• Tidak ada hasil yang ditemukan

Yêu tô Phật giáo trong thành ngữ, tục ngữ tiêng Hàn

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "Yêu tô Phật giáo trong thành ngữ, tục ngữ tiêng Hàn"

Copied!
10
0
0

Teks penuh

(1)

tiêng Việt

Hoàng Thị Yến1, Vũ Hoàng Hà1 2

1 TS., Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội

2 Học viên cao học, Đại học Thăng Long

3 Trần Thị Thu Lương (2016), Đặc trưng văn hóa Việt Nam - Hàn Quôc: tương đồng và khác biệt, Nxb Chính trị quốc gia, TP. Hồ Chí Minh.

4 Ngô Xụân Bình, Phạm Hồng Thái (2007), Tôn giáo ờ Hàn Quốc và Việt Nam: Nghiên cứu so sánh, Nxb Khoa học công nghệ Hà Nội.

5 Mai Ngọc Chừ (2018), “Vai trò và đặc điểm của các tôn giáo của Hàn Quốc”, Hội thảo quốc te KF 2016: Nghiên

cứu, giảng dạy ngữ pháp tiếng Hàn và văn hỏa xã hội Hàn Quốc, TP. Ho Chi Minh, 8/2018.

6 Trần Thị Họa My (2018), “Phật giáo ở Thái Lan và ở Hàn Quốc (sự du nhập, vai trò và đặc điểm)”. Hội thảo quốc tế KF 2016: Nghiên cứu, giảng dạy ngữ pháp tiếng Hàn và văn hóa xã hội Hàn Quốc, Tlđd.

7 ẳj'n'7ì (1984), tì)TL nt

V-ị-ílV-ẵ-

(Choi Yu Meon (1984), Nghiên cứu so sánh tục ngữNhật- Hàn: trọng tâm là Phật giáo và tín ngưỡng truyền thống, Đại học Keimyung, Luận văn thạc sĩ).

8 4O1 (2010), iTlr <1 ợl tì] 57 cq^ 2Ễ.V|

q] ĩ]- 51, (Na Y (2010), Nghiên cứu so sánh tục ngữ về Phật giảo Hàn - Trung, Đại học Hoseo, Luận văn thạc sĩ).

9 "|- 51 (2020), -ầrV ¥1 Ỉ-L ¥] -°|

71^5]- 71T, /2-T -=ỊN- Tiu 4(5] zl 26 71 1 Ỉ-, 147-164p (Park Hwan Young (2020), “Nghiên cứu nhóm từ vựng Phật giáo trong tục ngữ từ góc độ của nhân chủng học ngôn ngữ”, Journal of Buddhist Professors in Korea (JBPK), quyền 26, số 1, tr.147-164).

Tóm tắt: Bài viết sử dụng phương pháp miêu tả, tiếp cận theo hướng nghiên cứu đồng đại kết hợp với thao tác thống kê, phân loại, phân tích và tổng hợp nhằm phác họa một số yếu tố Phật giáo trong thành ngữ và tục ngữ tiếng Hàn. Giáo lí về nhân quả và luân hồi, triết lí vô thường, khổ đế và từ bi cũng như cách thức tu hành, hình ảnh chùa chiền và các vật dụng liên quan cho chúng ta thấy một phần diện mạo của Phật giáo Hàn Quốc. Cũng có thế thấy rõ những nét tương đồng và dị biệt của Phật giáo trong kho tàng thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn và tiếng Việt.

Từ khóa: Yeu tố Phật giáo, cách thức tu hành, chùa chiền, thành ngữ và tục ngữ, tiếng Hàn và tiếng Việt

1. Đặt vấn đề

Phật giáo từ Trung Quốc du nhập vào bán đảo Triều Tiên vào khoảng năm 372 (Koguryo) đến năm 527 (Shilla). Trong một thời gian dài từ khi du nhập, trải qua thời kì Tam Quốc và Shilla thống nhất, đến Koryeo, Phật giáo phát triển mạnh, trở thành quốc giáo và gắn với cung đình nhiều hon.

Chỉ khi bị coi thường ở triều đại Choson mới trở thành tôn giáo gần dân hơn3. Các nghiên cứu về tôn giáo và Phật giáo của Hàn Quốc trong tiếng Việt có công trình của nhóm tác giả Ngô Xuân Bình, Phạm Hồng Thái (2007)4, tác giả Mai Ngọc Chừ (2018)5 *, tác

giả Trần Thị Họa My (2018)6... Nghiên cứu Phật giáo trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn có công trình của tác giả Choi Yu Meon (1984)7, tác giả Na Y (2010)8, tác giả Park Hwan Young (2020)9... Bài viết này nghiên cứu một số yếu tố liên quan đến Phật giáo trong thành ngữ và tục ngữ tiếng Hàn và

(2)

tiếng Việt nhằm góp thêm một tài liệu tham khảo hữu ích cho lĩnh vực này. Cụ thể, bài viết tìm hiểu về các yếu tố như giáo lí nhà Phật; đặc điểm tu hành và kinh kệ; chùa chiền và các vật dụng liên quan đến Phật giáo qua ngữ liệu thành ngữ và tục ngữ tiếng Hàn và tiếng Việt.

Ngữ liệu tiếng Hàn được thu thập chủ yếu từ Từ điển tục ngữ của tác giả Song Jae Seun (1986)10 *, tác giả Lee Gi Moon (1997)11...

