Tôi xin kể cho bạn nghe một mẫu chuyện lý thú:
- Một bậc thầy vĩ đại vào thế kỷ trước có một đệ tử rất ngu đần. Ông đã giảng dạy nhiều lần, cố khai thị cho y trực ngộ bản tâm, mà y vẫn không ngộ. Cuối cùng, bậc thầy nổi giận bảo, “Này, ngươi hãy mang bao lúa mạch này lên trên đỉnh núi xa kia, nhưng không được dừng lại nghỉ. Phải đi một mạch cho tới đỉnh núi”. Người đệ tử tuy ngu đần song có lòng sùng kính và hoàn tòan tin tưởng nơi thầy, nên đã làm y như lời thầy dạy. Bao lúa rất nặng, nhưng y vẫn mang lên giốc núi không dám dừng lại nghỉ. Y cứ đi mãi đi mãi, và cái bao mỗi lúc một năng thêm. Y phải mất một thời gian dài, và cuối cùng, khi lên tới đỉnh núi, y thả cái bao ngồi phịch xuống đất, kiệt sức vì mệt nhọc nhưng bắt đầu thư giãn, nhẹ nhàng. Y cảm thấy gió núi mát lạnh trên mặt. Tất cả sự trơ lì đối với giác ngộ nơi y bỗng tan biến, cùng với cái tâm thường ngày của y. Mọi sự dường như ngừng phắt lại. Ngay lúc ấy, y thình lình trực ngộ bản tâm. Y nghĩ, “Ồ, thì ra đây là cái mà thầy đã chỉ cho ta bấy lâu nay”. Y chạy xuống núi trở về, và trái với mọi quy ước thường ngày y đâm sầm vào phòng thầy. “Con nghĩ rằng con đã được nó... Con thực sự đã được nó!” Vị thầy mỉm cười đầy cảm thông nhìn y mà nói: “Thế là con đã có một chuyến leo núi thú vị đấy chứ?”
Ngay cả bạn, bất kể bạn là ai, cũng có thể có cái kinh nghiệm mà người môn đệ kia đã gặp trên đỉnh núi, và chính cái kinh nghiệm ấy sẽ đem lại cho bạn đức tính vô úy để điều đình với sống chết. Nhưng gì là cách tốt nhất, nhanh nhất, và hiệu nghiệm nhất để khởi hành đi tìm nó? Bước đầu tiên là thực tập thiền định. Chính thiền định dần dần thanh lọc cái tâm thường ngày, lột mặt nạ nó, làm cho kiệt quệ những ảo tưởng và tập quán của nó, để chúng ta có thể, vào đúng thời tiết, trực nhận ra ta là ai.
---o0o---
thượng của đời người. Vào giờ phút thiêng liêng ấy, trái đất cũng phải rùng mình như thể “say sưa trong niềm phúc lạc”, và kinh điển đã ghi rằng
“Không ai trong giờ phút ấy, ở bất cứ đâu, nổi giận, hay ốm đau, buồn khổ, không ai làm ác, không ai kiêu căng ngã mạn; thế giới trở nên hoàn toàn thanh tịnh, dường như thể vừa đạt tới sự toàn thiện.” Con người ấy được biết dưới danh hiệu là Đức Phật. Thầy Nhất Hạnh đã mô tả sự giác ngộ của Phật bằng những lời đẹp đẽ như sau:
- Gautama cảm thấy như thể là cái ngục tù giam giữ mình cả ngàn đời, vừa mới mở tung. Vô minh chính là người giữ ngục. Vì vô minh, tâm người đã bị che mờ, hệt như trăng sao bị mây che trong bầu trời giông bão. Bị vây bủa bởi nhiều làn sóng vọng tưởng bất tận, tâm ta đã cắt xén thực tại một cách sai lầm thành ra chủ thể và đối tượng, ta và người, hữu và phi hữu, sinh và tử, và do phân biệt khởi lên tà kiến – đó là những ngục tù của thọ, ái, thủ và hữu. Nỗi khổ sinh già bệnh chết chỉ làm cho tường vách nhà tù dày thêm. Điều duy nhất phải làm là tóm lấy kẻ giữ ngục mà nhìn vào mặt thật của y. Kẻ giữ ngục chính là vô minh... Khi kẻ giữ ngục đã bỏ đi, thì nhà tù sẽ tan biến và không bao giờ được xây trở lại.
