Thái Hữu Linh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 69 - 72
69
VAI TRÒ CỦA HẬU PHƯƠNG BẮC THÁI
TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG MẬU THÂN NĂM 1968
Thái Hữu Linh, Nguyễn Thị Thu Hiền*, Nguyễn Thị Thanh Hà Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 là một chủ trương chiến lược đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta, có ý nghĩa lịch sử to lớn, mở ra cục diện mới trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta. Đồng thời, cuộc Tổng tiến công này đã khẳng định sự mưu trí, tinh thần chiến đấu anh dũng để đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của quân và dân ta. Trong đó, không thể không nói tới vai trò của hậu phương miền Bắc chi viện cho chiến trường miền Nam mà đặc biệt là Bắc Thái đã cung cấp sức người, sức của cho chiến trường, xứng đáng với vai trò “Hậu phương trong hậu phương lớn của tiền tuyến lớn”.
Từ khóa: Hậu phương, Bắc Thái, Mậu Thân 1968, chi viện, chiến trường.
ĐẶT VẤN ĐỀ *
Trong chiến tranh, bên nào có sức mạnh áp đảo bên đó sẽ giành thắng lợi. Muốn có sức mạnh ngoài yếu tố binh khí, kĩ thuật, tư tưởng, con người còn phải kể đến một nhân tố có vai trò hết sức quan trọng là hậu phương của cuộc chiến tranh. Sự chi viện của hậu phương cho tiền tuyến là một yếu tố thường xuyên quyết định thắng lợi của cuộc chiến tranh, vì hậu phương là nơi xây dựng và dự trữ tiềm lực về cả mặt chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá và khoa học kĩ thuật, là nơi chi viện nhân lực, vật lực, là chỗ dựa tinh thần cho tiền tuyến. Muốn đánh thắng ở tuyền tuyến, phải có hậu phương vững mạnh về mọi mặt. Việc xây dựng hậu phương là một vấn đề có tính chất chiến lược và quyết định đối với thắng lợi của toàn bộ cuộc chiến. Sức mạnh của hậu phương chính là sức mạnh của quân đội. Vì vậy khi có chiến tranh hay thời bình đều phải nhận thức đúng đắn quan điểm đó để ra sức xây dựng, bảo vệ tiềm lực mọi mặt của hậu phương, của đất nước, tạo thế và lực bảo đảm cho quân đội giành chiến thắng.
NỘI DUNG
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 của quân và dân ta đã đánh dấu bước ngoặt lớn trong cuộc chiến với Mỹ. Đây là một đòn giáng mạnh vào chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ và làm phá sản hoàn
*Tel: 0982983877; Email: [email protected]
toàn chiến lược chiến tranh đó, buộc Mỹ phải thay đổi bằng chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Đánh giá về giá trị lịch sử thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Đó là thắng lợi của đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta, thắng lợi của lòng yêu nước nồng nàn và sức mạnh của toàn dân đoàn kết quyết chiến, quyết thắng giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc. Là thắng lợi của một quá trình đánh giá đúng tình hình, có tầm nhìn chiến lược, lựa chọn phương hướng tiến công đánh đòn quyết định, thực hiện phối hợp chiến trường trên quy mô toàn miền, thắng lợi của tinh thần đoàn kết của cả dân tộc [1, tr. 146].
Chiến thắng này thực sự là một sáng tạo độc đáo trong tư duy chiến lược của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, một mẫu mực về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh cách mạng Việt Nam.
Như vậy, chiến thắng của cuộc tiến công Mậu Thân 1968 không thể không nói tới vai trò của hậu phương miền Bắc. Trong đó, Bắc Thái căn cứ địa trong cuộc kháng chiến chống Pháp tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, hết lòng vì miền Nam ruột thịt, xứng đáng với vai trò “Hậu phương trong hậu phương lớn của tiền tuyến lớn miền Nam” [2, tr. 107]. Hậu phương Bắc Thái đã đóng góp sức người, sức của cho tiền tuyến miền Nam và ra sức phục hồi sản xuất để chi viện cho chiến trường.
Thái Hữu Linh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 69 - 72
70
Đẩy mạnh công tác tuyển quân chi viện cho tiền tuyến
Trước tình hình cuộc chiến tranh ngày càng ác liệt khi Mỹ tăng cường ném bom ra miền Bắc và đưa lĩnh Mỹ và chư hầu vào miền Nam để thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, đòi hỏi công tác động viên tuyển quân chi viện chiến trường của các tỉnh, thành phố miền Bắc trở nên hết sức cấp bách. Tại Hội nghị giao chỉ tiêu động viên tuyển quân cho các tỉnh, thành phố trên miền Bắc đầu năm 1968, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã chỉ thị: Công tác động viên tuyển quân là công tác trung tâm số một, là vấn đề cấp bách được ưu tiên. Động viên lực lượng bổ sung cho chiến trường lúc này có tính chất quyết định [3, tr. 311].