Ngữ liệu tiếng Việt lấy từ các công trình của nhóm tác giả Vũ Dung, Vũ Thúy Anh, Vũ Quang Hào (1993)12, tác giả Hoàng Văn Hành (2003) 13 , tác giả Vũ Ngọc Phan (2008)14... Kết quả chúng tôi thu thập được 210 đơn vị tục ngữ tiếng Hàn, 136 đơn vị tục ngữ tiếng Việt có yếu tố liên quan đến Phật giáo. Chúng tôi sử dụng chức năng Find trong Word nhằm thống kê phân loại và tính tần số xuất hiện của nhóm từ vựng liên quan đến việc tu hành và kinh kệ, chùa chiền và các vật dụng liên quan. Ớ nội dung về giáo lí nhà Phật, các từ khóa nhân quả :4, nghiệp báo ‘tỉM, luân hồi >51, từ bi thiện hành/hành thiện 4dé5... đều ít xuất hiện trong cả ngừ liệu tiếng Hàn và tiếng Việt. Vì vậy, khi phân tích, chúng tôi dẫn thêm các đơn vị tục ngữ không có yếu tố từ vựng liên quan đến Phật giáo nhưng lại chuyển tải tinh thần hoặc nội dung liên quan đến Phật giáo.

Ví dụ như quan niệm nhân quả triết lí vô thường... hành thiện tạo phúc từ bi, vị tha...

10 (1986), 'Vyl-B-N-ĩl. ^-^(Song Jae Seun (1986), Đại từ điển tục ngữ Urimal, Seomundang).

(1997), (Lee Gi Moon

(1997), Từ điên tục ngữ, Iljogak).

12 Vũ Dung, Vũ Thúy Anh, Vũ Quang Hào (1993), Từ điên thành ngữ, tục ngữ Việt Nam. Nxb Giáo dục, Hà Nội

13 Hoàng Văn Hành (2003), Thành ngừ học tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

14 Vũ Ngọc Phan (2008), Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.

Bên cạnh đó, chúng tôi cũng dẫn thêm một số đơn vị là ca dao nhằm làm rõ hon hình ảnh của Phật giáo trong tâm thức người Việt.

2. Giáo lí nhà Phật trong thành ngữ, tục ngữ

2.1. Nhân quả báo ứng và thuyết luân hồi

Qui luật ở đời và thể hiện rõ nhất trong Phật giáo chính là thuyết nhân quả: Gieo nhân nào gặt quả nấy, cụ thế là: íd >, OLO] ol-õi}- thiện nhân thiện quả, ác nhân ác quả. Tục ngữ tiếng Hàn có câu: s]

> 7Ả Ồ1 tR >^17}- tội ác gây ở kiếp trước thì đáng sợ hơn: ý nói, nghiệp báo từ kiếp trước đen kiếp sau hoặc thế hệ sau thường vô cùng nghiêm trọng. Người Hàn và người Việt nhận thức rõ quan niệm nhân quả và thể hiện một cách tự nhiên, cụ thể trong thành ngừ và tục ngữ, ví dụ: (1) íhií aT°l if >ircl‘ ngựa ăn muối sẽ tìm nước uổng.

Người Việt nói: Ai ăn mặn, nấy khát nước.

(2) ipTL, > ÍH >711 nl'?ì °1 L l bò ăn no thì ỉa, có lửa thì cỏ khói.

Người Việt cũng có cách liên tưởng như vậy: Không có lửa làm sao có khói. Qua tục ngữ, người Hàn cảnh báo những hậu quả khó lường do con người làm việc xấu, ví dụ như:

(1) ăn vụng chịu phạt: ãỉ>ol nfl

» như nièo ăn vụng bị roi; (2) gây go bị thương: 711V. °|-vr 41 >

chó dữ cũng không cỏ ngày Sổng mũi lành', (3) gần người xấu dễ vạ lây: 711 s°ll $1— rì tì) >'4 auTfL}- ờ cạnh chó chỉ có lây bọ, 711 »41 >Ĩ| -ffaVl » nếu thân với chó, ảo sẽ vấy bùn... Người Việt dùng cành báo: Đi đêm lảm có ngày gặp ma, Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng... Ớ mặt tích cực, người Hàn quan niệm: phúc phận của đời người là quả ngọt của nhân lành:

-H °ĩ| TT tfl -T'Vh 41 If 1-1 nhà khả giả bò đẻ cũng đẻ ngưu vương và ngược lại, người

(3)

vô phúc thì làm gì cũng khó khăn, khó thành tựu: 4 te 444s te te đạỉ thần vô phúc thì trong trứng gà cũng có xương.

Luân hồi là biểu hiện của nhân quả nhung với chu kì dài hon - thường là hon một đời/kiếp người. Phật giáo thường nhắc đến kiếp trước, cuộc đời hiện tại và kiếp sau.

Theo giáo lí nhà Phật, con người sau khi trải qua cuộc đời trên cõi tạm với sinh, lão, bệnh, tử sẽ đến thế giới khác. Có thể đầu thai thành người, lên thiên đàng hay xuống địa ngục hoặc thành ngạ quỉ/súc sinh tùy theo phúc hay nghiệp họ đã tạo trong đời trước. Những người không giác ngộ, làm điều ác thì cũng coi như bỏ đường sáng'. 4 4 -a 4 4 -V 44 4 s. 4 4" bỏ đường đến cõi cực lạc, đi đường đến địa ngục. Luật nhân quả cũng thể hiện qua duyên nghiệp: -ậ-4 44 44- 444, te te te teôt 4 44- chán đồ ăn thì cho chó, chán người thì phải chết mới không phải gặp. Dân tộc Hàn cho rằng, những mối nhân duyên tốt đẹp sẽ thường sẽ tạo nên kì tích: ặ4-5i 44 s- 44°1: 44 tuấn mã phải gặp tướng giỏi mới bay lên trời và ngược lại:

4 444 44s.