Những gì Phật thấy là, sự không biết bản tâm chính là nguồn gốc của tất cả đau khổ trong sinh tử, và nguồn gốc của vô minh chính là khuynh hướng xao lãng của tâm ta, cái khuynh hướng đã thành thói quen khó gỡ. Chấm dứt cái tâm lơ đễnh ấy chính là chấm dứt sinh tử; và chìa khóa đưa đến sự chấm dứt là đưa tâm về nhà, trở về bản tính chân thực của nó, nhờ sự thực tập thiền định.
Đức Phật ngồi trên đất với cung cách khiêm hạ bình an, trên cao và quanh ngài là trời đất bao la, như thể chỉ cho ta rằng trong khi thiền định, bạn nên ngồi với một tâm thái rộng mở khoáng đạt như bầu trời, mà đồng thời vẫn hiện diện, có nền tảng vững vàng trên mặt đất. Bầu trời là bản tính tuyệt đối của chúng ta, vốn không có rào ngăn, không biên giới, còn mặt đất là thực tại của chúng ta, hoàn cảnh tương đối và thường nhật của ta. Dáng ngồi khi ta thiền định có nghĩa rằng ta đang nối cái tuyệt đối với tương đối, trời và đất, như đôi cánh của một con chim, thể nhập cái bản tâm bất tử như bầu trời, với cái bản chất phù du khả loại của ta như đất.
Năng khiếu tập thiền định là năng khiếu vĩ đại nhất mà bạn có thể tự đem lại cho mình trên cuộc đời này. Vì chỉ nhờ thiền định bạn mới có thể khởi hành cuộc hành trình đi tìm bản chất chân thực của bạn, và nhờ vây tìm
thấy niềm tin vững chải mà bạn cần, để sống tốt đẹp và chết tốt đẹp. Thiền định chính là con đường đưa đến tuệ giác.
---o0o--- LUYỆN TÂM
Có rất nhiều cách trình bày về thiền định, và có lẽ tôi đã giảng dạy cả ngàn lần về thiền, nhưng mỗi lần một khác, và mỗi lần nó đều trực tiếp và mới mẻ.
May thay ta sống trong một thời đại mà tất cả mọi người trên thế giới đều quen thuộc với thiền định. Càng ngày thiền càng được chấp nhận như một lối tập luyện, bỏ qua và vượt trên tất cả những hàng rào văn hóa và tín ngưỡng, giúp hành giả thiết lập một tiếp xúc thẳng với sự thật của bản thể họ. Đấy là một luyện tập vượt ngoài giáo điều của các tôn giáo, và là tinh túy của tôn giáo.
Thông thường chúng ta lãng phí đời mình, lạc ra ngoài cái ngã chân thực của ta, trong những hoạt động bất tận. Thiền trái lại, là phương pháp đưa ta trở về chính mình, ở đấy ta có thể thực sự chứng nghiệm và thưởng thức cái bản thể toàn vẹn của ta, vượt ngoài mọi mẫu mực thói quen. Những cuộc đời của chúng ta được sống trong đấu tranh căng thẳng và lo âu, trong sự quay cuồng của tốc độ và bạo động, trong cạnh tranh, bám víu, chiếm hữu, thành công, ta mãi mãi chất đầy những hoạt động và bận rộn thuộc ngoại vi. Thiền chính là cái ngược lại. Thiền định là làm một cuộc tuyệt giao với cái cách ta hành động “bình thường,” vì đấy là trạng thái không lo lắng không bận tâm, không có cạnh tranh, không có ham muốn sở hữu hay níu kéo một thứ gì, không có sự phấn đấu quyết liệt đầy âu lo, và không có sự khao khát đạt thành: Một trạng thái không có tham vọng không có lấy hay bỏ, không hy vọng cũng không sợ hãi, một trạng thái trong đó ta dần khởi sự buông bỏ mọi cảm xúc và khái niệm đã giam hãm ta để tung cánh vào bầu không gian của tính tự nhiên đơn giản.