Ngay sau chỉ thị của Thủ tướng, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Thông tri lãnh đạo công tác tuyển quân năm 1968, chỉ rõ nhiệm vụ của Đảng bộ, nhân dân và các lực lượng vũ trang trong tỉnh trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng phải “kiên quyết động viên đạt và vượt mức quân số, đảm bảo chất lượng tốt, thời gian nhanh, giao quân gọn và an toàn” [3, tr.125].
Đầu năm 1968, Hội đồng nghĩa vụ quân sự tỉnh được củng cố và kiện toàn lại đủ số lượng và đảm bảo chất lượng, đồng thời từng bước duy trì chế độ và nền nếp hoạt động.
Các phong trào “Ba sẵn sàng” trong thanh niên, “Ba đảm đang” trong phụ nữ được đẩy mạnh. Chỉ tiêu tuyển quân của Bắc Thái năm 1968 lớn gấp 2,09 lần năm 1965; 1,27 lần năm 1966, 1967 cộng lại [4, tr. 311]. Tỉnh giao chỉ tiêu tuyển quân đợt 1 cho hai huyện Phổ Yên và Phú Lương.
Tại Phổ Yên, trước giao quân 15 ngày, huyện tuyển được 66% chỉ tiêu. Huyện ủy giao cho Đoàn thanh niên và Hội phụ nữ mở một cuộc vận động, động viên chồng, con, người yêu lên đường đánh Mỹ. Ban Thường vụ Huyện ủy và Ủy ban Hành chính huyện 3 lần triệu tập các Bí thư, chủ tịch xã và thủ trưởng các cơ quan bàn biện pháp thực hiện chỉ tiêu tuyển quân.
Tại Phú Lương, sau một tháng triển khai tuyển quân mới đạt được 32%; Huyện ủy đã cử 24 huyện ủy viên xuống 24 cơ sở kiểm tra, chỉ đạo. Với quyết tâm cao và nhiều biện pháp tích cực của các cấp từ tỉnh, huyện, xuống cơ sở
nên đợt I tuyển quân, tỉnh đã hoàn thành 100,44% chỉ tiêu (vượt 0,44%) [5, tr.167].
Từ kết quả công tác động viên, tuyển quân đợt 1 năm 1968, Ban Chỉ huy tỉnh đội rút ra 3 kinh nghiệm chủ yếu là: Một là, cấp ủy Đảng và chính quyền và các cấp phải quán triệt sâu sắc, đầy đủ ý nghĩa, tầm quan trọng và yêu cầu cấp bách của công tác động viên tuyển quân chỉ viện chiến trường, từ đó có quyết tâm cao, có nhiều biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, thường xuyên, liên tục. Hai là, coi trọng công tác giáo dục chính trị, động viên tư tưởng cho các đối tượng, đặc biệt là thanh niên. Ba là, quản lý chặt chẽ đối tượng động viên tuyển quân cả về số lượng và chất lượng [2, tr. 324].