4 44 tuấn mã không gặp được chủ hay thỉ già với kiếp ngựa cho thuê. Những qui luật cuộc đời thế hiện khá rõ nhân sinh quan của hai dân tộc: 4 4*4 4 4 4-V- 4*4 4 íL 44- ngựa đến nơi ngựa hí, bò đến nơi bò kêu. Tương tự, người Việt dùng hình ảnh:

Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã. Người Việt giác ngộ sâu sắc thuyết nhân quả và luân hồi: Bởi do kiếp trước vụng tu, kiếp này tu để đền bù kiếp sau...

2.2. Triết lỉ vô thường

Vô thường chính là sự biến đổi không ngừng của cuộc sống. Người Hàn có câu: 4

444 44 44 4- ^4 44 ^4 $ 44- kẻ nuôi bò và kẻ nuôi con đều không thể mạnh mồm được: vì không biết lúc nào bò mình phá ruộng người, không biết lúc nào con mình gây chuyện. Người Việt giáo huấn con cháu: Sóng có khúc, người có lúc. Tục ngữ tiếng Hàn có yếu tố chỉ động vật xuất hiện nhiều hình ảnh biểu trưng cho những biến đổi tiêu cực. Trong cuộc sống, có những việc mình tin là ổn định, tốt đẹp nhưng cũng có khi bất ngờ xảy ra sự cố: 4 4 44 45. 44 4 4 7} 44 ngựa bốn chân cũng có khi ngã; 4444 4"'T’°llAi 444 4144' khỉ cũng có khi ngã từ trên cây... Tục ngữ Việt có câu: Khỉ trèo cây cũng có ngày bị ngã: Ý nói, có lúc con người ta mất đi thế mạnh vốn có, rơi vào tình thế bất lợi.

Ngữ liệu tục ngữ tiếng Hàn có yếu tố chỉ con hổ xuất hiện các trường họp cụ thể tương ứng như sau: (1) mất vũ khí lợi hại:

JL4453 44 4-4 ŨL 4-.®.

444 nếu hổ rụng răng, mòn vuốt, thỏ cũng xem thường', (2) sa bẫy: 4-44 te 4 444 te 444 hổ sa bẫy thì con chuột cũng coi thường', (3) rời núi: 444 4 4 4-Ồ-, 444 4 314 4 như hố rời núi, như cả mắc cạn. Ở vào tình thế bất lợi đó, những kẻ mạnh được biểu trung bởi hình ảnh hổ và rồng thường ở tình trạng tiêu cực như: (1) trở thành kẻ yếu:

te 4 4 4* te 4 te te hổ mất uy cũng thành chuột', (2) phải cầu xin kẻ yếu trợ giúp: 4-te te te^l te 4 S-4S-31 44 444 hổ dữ sa bẫy cũng cầu cứu thỏ', (3) bị hại: # nị41 4 -ậ-Ề- 7114 4* #4^44 rồng ra khỏi nước bị kiến cắn. Người Việt dùng các biểu hiện sau:

Hùm thiêng sa lưới, Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn; Rồng mất ngọc...

(4)

Những biến đổi theo hướng tích cực thể hiện trong tục ngừ tiếng Hàn có: #

eT°l $Ẳ4 chó cũng có ngày gặp khách, 4 44 4 Sì 44 4°] $Ầ4 cộ ngày ánh sáng cũng vào hang chuột... Tiếng Việt có các câu biểu đạt ý nghĩa tương tự: Hết cơn bĩ cực đến hồi thải lai, Het mưa là nắng hửng lên thôi... Giác ngộ được triết lí này, con người có thế tự do tự tại trước mọi biến đối của cuộc sống như Tải ông mất ngựa: được cũng không vui, mất cũng không buồn bởi thấu triệt chân lí: Trong phúc có họa, trong họa có phúc... Tục ngữ Hàn có câu: 4 4 51 mất bò được cừu hay 44 5ỈŨĨ 44' $414 mat cừu được bò. Người Việt cũng tự an ủi khi mất cắp, bị trộm: Cùa đi thay người...

Cuộc đời thường biến đổi theo qui luật.

Neu đang ở vận tốt thì mọi việc đều diễn ra tốt đẹp: 44 44 44 4Ồ1SÌ 444 444 nhà phát đạt thì ngựa đẻ cũng chỉ đẻ ra long mã; 44 444 44°1 44 444 nhà đang phất đến gà trổng cùng đẻ trứng... Nhờ sống tốt, con người dễ gặp may:

7Ì|4 44 #4 upl $114 chó cũng có lúc cắn bọ. Tuy nhiên, Họa phúc khó lường và người Việt cho rằng: Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí...

2.3. Ọuan niệm đời bể khổ và đức từ bi Triết lí nhân sinh của Phật giáo chính là

$1 4 4 đời là bể khô với sinh lão bệnh tử là 4 cái khổ của con người: Be trần là kiếp phù sinh, thị phi thương ghét trong tình quẩn quanh. Người Hàn coi trọng cuộc song: 4 44 Vi4si. 444 V14 dù có vẩy phân ngựa nhưng trần thế vân tốt. Câu Sinh kỉ, tử qui (sổng ở, chết về) trong tiếng Việt là quan niệm xem dương thế là cõi tạm, Niết bàn mới là giải thoát, vĩnh cửu. Hiểu được chân lí này con người sẽ không tham, sân, si; có thể sổng ung dung, tự tại. Trong khi người

Hàn dùng hình ảnh: $14 4 4 °1 4 444 44 trăm năm cõi người như ngựa chạy thì người Việt cũng dùng câu: Đời người như bóng câu qua cửa sổ. Mọi sinh linh đều bình đẳng trước cái chết: 444 44 4444 44444 44 414 444 44444 đại trượng phu chết lúc ăn hay bò chết khi cày ruộng cũng như nhau. Người Việt nói:

Sinh ra từ cát bụi, chết cũng trở về với cát bụi...