Những bậc thầy về thiền định trong Phật giáo biết rõ tính dẻo dai, dễ sử dụng của tâm là như thế nào. Nếu ta luyện được nó, thì không có gì là bất khả. Quả thực ta đã được huấn luyện một cách thuần thục bởi sinh tử và cho sinh tử, được luyện để nổi ghen tuông, được luyện để bám víu chấp thủ, được luyện để lo âu, phiền muộn, thất vọng, thèm khát; được luyện để phản ứng một cách tức giận đối với bất cứ gì khiêu khích chúng ta. Thực vậy, chúng ta được luyện thuần thục tới mức độ mà những cảm xúc tiêu cực ấy
khởi lên một cách tự nhiên, chúng ta không cần cố gắng làm cho chúng phát sinh ra. Bởi thế, mọi sự đều là vấn đề huấn luyện, và năng lực của thói quen.
Nếu tâm chuyên chú vào sự nghiệp vô minh thì ta sẽ thấy nó trở thành một chúa tể của vô minh, chuyên viên nghiện ngập, tinh vi và mềm dẻo trong thói nô lệ của nó. Nếu tâm chuyên chú vào thiền định, vào sự nghiệp tự giải thoát ra khỏi ảo tưởng, thì ta sẽ thấy với thời gian, kiên nhẫn, kỷ luật, và luyện đúng – tâm ra khởi sự mở gút và biết được niềm phúc lạc và trong sáng nguyên ủy của nó.
“Luyện” tâm tuyệt nhiên không có nghĩa là gượng ép ức chế nó, hay tẩy não cái tâm. Luyện tâm là trước hết thấy được một cách trực tiếp và cụ thể, tâm thực sự vận hành như thế nào, một hiểu biết mà ta có thể rút từ những giáo lý tâm linh và qua kinh nghiệm của mình trong sự thực hành thiền định.
Rồi bạn có thể dùng sự hiểu biết ấy để thuần hóa cái tâm và làm việc với nó một cách khéo léo, làm cho nó càng ngày nhu nhuyến, để bạn có thể trở thành chủ nhân của chính tâm mình và sử dụng nó cho cứu cánh viên mãn và lợi lạc nhất.
Bậc thầy Shantideva vào thế kỷ thứ tám có nói:
- Nếu buộc chặt con voi tâm bằng sợi dây chánh niệm Thì mọi sợ hãi tan biến, hạnh phúc toàn vẹn đến với ta Tất cả kẻ thù: cọp, sư tử,, voi, gấu, rắn những cảm xúc;
Tất cả ngục tốt ở địa ngục; ngạ quỷ, những sự khủng khiếp Tất cả thứ ấy đều bị trói nhờ bạn đã làm chủ được tâm.
Hàng phục một tâm ấy, thì mọi sự đều được hàng phục.
Vì do tâm mà có ra mọi sợ hãi và vô lượng khổ đau.
Cũng như một văn sĩ sau nhiều năm dày công học hỏi mới có được cách diễn đạt tự nhiên, hoặc như một vũ công chỉ thành đạt nhờ nỗ lực lớn và kiên nhẫn, cũng thế khi bạn bắt đầu hiểu được thiền định sẽ đưa bạn tới đâu, thì bạn sẽ xem nó như sự nghiệp lớn nhất của đời mình, và nó đòi hỏi ở bạn một sự kiên trì sâu xa, lòng hăng hái, trí thông minh, và kỷ luật.
---o0o---
TRỌNG TÂM CỦA THIỀN ĐỊNH
Mục đích thiền định là để làm thức dậy trong ta cái tự tính của tâm giống như bầu trời ấy, và để cho ta thấy bản lai diện mục của ta, tính giác không thay đổi nơi ta, cái nằm đằng sau toàn thể sự sống và chết.
