyễn Thị Liên Hoa, Phân tích báo cáo tài chính, Nhà xuất bản Lao động - Xã hội, 2007.

Phan Đức Dũng, Kế toán quản trị, Nhà xuất bản Thống kê, 2008.

Vietstock. (2021a, 5). CTCP Du lịch Dịch vụ Hội An (HOSE: HOT). Retrieved 6 2021, from VietstockFinance: https://finance.vietstock.vn/HOT/tai-chinh.htm?tab=KQKD

Vietstock. (2021b, 5). CTCP Du lịch và Tiếp thị Giao thông Vận tải Việt Nam - Vietravel (UPCoM: VTR). Retrieved 6 2021, from VietstockFinance:

https://finance.vietstock.vn/VTR/tai-chinh.htm?tab=KQKD

Vietstock. (2021c, 5). CTCP Dịch vụ Du lịch Bến Thành (UPCoM: BTV). Retrieved 6 2021, from VietstockFinance: https://fmance.vietstock.vn/BTV/tai-chinh.htm?tab=KQKD Vietstock. (202Id, 5). CTCP Dịch vụ Du lịch Mỹ Trà (UPCoM: MTC). Retrieved 6 2021, from

VietstockFinance: https://finance.vietstock.vn/MTC/tai-chinh.htm?tab=KQKD

Vietstock. (2021e, 5). CTCP Dịch vụ Du lịch Phú Thọ (UPCoM: DSP). Retrieved 6 2021, from VietstockFinance: https://finance.vietstock.vn/DSP/tai-chinh.htm?tab=KQKD

Sổ 23tháng9năm 2021 30 Tạp chí Tài chính- Quản trị kỉnhdoanh

Referensi

Dokumen terkait

Nghị định 66/2011/NĐ-CP[2] quy định một số tiêu chí cơ bản đối với công tác đánh giá người đại diện tại các công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu: i Chấp

Nhận thức được tầm quan trọng của công tác kế toán doanh thu, chi phí vận dụng lý luận đã được học tập tại trường kết hợp với thực tế thu nhận được từ công tác kế toán tại công ty TNHH

Theo kết quả khảo sát 152 doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hải Phòng trong khuôn khổ hợp tác giữa Sở KH&CN TP Hải Phòng và Trường Đại học Bách khoa Hà Nội năm 2015 cho thấy, chỉ 40%

Để đạt được hiệu quả kinh doanh ngày càng cao và vững chắc, đòi hỏi các nhà quản lý không những phải nắm chắc các nguồn tiềm năng về lao động, vật tư, tiền vốn mà còn phải nắm chắc cung

Tạp chí Công nghệ ngân hàng | Tháng 10.2018 | Số 151 60 QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP VÀ HÀNH VI THAO TÚNG LỢI NHUẬN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NIÊM YẾT TẠI VIỆT NAM Tóm TắT: Bài nghiên cứu tìm

Các thỏa thuận mục tiêu chính thức giữa Trường Đại học Ngoại thương và các doanh nghiệp của Keieijuku Đẩy mạnh hợp tác triển khai các hợp đồng nghiên cứu: tại FTU đã bắt đầu phát triển

Chỉ số kết quả đầu ra của hợp tác giữa trường đại học và doanh nghiệp chia theo loại hình hoạt động Nhóm chỉ số Chỉ số kết quả đầu ra Phát triển và triển khai chương trình đào tạo -

KẾT LUẬN Dựa trên quan điểm Công tác đánh giá thành tích nhân viên như là một trong những “công cụ đắc lực” cho quản trị - tạo động lực làm việc, tăng kết quả và chất lượng công việc,