tiền.
4. Nó quá kỳ tuyệt ta không dung chứa nổi. Nội một tính chất bao la của nó cũng quá lớn rộng không lọt được vào lối suy nghĩ hẹp hòi của tâm ta. Ta không thể tin nổi, cũng không thể tưởng tượng nổi rằng giác ngộ lại là bản chất thực sự của tâm chúng ta.
Nếu sự phân tích trên đây về bốn lỗi đã đúng trong nền văn minh Tây Tạng, một nền văn minh hầu như dành trọn cho sự nghiệp giác ngộ, thì nó lại càng đúng xiết bao ở trong nền văn minh tân tiến hiện nay, một nền văn minh dành phần lớn cho sự nghiệp tôn thờ ảo tưởng. Không bao giờ ở tây phương có một thông tin tổng quát nào về bản chất của tâm. Văn sĩ và những nhà trí thức chưa từng đề cập tới nó; những triết gia hiện đại không bàn về nó một cách trực tiếp; đa số khoa học gia hoàn toàn phủ nhận sự hiện hữu của nó. Nó không có chỗ đứng trong văn hóa nhân gian: Không ai hát ca về nó; không ai nói về trong những vở kịch; nó không có trên truyền hình.
Chúng ta thực sự được giáo dục để tin rằng không gì có thực ngoài ra là những cái ta có thể nhận thức được bằng những giác quan thông thường của chúng ta.
Mặc dù sự chối bỏ toàn diện ấy về hiện hữu của tự tính tâm, chúng ta vẫn thỉnh thoảng thoáng thấy được nó. Những “thoáng thấy” ấy được cảm hứng bởi một khúc nhạc hay, bởi thiên nhiên, hoặc bởi một sự cố nhỏ nhặt thường ngày. Chúng có thể phát sinh khi ngắm tuyết rơi, hay nhìn mặt trời lên sau dãy núi, hay ngắm một tia nắng rơi vào phòng. Những giây phút của sự thắp sáng, của bình an và hạnh phúc.
Mặc dù sự chối bỏ toàn diện ấy về hiện hữu của tự tính tâm, chúng ta vẫn thỉnh thoảng thoáng thấy được nó. Những “thoáng thấy” ấy được cảm hứng bởi một khúc nhạc hay, bởi thiên nhiên, hoặc bởi một sự cố nhỏ nhặt thường ngày. Chúng có thể phát sinh khi ngắm tuyết rơi, hay nhìn mặt trời lên sau dãy núi, hay ngắm một tia nắng rơi vào phòng. Những giây phút của sự thắp sáng, của bình an và hạnh phúc ấy vẫn thường xảy đến với tất cả chúng ta và một cách lạ lùng, nó ở lại với chúng ta.
Tôi nghĩ rằng chúng ta đôi khi cũng hiểu được lờ mờ những cái thoáng thấy ấy, nhưng nền văn hóa ngày nay không cung cấp cho ta một bối cảnh nào để có thể hiểu được chúng. Tệ hơn nữa là, thiên hạ đã không khuyến khích chúng ta nên thám hiểm những cái thấy ấy và đào sâu xem nó từ đâu tới, mà lại còn bảo ta, bằng cách vừa tinh vi vừa lộ liễu, phải gạt nó ra ngoài.
Không ai sẽ nghe ta một cách nghiêm túc nếu ta cố san sẻ kinh nghiệm ấy với họ. Bởi thế ta thường tảng lờ những gì có thể thực sự là kinh nghiệm
mặc khải nhất trong đời ta, nếu ta hiểu được chúng. Đấy có lẽ là khía cạnh đen tối đáng buồn nhất của văn minh hiện đại; Vô minh và áp chế đối với sự thật là ai.
---o0o---
NHÌN VÀO TRONG
Giả sử bây giờ ta làm một cuộc thay đổi, ta không nhìn vào một hướng duy nhất như trước nữa. Ta được dạy phải dành suốt đời để theo đuổi những tư tưởng và dự phóng của ta. Ngay cả khi nói về “tâm,” thì ta cũng chỉ nói tới những ý tưởng và cảm xúc của nó; và khi những nhà nghiên cứu khảo sát cái mà họ tưởng là tâm, thì họ cũng chỉ nhìn thấy những phóng ảnh của nó.
Chưa từng có ai thực sự nhìn vào chính cái tâm, nền tảng từ đó tất cả những tư tưởng ngôn từ khởi lên, và điều này có những hậu quả bi thảm.
Như Padmasambhava nói:
- Ngay cả khi cái thường gọi là “tâm” được nhiều người bàn tới, Nó vẫn không được hiểu thấu, hoặc hiểu sai lạc, một chiều.