Trong cái yên lặng và im lặng của thiền, ta thoáng thấy và quay về với sự tự tính sâu xa ấy, cái mà từ quá lâu ta đã không thấy được giữa những bận rộn và xao lãng của tâm. Có phải lạ lùng, là tâm ta không thể ở yên lâu hơn chốc lát mà không theo đuổi bám víu một lối xao lãng nào đó; nó bất an, rộn ràng tới nỗi lắm lúc tôi nghĩ rằng, sống trong một đô thị tân tiến, là ta đã giống như những linh hồn bị dày vò trong trạng thái trung gian sau khi chết, lúc mà tâm (theo Tử thư) được mô tả là vô cùng xao xuyến. Theo tài liệu đáng tin, thì hết mười ba phần trăm người ở Mỹ mắc phải chứng rối loạn thần kinh. Điều ấy nói gì về cách sống của chúng ta?
Chúng ta bị phân đoạn thành quá nhiều phương diện khác nhau. Chúng ta không biết mình thực sự là ai, hay ta nên đồng hóa mình với phương diện nào, nên tin tưởng cái gì. Quá nhiều tiếng nói mâu thuẫn, nhiều mệnh lệnh và cảm thức khác nhau giành giựt quyền kiểm soát đời sống nội tâm ta, đến nỗi ta tự thấy mình rã rời ra từng mảnh ở khắp mọi nơi, mọi hướng, không còn ai ở nhà.
Thiền định, như vậy, chính là đem tâm trở về nhà.
Trong giáo lý Phật, chúng ta nói có ba việc làm nên sự khác nhau sự tu thiền của bạn, hoặc để đem lại thoải mái bình an tạm thời, hoặc để đưa đến tự giác giác tha. Ba việc đó gọi là “tốt ở chặng đầu, chặng giữa và chặng cuối.”
Tốt ở chặng đầu bắt nguồn từ cái ý thức rằng chúng ta và mọi hữu tình tự căn để, đều có Phật tính, tinh chất sâu xa nhất của ta, và trực ngộ được nó thì thoát khỏi vô minh và chấm dứt vĩnh viễn mọi đau khổ. Bởi vậy mỗi lần khởi sự tập thiền định, chúng ta được điều động bởi cái ý thức ấy, và phát tâm cống hiến sự tập thiền của mình và cả cuộc đời mình cho việc giác ngộ tất cả chúng sinh, trong tinh thần lời nguyện sau đây, mà chư Phật trong quá khứ đã từng phát ra:
Nhờ năng lực và chân lý của tập luyện này,
Mong tất cả hữu tình được hạnh phúc, và nhân của hạnh phúc;
Mong tất cả đều thoát khổ đau, và nhân của khổ đau;
Mong tất cả không rời hạnh phúc tối thượng, không sầu;
Mong tất cả sống hỉ xả không thương ghét Và sống tin ở bình đẳng của mọi loài.
Tốt ở chặng giữa là tâm thái khi ta đi vào trọng tâm của luyện tập, mong thực chứng bản tâm, từ đấy khởi lên sự không chấp thủ, thoát khỏi mọi khái niệm phân biệt, và một tỉnh thức để thấy mọi sự tự nó trống rỗng không thực chất, như huyễn, như mộng.
Tốt ở chặng cuối là cách ta kết thúc thời thiền tập bằng sự hồi hướng tất cả công đức, với lời cầu nguyện thành thiết như sau:
- Mong rằng, bất cứ công đức gì có được do thời thiền tập này, đều hướng về sự giác ngộ tất cả hữu tình; mong rằng nó trở thành một giọt nước trong biển công hạnh của chư Phật đang làm việc không biết mệt để giải thoát tất cả chúng sinh.
Công đức là công năng tích cực và lợi lạc, niềm bình an hạnh phúc mà sự tu tập thiền định của bạn tỏa chiếu ra. Bạn cống hiến công đức ấy cho sự an lạc lâu dài của hữu tình, cho sự giác ngộ của chúng. Gần hơn, thì bạn hồi hướng cầu nguyện cho hòa bình thế giới, cho mọi người thoát khỏi thiếu thốn bệnh tật, được sức khỏe và hạnh phúc lâu bền. Rồi, khi nhận thức bản chất mộng huyễn của thực tại, bạn tư duy rằng, trong ý nghĩa sâu kín nhất, thì bạn, người hồi hướng, những chúng sinh mà bạn cống hiến công đức, và chính cái hành vi hồi hướng, cả ba thứ đều trống rỗng, huyễn hóa. Điều này được nói trong giáo lý là để “niêm phong” thời thiền định, bảo đảm sao cho không một giọt nào của công năng thuần tịnh của nó bị rò rỉ, và để chắc chắn không một chút công đức nào của sự thực hành là bị lãng phí.