Chính vì giác ngộ được cuộc sống là vô thường, đời là bê khổ nên Phật giáo luôn hướng thiện, tránh ác. Tục ngữ Hàn có câu:

4 4 4 SI 44 444 dù là một con chuột xấu xí thì cũng hãy ôm ấp nó... Người Việt khuyên: (1) phải vị tha: Đánh kẻ chạy đi không đánh kẻ chạy lại; (2) yêu thương nhau: Lả lành đùm lá rách; (3) hành thiện tích đức: Rủ nhau làm phúc, chớ rủ nhau đi kiện... Vị tha, bao dung chính là phẩm chất tốt đẹp của Đức Phật từ bi. Người Việt cảnh báo: Lẩy hận thù diệt hận thù, hận thù không mất nghìn thu vẫn còn..., khuyên con người sống tốt hơn qua câu: Sân si nghiệp chướng không chừa, bo bo mà giữ tương dưa làm gì...

Có thể thấy, giáo lí nhà Phật cũng như nhiều tôn giáo khác có một điểm chung là hướng thiện, khuyên răn con người sống tốt đê có thê giải thoát. Phật giáo nhân mạnh đến nghiệp báo nhằm cảnh báo con người cần có trách nhiệm với hành động ác hay lời nói xấu của bản thân, cần có ý thức gieo nhân lành đế gặt quả phúc, hướng tới xây dựng một cuộc sống bình an, một xã hội tốt đẹp hơn.

3. Việc tu hành trong đạo Phật

3.1. Phân bo của các từ ngữ liên quan đến tu hành và kình kệ

Đọc kinh và niệm Phật là công việc thường ngày của tăng ni và Phật tử. Bên

(5)

cạnh đó, các nhà sư còn có những buổi giảng ngừ liệu tiếng Hàn chúng tôi thu được 31 về kinh Phật cho đại chúng nghe hiểu. Phật đơn vị từ vựng liên quan đên việc tu hành và tử hay những người mộ đạo có lòng thì bố kinh kệ, phân bố cụ thể như dưới đây:

thí, cúng dường, tu tại gia... Ket quả khảo sát

Bảng 1: Các từ ngữ liên quan đến tu hành và kinh kệ trong tục ngữ tiếng Hàn

Stt Từ Số từ Ví dụ

1 TỂ niệm Phật 20 TẲĩ? TỂ 'M' niệm Phật không cỏ lòng.

2 ^(ST 71) đọc kinh 6 41 ■?] °ĩ| TỄ 71 đọc kinh tai trâu/bò 3

cúng dường

4 -T-^l Vĩ 7?-ồ]-% cúng dường vì Phật 4 TỀTtì thuyết pháp 1 M P. tì thuyết pháp cho Đức Phật

Tổng 31 đơn vị

Tân sô xuât hiện của các từ liên quan đên việc tu hành của nhà sư và Phật tử theo thứ tự từ cao đến thấp như sau: niệm Phật có 20 đơn vị (chiếm 64,5%), đọc kinh có 6 đơn vị (chiếm 19,4%), thuyết pháp có 1 đơn vị (chiếm 3,2%). Việc cúng Phậtcủng dường có 4 đơn vị (chiếm 12,9%). Có thể thấy, việc niệm Phật đơn giản và phù hợp

với sô đông Phật tử và người dân nên phô biến hơn, vì thế nó xuất hiện trong thành ngữ và tục ngừ với tần số cao hơn so với việc đọc kỉnh. Thuyết pháp, giảng kinh là công việc của sư trụ trì chùa hoặc cao tăng đại đức nên xuất hiện với tần số thấp. Trong ngữ liệu tiếng Việt, nhóm từ này có tần số xuất hiện như bảng sau:

Bảng 2: Các từ ngữ liên quan đến tu hành và kinh kệ trong tục ngữ tiếng Việt

stt Từ Số từ Ví dụ

1 Cúng/thờ/

lễ Phật

18 Oản chùa cúng Bụt, đât ruộng đắp bờ. Chùa làng một điện trăm gian, hàng năm lễ Bụt cả làng dâng quy

2 Thắp hương 5 Ẩn của Bụt, thắp hương thờ Bụt 3 Niệm Phật 4 Miệng nam mô bụng một bồ dao găm

4 Gõ mõ 2 Còn trời, còn nước, còn non, còn Sư gõ mõ, anh còn thăp nhang

5 Đọc kinh 2 Lời kinh vang dậy ngán nga, chạnh lòng nhớ nghĩa??? mẹ cha sinh thành

Tổng 31 đơn vị

Nhóm từ ỉễ Phật có 18 đơn vị (chiếm 58,1%%) với các từ củng (5 đơn vị), thờ (7 đơn vị), le (6 đơn vị). Tiếp đó là các hành động liên quan đến việc tu hành: thắp hương có 5 đơn vị (chiếm 16,1%), niệm Phật có 4 đơn vị (chiếm 12,9%), gõ mõ 2 đơn vị

(chiếm 6,5%), đọc kinh chỉ có 2 đơn vị (chiếm 6,5%). Như vậy, qua tục ngừ có thể thấy người Hàn thường niệm Phật, đọc kinh (26/31 đơn vị chiếm hơn 80%) còn người Việt lại chú trọng việc lề Phật, thắp hương (23/31 đơn vị chiếm hơn 70%). Ngữ liệu

(6)

tiếng Hàn không xuất hiện gõ mõ, thắp hương', ngữ liệu tiếng Việt không có từ thuyết pháp.

3.2. Tu hành theo Ngũ giới

Phật giáo đặt ra Ngũ giới để tăng ni và Phật tử giừ mình, tu tập, hướng tới giải thoát, được vãng sinh nơi Tây phương cực lạc. Ngũ giới gồm có: không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu15. Hình ảnh các nhà sư trong đạo Phật thường ung dung tự tại, sống thanh tịnh, ăn chay, giữ giới. Vì thế, mặt trái của giới tu hành đạo Phật chính là hình ảnh các nhà sư không giữ giới luật cua Phật giáo.