Từ kết quả và kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyển quân đợt 1, Tỉnh ủy chỉ thị cho các cơ quan, đơn vị huyện, thành “Phải phối hợp chặt chẽ với các cơ quan quân sự tỉnh, huyện để làm công tác tuyển quân. Chú ý lãnh đạo ở các vùng yếu, vùng xa xôi, hẻo lánh”
[5, tr. 245]. Tuyển quân đợt 2 tỉnh vượt 0,84% chỉ tiêu. Vừa giao xong quân đợt 2, ngày 20/5/1968, Phó Thủ tướng giao cho Bắc Thái tuyển quân tiếp đợt 3 với chỉ tiêu 4.500 tân binh (không kể nữ). Đây là đợt có chỉ tiêu cao nhất từ trước tới nay (gấp 2 lần chỉ tiêu cả năm 1967) [2, tr.198]. Để hoàn thành chỉ tiêu đó, đầu tháng 6/1968, tỉnh tổ chức Hội nghị sơ kết công tác tuyển quân 6 tháng đầu năm 1968 bàn nội dung, biện pháp tuyển quân đợt 3. Sau hội nghị, Ban Chỉ huy Tỉnh đội phối hợp với ngành Thương binh và Xã hội tỉnh phát động phong trào thi đua “Toàn dân chấp hành chính sách hậu phương quân đội”. Tiếp đó, Ban Thường vụ Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị quán triệt nhiệm vụ tuyển quân đợt 3 cho Bí thư các huyện ủy, Thành ủy. Cơ quan quân sự Tỉnh ủy họp các ngành, các cấp liên quan để bàn kế hoạch và biện pháp thực hiện. Hội phụ nữ tỉnh chỉ đạo đẩy mạnh phong trào “Ba đảm đang”, Tỉnh đoàn thanh niên phát động đoàn viên, thanh niên tham gia “Ngày hội thanh niên tòng quân chống Mỹ cứu nước”, Đoàn thanh niên các huyện Võ Nhai, Bạch Thông, Phú Bình tổ chức ngày “Hội thanh niên tòng quân chống Mỹ cứu nước”. Do làm tốt công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tuyên truyền giáo dục, động viên,
Thái Hữu Linh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 69 - 72
71 nên mặc dù trong điều kiện chiến tranh ác liệt
kéo dài, nguồn tuyển quân có nhiều hạn chế, chỉ tiêu cao, thời gian chuẩn bị ngắn nhưng Bắc Thái đã hoàn thành vượt mức 9,3% chỉ tiêu tuyển quân đợt 3 [2, tr. 286].
Sau tuyển quân đợt 3, đầu tháng 8/1968, Phủ Thủ tướng và Bộ Tổng tham mưu đã cử cán bộ xuống kiểm tra, chỉ đạo công tác, động viên, tuyển quân ở Bắc Thái. Được sự chỉ đạo hỗ trợ trực tiếp của Phủ Thủ tướng và Bộ Tổng tham mưu, đợt tuyển quân thứ 4 năm 1968, Bắc Thái hoàn thành vượt mức 4,6%.
Tỉnh còn được Bộ Tư lệnh Quân khu Việt Bắc giao nhiệm vụ tuyển quân và xây dựng, huấn luyện hai tiểu đoàn quân tăng cường chi viện thẳng cho chiến trường miền Nam. Thực hiện nhiệm vụ này, tháng 4/1968, Bắc Thái vừa tập trung củng cố, kiện toàn xong đội ngũ cán bộ khung, vừa tuyển quân vào tiểu đoàn 68B đạt 101,65% chỉ tiêu quân số [2, tr.209].
Tiểu đoàn 68B gấp rút củng cố tổ chức, khẩn trước bước vào huấn luyện đạt kết quả tốt.
Ngày 20/6/1968, cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn 68B đã tạm biệt quê hương Bắc Thái, lên đường vào Nam đánh giặc [2, tr.211].
Tiếp theo tiểu đoàn 68B, tháng 7/1968, Ban Chỉ huy Tỉnh đội điều động, sắp xếp cán bộ khung và tuyển quân xây dựng tiếp tiểu đoàn 68C. Mặc dù tuyển quân vào Tiểu đoàn 68C vượt 6,72% chỉ tiêu, nhưng do công tác khám tuyển không tốt, quá trình huấn luyện, giáo dục quản lý bộ đội có nhiều thiếu sót, nên cuối đợt huấn luyện, tỷ lệ hao hụt quân số tiểu đoàn lên tới 26%. Với quyết tâm “Quân không thiếu một người”. Ban chỉ huy tỉnh đội đã gấp rút điều cán bộ, chiến sĩ ở các cơ quan Tỉnh đội và đơn vị trực thuộc bổ sung kịp thời cho Tiểu đoàn 68C lên đường chiến đấu đủ quân số, đảm bảo chất lượng cao và đúng thời gian quy định [2, tr.323].
Kết thúc tuyển quân năm 1968, Bắc Thái đã có 11.860 người con ưu tú của nhân dân hầu hết các dân tộc trong tỉnh lên đường nhập ngũ (vượt 2,3% chỉ tiêu trên giao). Đối với Bắc Thái, một nửa tỉnh trung du, nửa miền núi, địa bàn rộng, núi rừng hiểm trở, giao thông đi lại
khó khăn, hệ thống thông tin liên lạc lạc hậu, thì con số 11.860 người nhập ngũ năm 1968 (chiếm tỷ lệ 2,6% dân số) [2, tr.223] là một sự cố gắng, quyết tâm và nỗ lực vượt bậc của các cấp ủy Đảng, chính quyền và nhân dân. Con số đó thể hiện lòng yêu nước và quyết tâm đánh Mỹ của quân và dân Bắc Thái.