Vì tâm không được hiểu đúng như nó là, trong bản chất nó, Cho nên có nhiều tư tưởng triết học và lý thuyết ra đời.
Lại vì người, thường không hiểu được tâm.
Nên họ không nhận ra bản lai diện mục họ
Và tiếp tục lang thang trong sáu nẻo luân hồi và ba cõi hữu mà kinh quá khổ đau.
Bởi thế không hiểu được bản tâm của bạn là một lỗi rất đáng buồn.
Làm sao chúng ta có thể lật ngược tình huống? Rất giản dị. Tâm ta chỉ có hai vị trí: Nhìn ra và nhìn vào.
Nay ta hãy nhìn vào.
Điều khác biệt mà việc chuyển hướng nhìn ấy đem đến lại có thể rất lớn lao, có thể lật lại những tai ách đang đè nặng thế giới. Khi có một số lớn người biết được bản tâm của họ, họ cũng sẽ biết được bản chất đầy quang vinh của cái thế giới trong đó họ sống, và phấn đấu một cách dũng cảm cấp thiết để bảo trì nó. Một điều thú vị là tiếng Tây Tạng gọi Phật tử là nangpa là “người ở trong”, nghĩa là người không tìm kiếm chân lý ở bên ngoài mà tìm trong bản chất của tâm. Mọi giáo lý và thực tập trong Phật giáo
đều dẫn đến một điểm duy nhất là nhìn vào tự tính của tâm, và nhờ vậy giải thoát ta khỏi nỗi sợ chết và giúp ta nhận chân được sự thật của cuộc đời.
Việc nhìn vào trong (nội quán) đòi hỏi ta phải có sự tế nhị sâu sắc và đức can đảm lớn lao - một thay đổi tận gốc trong thái độ của ta đối với cuộc đời và tâm thức. Chúng ta đã quá ghiền nhìn ra ngoài đến nỗi ta hầu như hoàn tòan mất liên lạc với bản thể sâu xa của ta. Chúng ta sợ phải nhìn vào trong, vì nền văn hóa chúng ta không cho ta biết một tí gì về những cái ta sẽ tìm gặp. Chúng ta lại còn nghĩ rằng nếu nhìn vào trong, ta sẽ có nguy cơ bị điên loạn. Điều này là một trong những mánh khóe cuối cùng, hiệu lực nhất của bản ngã để ngăn cản ta khám phá bản chất chân thực của mình.
Chúng ta đã làm cho đời sống trở nên cuồng nhiệt tới nỗi ta trừ khử mọi lăm le muốn nhìn vào trong. Cả đến ý nghĩ “ngồi thiền” cũng làm cho người ta sợ hãi. Khi nghe nói đến “Không” hay “vô ngã”, họ tưởng là mình phải trải qua những trạng thái như bị ném ra khỏi con tàu vũ trụ để chơi vơi giữa khoảng không lạnh lẽo âm u. Thực không gì sai lạc sự thật hơn thế. Nhưng trong một thế giới dành trọn cho cuộc giải trí, thì sự im lặng và yên lặng làm cho ta sợ hãi; ta tự bảo về để tránh né chúng bằng sự huyên náo và những công việc rộn ràng. Nhìn vào bản chất của tâm ta là chuyện chót bẹt mà ta dám làm.
Đôi khi tôi nghĩ rằng chúng ta không muốn đặt câu hỏi nghiêm túc nào về ta là ai, vì sợ sẽ khám phá có một thực tại khác hơn sự thực, hiện tại này.
Sự khám phá ấy sẽ làm gì với cái kiểu sống của ta bấy lâu nay? Bạn bè, đồng nghiệp của ta sẽ phản ứng ra sao trước cái điều mà bây giờ ta mới biết?
Kèm theo hiểu biết là trách nhiệm. Có đôi khi kẻ tù nhân chọn lựa ở lại, ngay cả khi cánh cửa ngục tù đã được mở tung.
---o0o---
NHỮNG HỨA HẸN CỦA GIÁC NGỘ
Trong thế giới hiện nay, ít có những mẫu người thể hiện được những đức tính do sự trực ngộ bản tâm đem lại. Bởi thế thực khó cho chúng ta tưởng tượng được giác ngộ ra sao, nhận thức của một người đã giác ngộ là thế nào, huống hồ tin nổi rằng chính mình cũng có thể giác ngộ.