Trong ngừ liệu tiếng Hàn xuất hiện các hình ảnh sau: (1) sư ăn thịt: vrôl ãL7] it vỉ Va VW sỊ-B) 7]- V} nếu sư nếm vị thịt thì Phật đường không còn ruồi', (2) sư gần nữ sắc: 3Ỉ °ĩ| ir vh 3. vb1} sư làm dáng gian dâm', (3) sư uống rượu:

ĩ‘?2r '/ẩ sư say rượu... Có ý kiến cho rằng, khi các nhà sư phạm giới tràn lan có nghĩa đến thời mạt pháp. Người Việt phê phán những người giả tu bằng câu: Sư hổ mang, sãi rắn rết. Câu Đi với Bụt mặc ảo cà sa, đỉ với ma mặc áo giấy giáo huấn con người cần sáng suốt trong đối nhân xử thế.

15 Hòa thượng Thích Thiện Hoa, “Ngũ giới” trong Phật học phổ thông, Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành 1997, https://thuvienhoasen.org/a3541/05-ngu-gioi.

Ngữ liệu cho thấy, người Hàn kiêng sát sinh những dịp sau: (1) khi phụ nữ sinh nở:

4 41 ỏ}ồM

-T- 'ẩ sT sinh em bé mà bắt gà, em bé sẽ không may (vì bị nhuốm bẩn); (2) khi vật nuôi trong nhà đẻ: 7.] 77] \4 7] ơ]

TL7K Ậlì^7'|-

Tịeịx] trong 7 ngày đầu lợn

sinh, ở nhà chủ ăn thịt thì lợn con sẽ chậm lớn... Họ cũng tin rằng làm ác sẽ chịu quả

báo: >^£44

gỉết mèo thì vận đen sẽ tới. Người Việt giáo huấn con cháu phải thật thà: An mặn nói ngay còn hơn ăn chay nói doi', lên án sư sãi hay Phật tử đi tu mà tâm ác: Miệng nam mô, bụng bồ dao găm. Người Việt coi trọng mạng người và quan niệm chúng sinh ai cũng bình đẳng: Cứu một người bằng xây bầy tòa tháp...

3.3. Tu hành niệm Phật, đọc kinh Việc tu hành của sư là chuyên tâm niệm Phật, đọc kinh: 31 7s như sư đọc kỉnh Bát dương... Hình ảnh nhà sư đeo tràng hạt chắp tay niệm Phật trang nghiêm thể hiện qua câu tục ngữ:

như pháp sư niệm Phật đeo tràng hạt...

Tục ngữ tiếng Hàn phê phán các tâng ni chưa dứt khỏi cám dỗ trần tục: nỊ”ê‘<>ìl tdir vẵìí niệm Phật không có tâm; vin Vl-ĨL

'e nghe niệm Phật

mong được ăn cơm thịt... Người Hàn khuyên: (1) phải chuyên tâm: ^<Ị-a 7>e]ô> *13'ìẾ”ẵ' ữ)-7] phải tịnh tâm niệm Phật chứ; (2) nếu không tu được có thể làm những việc khác như nấu bếp: Vivi

^°1 ô}'^°1ồlì ‘M’e’ sư không niệm Phật được thì đốt lửa lò; hay quét chùa:

TH như sir nhanh tay quét.

Với người chậm hiểu hoặc vô tâm, người Hàn châm biếm: íbTl0!! sỉ 71 đọc kinh tai bò hay a-71 °Ì1 'ÍỂ irỏ}7! như niệm Phật tai ngựa. Người Việt cũng có hình ảnh tương đồng: Đàn gay tai trâu. Ngoài ra, tục ngừ Hàn dùng câu 117 SỂ o|-ăl £ tìJ"71# chim cũng niệm Phật, chuột cũng đảnh rắm để chê cười sự hỗn loạn, thiếu nghiêm trang của sư sãi hay người tu hành khi hành lễ...

(7)

Trong tiêng Việt có câu: Còn trời còn nước còn mây, chủng sanh còn khổ thì thầy cỏn tu cho thấy lí tưởng của nhà sư chuyên tâm tu hành. Phật tử cũng hết lòng mộ đạo, hướng Phật: cỏn trời, cỏn nước, còn non, còn sư gõ mõ, anh còn thắp nhang. Cách thức tu hành của đạo Phật rất linh hoạt, không gò bó, cứng nhắc nên thu hút đông đảo Phật tử tham gia tu tập. Người Việt quan niệm.- Thứ nhất là tu tại gia, Thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa. Qua tục ngữ, chúng tôi thu thập được một số hoạt động trong tu hành của sư sãi và Phật tử như:

(1) Lễ Phật: Người Việt tin rằng: Lễ Phật thì đặng việc hiền, bao nhiêu nghiệp chưởng não phiền đều tan nên thường tham gia vào việc chuẩn bị lễ Phật, ví dụ như: (i) làm oản:

Oản chùa cúng Bụt, đất ruộng đắp bờ', (ii) thắp hương: An của Bụt, thắp hương thờ Bụt.

Thời gian lễ Phật của người dân Việt cũng không cố định: Le Phật quanh năm, không bằng rằm tháng giêng. Đối tượng tham gia

lê Phật cũng không có giới hạn nào, không có sự phân biệt nào: Chùa làng một điện trăm gian, hàng năm lề Bụt cả làng dâng qui...

(2) Gõ mõ, đánh chuông/trống: Nhớ chàng ra ngân vào ngây, sư ông nhớ Bụt, mõ rày nhớ chuông; Chiều chiều bìm bịp giao canh, trống chùa đã đảnh sao anh chưa về...