Những nguyên tắc thiêng liêng này – cách khởi tâm thiện xảo, thái độ không chấp thủ, và sự hồi hướng sau cùng để niêm phong, là những gì làm cho việc thiền tập của bạn thực sự có năng lực, đem lại giác ngộ. Ba nguyên lý này đượcLongchenpa bậc thầy Tây Tạng mô tả là “trái tim, con mắt và sức sống của sự thực hành chân chính.” Như Nyoshul Khenpo nói:
- Muốn đạt toàn giác, nhiều hơn thế thì dư, mà ít hơn thì thiếu.
---o0o---
LUYỆN TẬP CHÁNH NIỆM
Thiền định là đưa tâm về nhà, và việc này trước hết được hoàn tất nhờ luyện tập chánh niệm.
Một lần có một thiếu phụ đến hỏi Bụt làm cách thế nào để thiền. Bụt bảo nàng hãy ý thức từng động tác của đôi tay khi nàng kéo nước giếng, vì ngài biết như vậy nàng sẽ tự thấy mình ở trong tâm trạng an bình, khoáng đạt và bén nhạy, mà chính là thiền định.
Sự thực tập chánh niệm, đưa cái tâm phân tán trở về nhà và do đó tập trung ý thức vào những khía cạnh khác nhau của con người chúng ta - được gọi là “Tịnh trú” hay “An trú,” thành tựu được ba việc. Trước hết, mọi mảnh vụn của con người ta - thường mâu thuẫn chống chọi nhau – bây giờ ổn định, tan hòa và trở thành bạn. Trong sự ổn định ấy ta bắt đầu hiểu mình hơn, và đôi khi còn thoáng thấy được tia sáng tự tính bản nhiên của ta. Thứ hai là, luyện tập thiền định làm tiêu tan tính tiêu cực, bạo hành nơi ta, những cảm xúc hỗn độn đã chứa nhóm nhiều đời. Thay vì đàn áp chúng hay bị lôi cuốn theo chúng, ở đây điều quan trọng là ngắm nhìn chúng và bất cứ gì khởi lên trong tâm, với sự chấp nhận và bao dung, càng cởi mở càng tốt.
Những bậc thầy Tây Tạng thường bảo rằng tính độ lượng sáng suốt ấy giống như không gian vô biên, thân thiết và dễ chịu, làm bạn cảm thấy như thể được bao phủ, được che chở trong một cái mền bằng ánh sáng.
Dần dần, khi bạn vẫn ở trong trạng thái cởi mở, tỉnh giác ấy, và dùng một trong những phương pháp sẽ nói sau, để làm cho tâm càng lúc càng tập trung hơn, tính tiêu cực nơi bạn càng ngày càng tan loãng ra; bạn khởi sự cảm thấy thoải mái trong toàn diện bản thể bạn, hay như ngưòi Pháp nói, être bien dans sa peau. Từ đấy phát sinh sự buông xả và một niềm an lạc sâu xa. Theo tôi thì sự tập luyện này là cách tốt nhất để chữa trị thân bệnh và tâm bệnh nơi bạn.
Thứ ba, sự tập luyên này vén màn, làm hiển lộ Thiện tâm căn bản của bạn, vì nó làm tan biến thói hung ác hay tác hại ở trong bạn. Chỉ khi trừ khử được thói ấy ta mới thực sự hữu ích cho người khác. Vậy thì nhờ tập luyện, trừ khử dần thói ác tác hại khỏi tâm ta, mà ta có thể để cho Thiện tâm chân thực của ta – lòng tử tế, từ bi tự nhiên nơi ta - chiếu sáng, và trở thành bầu khí hậu cho bản thể đích thực của ta phát triển.
Bây giờ bạn thấy tại sao tôi gọi thiền định là sự thực hành chân thực để đi đến hòa bình, đi đến sự không gây hấn, đi đến sự bất bạo động. Ðấy là sự giải trừ vũ khí chân thực và quan trọng nhất.
---o0o---
SỰ BÌNH AN TỰ NHIÊN