Thúc đẩy sản xuất kinh tế phục vụ chiến trường
Trong bom đạn ác liệt, giao thông vận tải trên địa bàn tỉnh Bắc Thái luôn được đảm bảo thông suốt. Hơn 70.000 tấn lương thực và hàng chục tấn hàng hóa khác được Bắc Thái vận chuyển kịp thời, an toàn [2, tr.278]. Đây là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của Đảng bộ và nhân dân Bắc Thái. Thắng lợi này đã góp phần đánh bại âm mưu phong tỏa miền Bắc của địch trên mặt trận giao thông vận tải, có tác dụng to lớn đối với nhiệm vụ chi viện tiến tuyến miền Nam và xây dựng hậu phương. Năm 1968 Bắc Thái đã vận chuyển 26.200 tấn, bằng 6,9 triệu tấn hàng hóa/km, tăng 9,1% [5, tr.189]. Các loại hàng chủ yếu như: than, đá, xăng dầu, gạo, muối…Song song với việc cung cấp sức người cho tiền tuyển, Đảng bộ tỉnh Bắc Thái cũng gắng sức trong việc cung cấp lương thực, thực phẩm, vũ khí, thuốc men… hoàn thành tốt nhiệm vụ là cầu nối trung chuyển cho chiến trường miền Nam. Tỉnh ủy, Ủy ban Hành chính tỉnh giao nhiệm vụ cho Ban đảm bảo giao thông vận tải tỉnh trực tiếp lãnh đạo, điều hành công tác tiếp nhận và trung chuyển lương thực. Ty lương thực tổ chức các trạm trung chuyển;
các ngành Giao thông, Công an, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh, Tỉnh đoàn thanh niên đảm bảo phương tiện vận chuyển, lực lượng bốc xếp và bảo vệ. Do làm tốt công tác chuẩn bị, Bắc Thái đã tiếp nhận được 9.005 tấn gạo, 1.563 tấn ngô, và tiếp chuyển về trung ương được 6.263 tấn gạo, 703 tấn ngô [3, tr.278]. Tháng 8/1972, các trạm trung chuyển đã đưa năng suất tiếp nhận lên trung bình 1000 tấn lương thực 1 ngày, hoàn thành tốt nhiệm vụ Trung ương giao cho tỉnh [3, tr.299].
Thái Hữu Linh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 69 - 72
72
KẾT LUẬN
Những năm tháng chiến tranh ác liệt, quân và dân tỉnh Bắc Thái đã trải qua muôn vàn thử thách gay go và ác liệt. Với quyết tâm sắt đá, đường hướng đúng đắn, kịp thời và những biện pháp triển khai đồng bộ, hiệu quả trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, các vấn đề xã hội, trật tự an ninh, quốc phòng, Đảng bộ tỉnh Bắc Thái đã lãnh đạo nhân dân tạo nên một sức mạnh to lớn, toàn diện, bền bỉ, dẻo dai. Sức mạnh ấy giúp tỉnh Bắc Thái đứng vững trong hai cuộc chiến tranh phá hoại, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chi viện cho tiền tuyến miền Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh, Toàn tập (1998), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Ban Chỉ huy quân sự tỉnh Bắc Thái (1993), Bắc Thái Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954 – 1975, Bắc Thái.
3. Ban tổng kết lịch sử Bộ Tổng tham mưu (1979), Tổng kết Bộ Tổng tham mưu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954 – 1975, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
3. Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh – Trực thuộc Bộ Chính trị (2000), Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945 – 1975, Thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (2005), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên tập II (1965 – 2000), Thái Nguyên.
SUMMARY
THE ROLE OF THE REAR BAC THAI IN THE 1968 GENERAL OFFENSIVE
Thai Huu Linh, Nguyen Thi Thu Hien*, Nguyen Thi Thanh Ha TNU - University of Education
The 1968 Spring General Offensive and Uprising was a proper strategy of our Party. It was the great historical significance, opening a new phase in the war against the U.S. At the same time, this General Offensive confirmed the bravery, willing to sacrifice for the struggle for the liberation of the South and the unification of the country. In particular, it was impossible not to mention the role of the Northern rear for the Southern battlefield, especially Bac Thai province provided strength for the battlefield, worthy of the role of rear in the big rear of the front.
Keywords: rear, Bac Thai, Mau Than 1968, aid, battlefield.
Ngày nhận bài: 11/5/2018; Ngày phản biện: 06/6/2018; Ngày duyệt đăng: 29/6/2018
*Tel: 0982983877; Email: [email protected]