(3) Đọc kinh, niệm Phật: chủ yếu nham cầu phúc cho cha mẹ: Lời kinh vang dậy ngàn nga, chạnh lòng nhớ nghĩ mẹ cha sinh thành; Dốc lòng niệm Phật không lơi, cầu cho cha mẹ thác thời siêu sanh ...

4. Hình ảnh chùa chiền và các vật dụng liên quan

4.1. Phăn bố của các từ ngữ liên quan đến chùa chiền và vật dụng liên quan

Liên quan đến nơi tu hành của các nhà sư, từ ngữ liệu tiếng Hàn, chúng tôi thống kê được 48 đơn vị từ vựng, phân theo các tiểu nhóm như bảng 3.

Bảng 3: Các từ ngữ iiên quan đến chùa chiền trong tục ngữ tiếng Hàn

stt Từ Số từ Ví dụ

1 chùa 30 tì E- 'SlSE. cả nhà, cả chùa đều không có

2 #^4 Phật đường 15 14) L-fl ồ} 1-14 cùng một Phật

đường còn từ đường anh từ đường tôi à

3 Haein tự 2 ÝỊX|- tíT-ồ] 14 cơm chùa Haein Hapcheon chắc.

4

điện Thập vương

1 °ĩ| sổng hay chết do Thập

vương điện quyêt định

Tổng 48 đơn vị

Trong ngữ liệu tiếng Hàn có 48 đơn vị chỉ chùa chiền, gian thờ Phật (chiếm 100% của cái gì?, nếu không có thông tin cụ thể thì bỏ

% này) với các từ khá đa dạng: chùa có 30 đơn vị (chiếm 62,5%). Phật đường có 15 đơn vị (chiếm 31,3%) gồm các từ Â]-r4 từ đường (8), Pháp đường (5), -ìĩ^ Phật đường (2). Xuất hiện địa danh là chùa Haein với 2

đơn vị (chiếm 4,2%) và điện Thập vương có 1 đơn vị (chiếm 2,1%).

Ngữ liệu tiếng Việt có từ chùa xuất hiện với số lượng khá lớn với 56 đơn vị, các dạng thức thờ tự không đa dạng như tiếng Hàn, chủ yếu là hai hình thái chùa, chùa làng:

Làm quan ăn lộc vua, ở chùa ăn lộc Phật, Đất vua chùa làng... Tuy nhiên, dạng thức

(8)

kêt hợp của chùa với các yêu tô ngôn ngữ khác lại khá đa dạng, ví dụ: Chùa nát còn có Bụt vàng... Đặc biệt, tên các ngôi chùa xuất hiện trong tục ngữ, ca dao khá nhiều, ví dụ:

Vắng như chùa Bà Đanh, Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ xương, Dù cho cha đảnh mẹ treo, em không bỏ hội chùa Keo hôm rằm...

Bên cạnh đó, kết quả thống kê các từ chỉ trang phục và vật dụng liên quan trong tiếng Hàn chỉ phát hiện 8 đơn vị, tràng hạt và áo mồi loại có 2 đơn vị (chiếm 25%), các từ chỉ

mũ của sư có 4 đơn vị (chiêm 50%), cụ thê như ở bảng 4.

Ngoài ra, trong ngữ liệu còn có một vài vật dụng xuất hiện trong các đơn vị với ý nghĩa châm biếm vẻ ngoài - đầu trọc của nhà sư như: ^-^1 lược của sư, ^-^1 'ch'T"

mũ của sư... Trong ngữ liệu tiếng Việt, nhóm từ này khá phong phú, thể hiện như bảng 5.

Có thể thấy, ngữ liệu tiếng Hàn không xuất hiện các từ mõ, chuông, oản, hương trong khi ngừ liệu tiếng Việt đa dạng hơn và có khoảng trống ở từ chỉ mũ, tràng hạt.

Bảng 4: Các từ ngữ liên quan đến trang phục và vật dụng trong tiếng Hàn

stt Từ Số từ Ví dụ

1 'ỊỂ 'V’ tràng hạt 2 O1ZSJZ JxLJ2.o]cJ- sừng bò cũng nhiều loại, tràng hạt cũng nhiều viên

2 mũ ni cô

mũ tăng

4 %Ị ir 11 13)0) H-J7 v)o)-i|i:|

sư kia khoe chạy giỏi nên bỏ cả mũ trùm đâu chạy

3 áo choàng

cà sa

2 -^o) n) VỊ- nếu ghét sư thì cũng ghét áo cà sa

Tổng 8 đon vị

Bảng 5: Các từ ngữ liên quan đến trang phục và vật dụng trong tiếng Việt

stt Từ Số từ Ví dụ

1 Cà sa 2 Đi với Bụt mặc ảo cà sa, đi với ma mặc ảo giây,

2 3 Chùa làng hai mõ, bốn chuông, có ba tượng Bụt, cổ ông Thân 3 Chuông 5 già

4 Oản 8 Oản chùa cúng Bụt, đất ruộng đắp bờ. Bụt nhiều oản ít 5 Hương 5 Hương Bụt thắp thờ Bụt

Tổng 23 đơn vị

4.2. Đặc điểm của chùa chiền và vật dụng của sư

4.2.1 Đặc đi êm của chùa chiên

Chùa chiền là nơi thờ phụng Thần Phật:

'a cb T^I P Phật nơi cửa chùa; là nơi tu

hành của sư:

tron thì phải đến chùa tìm chứ. Chùa là nơi vãn cảnh, thắp hương ngưỡng Phật của Phật tử, chúng sinh. Đen nơi thanh tịnh như chùa

chiền, con người phải nhập gia tùy tục: a °ĩ|

ir s. đến chùa

đôi khi cũng phải làm sư. Tuy nhiên, con người thường có ràng buộc, không dễ gì dứt bỏ để qui y: iMì 7lvl v|zi 'ỀỈãl đến chùa muổn thành sư, đến làng muốn là tục nhân.

Mồi ngôi chùa có đặc trưng khác nhau tùy vào đức độ của vị sư trụ trì: ir °cí a °1

(9)

O] cỊ- dạng thức của sư là dạng thức của chùa', ý nói nếu sư tốt thì chùa thanh tịnh, sư không tốt thì chùa hỗn loạn. Có những ngôi chùa sư không giữ giới nên thiếu

thanh tịnh: 444.

4*4! C °ì 4 fee} nếu tỉnh ý thì đến chùa cũng được ăn mắm tôm, > °11 7Ĩ 4ỉfee7 fefefe đến chùa tìm nước mắm... Chính vì thế, cần phân biệt để chọn chùa đến thắp hương, khấn Phật:

ifefen Pháp đirờng ỉ à hảo Pháp đường hay Phậtlinh nghiệm. Chùa chiền, đền thờ Phật cũng tượng trưng cho sức mạnh tinh thần. Tục ngữ Hàn có câu: Â}fe 41 -fe, 4 fe°ll fefe 4"fe như chuột sống trong đền, như cảo sổng trong thành: phê phán người dựa vào một thế lực mạnh để làm những việc sai trái, hành xử thiếu lễ nghi. Một chùa cũng không thể có hai trụ trì:

4^- 7T°I fefefe fefefefe ^rcel4 thượng tọa nhiều thì đến nồi cũng vỡ. Người Việt có câu: Một nước không có hai vua, một chùa không có hai sãi...

Đối với người Việt, chùa chiền vừa là nơi thờ phụng thiêng liêng: Ăn mày cửa Phật, vừa gân gũi: Đầu làng có một cây đa, cuối làng cây thị, đàng xa ngôi chùa... nên: Trẻ vui nhà, già vui chùa, Song ở nhà, già ở chùa. Hình ảnh chùa trong tục ngữ ca dao Việt cũng thân thiết như người thân vậy: Xa chùa trông vắng, gần chùa inh tai... Chùa cũng là nơi con người ẩn náu, tạm tránh cuộc đời ô trọc: Trốn chúa ở chùa, Trốn việc quan ra ở chùa...

4.2.2. Vật dụng liên quan đến Phật giảo Vật dụng liên quan đến Phật giáo, cụ thể là vật dụng của nhà sư, đồ đạc của nhà chùa... xuất hiện trong ngừ liệu không nhiều, có lẽ một phần do cuộc sống của nhà sư cũng tối giản. Trong tục ngữ tiếng Hàn xuất hiện các vật dụng sau đây: (1) áo choàng: 7)

ì} ^4fe4 44 feWi

nhà sư kia khoe chạy hỏi nên cởi áo choàng vắt lên lưng chạy; (2) áo cà sa: feồì nl 4*fe

ư} nếu ghét sư thì cũng ghét ảo cà

sa; (3) tràng hạt: ^fefe

fefe°|ẽ|- sừng bò cũng nhiều loại, tràng hạt cũng nhiều viên: thế gian muôn người muôn vẻ; (4) lò nấu bếp/lò sưởi: 41'ẵ’

fefefe' ^°1 4feôW fefe sư không niệm Phật được thì dot lò; (5) trống:

ãl Ẳ] > như đánh pháp cổ của sư (trống to dùng khi có lễ trọng); (6) mũ của sư: 7)

>51 sư kia khoe chạy giỏi nên bỏ cả mũ trùm đầu chạy...

Trong ngữ liệu tiếng Việt, các vật dụng của nhà sư chỉ có áo cà sa, mõ, chuông, trổng... Điểm đặc biệt so với ngữ liệu tiếng Hàn là có oảnhương - là hai vật phẩm thường dùng khi cúng/lễ Phật. Qua tục ngữ, ta có the thấy một phần nghi thức lễ Phật của người Việt cũng như đời sống xã hội thời đó.

Câu Bụt nhiều oản ít ý nói nhiều bàn thờ Phật nhưng số oản làm lại hơi ít. Ở sắc thái tiêu cực, nó có the được hiểu với ý nghĩa tương tự câu: Mật ít ruồi nhiều. Vì thế, để tránh việc người hưởng thụ tranh giành nhau hay phân chia thiếu công bằng thì cần chuẩn bị chu đáo: Đem Bụt mà đóng oản...

Đặc điểm của việc tu hành và kinh kệ, chùa chiền và các vật dụng liên quan giúp bức tranh về Phật giáo trong thành ngừ và tục ngữ thêm sinh động và đa diện. Có thể thấy những yểu tố mang đặc trưng của Phật giáo qua cách thức tu hành, đặc điểm của chùa chiền và trang phục, đo dùng của nhà sư, vật dụng của nhà chùa...

5. Kết luận

Phật giáo là một tôn giáo nhập thế, phần lớn Phật tử có thể không cần trải qua một nghi thức nào, không cần thường xuyên đến chùa lễ Phật mà có thể tu tại gia, tu tâm.

Cũng chính vì vậy, dù trong hàng ngàn năm

(10)

bị đàn áp dưới triều đại Choson, Phật giáo Hàn Quốc vẫn ăn sâu bén rễ và phục hồi phát triển mạnh mẽ như ngày nay. Nội dung giáo lí về nhân quả và luân hồi, triết lí vô thường, khổ đế và tù’ bi cũng như cách thức tu hành, hình ảnh chùa chiền... được phản ánh trong thành ngữ và tục ngữ cho chúng ta thấy một phần diện mạo của Phật giáo Hàn Quốc trong quá khứ. Cũng có thế thấy một phần nào đó giá trị giáo huấn, phê phán và phản ánh thời đại của kho tàng thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn và tiếng Việt. Bài viết này mới dừng lại ở bước đầu nghiên cứu một số yếu tố Phật giáo trong ngữ liệu giới hạn là thành ngữ, tục ngữ trong tiếng Hàn và tiếng Việt. Vì thế, để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu và khám phá những đặc trưng và những nét tương đồng về tín ngưỡng, tôn giáo của hai dân tộc Hàn - Việt, trong tương lai, cần có thêm những nghiên cứu sâu với phạm vi ngữ liệu rộng hơn về lĩnh vực này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ngô Xuân Bình, Phạm Hồng Thái (2007), Tôn giáo ở Hàn Quốc và Việt Nam: Nghiên cứu so sánh, Nxb Khoa học công nghệ Hà Nội, Hà Nội.

2. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, “Phật

giáo”, %

BA%ADt_gi%C3%Alo

https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1 3. Mai Ngọc Chừ (2018), “Vai trò và đặc điểm của các tôn giáo của Hàn Quốc”, Hội thảo quốc te KF 2016: Nghiên cứu, giảng dạy ngữ pháp tiếng Hàn và văn hỏa xã hội Hàn Quốc,

TP Hồ Chí Minh, 8/2018.

4. Vũ Dung, Vũ Thúy Anh, Vũ Quang Hào (1993), Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

5. Hoàng Văn Hành (2003), Thành ngữ học tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

6. Hòa thượng Thích Thiện Hoa, “Ngũ giới”

trong Phật học phổ thông, Thành hội Phật giáo TP Hồ Chí Minh ấn hành 1997,

. https://thuvienhoasen.org/a3541/05-ngu-gioi

7. Trần Thị Thu Lương (2016), Đặc trưng văn hóa Việt Nam - Hàn Quốc: tương đồng và khác biệt, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

8. Trần Thị Họa My (2018), “Phật giáo ở Thái Lan và ở Hàn Quốc (sự du nhập, vai trò và đặc điểm)”, Hội thảo quốc tế KF 2016: Nghiên cứu, giảng dạy ngữ pháp tiếng Hàn và văn hỏa xã hội Hàn Quốc, TP. Hồ Chí Minh, 8/2018.

9. Vũ Ngọc Phan (2008), Tục ngữ, ca dao, dãn ca Việt Nam, Nxb Văn học.

10. Q-°l (2010), á?#

tqs.

71V,

% %1- HL, (Na

Y (2010), Nghiên cứu so sánh tục ngữ về Phật giảo Hàn - Trung, Đại học Hoseo, Luận văn thạc sĩ).

11. °ẩ (2020),

%Ị ồ) 71 %-%-% 'Ểữ1, VI 71%'- %-%%

26

71

11, 147-164p (Park Hwan Young (2020), Nghiên cứu nhóm từ vựng Phật giáo trong tục ngừ từ góc độ của nhân chủng học ngôn ngữ, Journal of Buddhist Professors in Korea (JBPK), quyển 26, số 1, tr. 147-164).

12. ^%1%Ị (1986),

(Song Jae Seun (1986), Đại từ điển tục ngữ Ưrimal, Seomundang).

13. (1997), (Lee

Gi Moon (1997), Từ điển tục ngữ, Iljogak).

14. (1984),

Tỉề- 4^- 4#^

71V: <52- V %-%17M

711 (Choi Yu Meon

(1984), Nghiên cứu so sánh tục ngữ Nhật - Hàn:

trọng tâm là Phật giáo và tín ngưỡng truyền thống, Đại học Keimyung, Luận văn thạc sĩ).

Referensi

Dokumen terkait

Điều đó còn có nghĩa: Phật giáo cũng là nhu cầu tinh thần của chúng sinh, Phật giáo đã, đang và sẽ tiếp tục đồng hành cùng dân tộc, văn hóa đạo đức Phật giáo hàm chứa những giá trị văn

Ngựa “马“với nét nghĩa tiêu cực trong thành ngữ tiếng Hán và tiếng Việt Đối với người Trung Quốc và người Việt Nam, bên cạnh những nét nghĩa tích cực được thể hiện trong thành ngữ,

Các yếu tố liên quan đến giáo viên và phương pháp giảng dạy Các yếu tố liên quan đến giáo viên và phương pháp giảng dạy % Tôi thích phương pháp giảng dạy của giáo viên 2 Tôi

Qua đó cho thấy, các chúa Nguyễn đã rất quan tâm đến Phật giáo và coi tôn giáo này như một công cụ của chính quyền để mở rộng ảnh hưởng trong dân chúng, đồng thời cũng là phương tiện

Qua quá trình sưu tầm, tập hợp, nghiên cứu và so sánh đối chiếu các câu tục ngữ biểu thị sức khỏe trong tiếng Anh và tiếng Việt chúng tôi đã phát hiện ra rất nhiều điểm tương đồng và

Những sự kiện lịch sử trong sử thư như Sử ký, Hán thư, Tam Quốc chí, …; kinh truyện Nho giáo như Thi kinh, Luận ngữ, Mạnh Tử hay Cách ngôn của Lão tử, Trang Tử, Hàn Phi Tử, Liệt Tử,

Tính cách của người Thái Người Thái với các nét tính cách như tốt bụng, hay giúp đỡ người khác được phản ánh đậm nét trong các câu thành ngữ, tục ngữ.. Phần lớn các câu thành ngữ, tục

Lí giải mối quan hệ “phi lô gích” giữa lượng - chất Hiện tượng “phi lô gích” khi nói đến con người trong lao động sản xuất được thể hiện trong các câu tục ngữ sau: 1 Một người lo hơn