Mặc dù luôn luôn đề cao giá trị đời sống và tự do cá nhân, xã hội chúng ta kỳ thực xem chúng ta như những kẻ luôn bị ám ảnh bởi quyền lực, tiền và dục tính, và bất cứ lúc nào cũng cần phải lôi kéo chú ý của ta ra khỏi
sự chết chóc, hay sự sống chân thực. Nếu có ai bảo cho ta biết, hay nếu ta bắt đầu “đánh hơi” được tiềm năng sâu xa của mình, thì ta không thể nào tin nổi chuyện ấy; và khi ta động nghĩ tới việc làm một cuộc chuyển hóa tâm linh, ta lại thấy rằng chỉ có những bậc thánh hiền trong quá khứ mới làm nổi điều ầy. Đức Dalai Lama thường nói đến sự thiếu niềm tự tôn trọng, tự thương lấy mình nơi nhiều người trong thế giới hiện nay. Bên dưới toàn bộ nhân sinh quan của ta là một sự cả quyết – có tính cách thần kinh loạn - về những giới hạn của chúng ta. Điều ấy làm cho ta mất hết hy vọng thức tỉnh, và ngược lại với chân lý trọng tâm của lời Phật dạy, đó là, tự cốt tủy, chúng ta vốn toàn thiện.
Ngay cả khi có thể nghĩ đến chuyện đạt giác ngộ, thì chỉ cần nhìn vào những gì làm nên cái tâm thường ngày của ta - giận dữ, tham lam, ganh tị, ác ý, bạo tàn, nhục dục, sợ hãi, lo lắng, giao động – cũng đủ làm cho ta không còn hy vọng gì đạt giác ngộ, nếu ta không được bảo cho biết rõ về tự tính thanh tịnh của tâm, và về khả năng ta chắc chắn có thể thực chứng được tự tính ấy.
Nhưng sự giác ngộ vốn thực có, và có nhiều bậc thầy đã giác ngộ hiện còn sống trên trái đất. Khi bạn gặp được một vị như vậy, bạn sẽ xúc động tận tâm can và sẽ thấy rằng mọi danh từ, như “giác ngộ” và “trí tuệ”, mà lâu nay bạn tưởng chỉ là những ý niệm, thì ra là có thực. Mặc dù đầy những nguy hiểm, thế giới nay vẫn là một cõi thật hấp dẫn. Tâm thức tây phương đang dần mở ra trước những tri kiến khác nhau về thực tại. Những bậc thầy vĩ đại như đức Dalai Lamavà Mẹ Teressa có thể được trông thấy trên màn ảnh truyền hình; nhiều bậc thầy đông phương đang viếng thăm và giảng dạy giáo lý ở Tây phương; và những sách vở từ mọi truyền thống huyền học đang càng ngày càng có nhiều độc giả. Tình trạng tuyệt vọng của hành tinh này đang dần dần đánh thức mọi người tỉnh dậy để thấy sự cấp thiết phải thay đổi trên một phạm vi rộng lớn có tính cách toàn cầu.
Sự giác ngộ, như tôi đã nói, là có thực, và bất cứ ai trong mỗi chúng ta cũng có thể, nếu được huấn luyện đúng cách, và gặp đúng “thời tiết nhân duyên”, sẽ trực nhận được tự tính tâm và nhờ thế biết được trong ta có cái bất tử và vĩnh viễn thuần tịnh. Đấy là sự hứa hẹn trong mọi truyền thống huyền học của nhân loại, và nhiều ngàn người đã và đang thực chứng điều đó.
Điều kỳ diệu của sự hứa hẹn này là, nó không phải là một cái gì thần kỳ, xa lạ gì cả, nó không phải chỉ dành cho một số ít người xuất sắc được chọn
lọc, mà dành cho toàn thể loài người; và khi trực nhận được bản tâm, thì thấy như lời các thiền sư bảo, nó bình thường một cách kỳ lạ. Chân lý về tâm không phải là một cái gì rắc rối bí truyền, nó kỳ thực là lương tri sâu xa.
Khi ta trực ngộ bản tâm, thì những tầng lớp mê lầm rơi rụng. Thực sự không phải là bạn “thành” Phật, mà bạn chỉ có chấm dứt mê hoặc, hết bị ảo tưởng lừa dối. Và thành Phật không có nghĩa là thành một siêu nhân có nhiều quyền năng tâm linh, mà thành một con người đúng nghĩa.
Một trong những truyền thống lớn của Phật giáo Tây Tạng gọi bản chất của tâm là “trí tuệ của bình thường”. Tôi phải nhắc lại lời này nhiều lần mới được: Tự tính chân thực của chính ta, với bản tính của mọi sự vật không phải là một cái gì lạ lùng. Điều mỉa mai là, chính cái thế giới mà ta gọi là thường nhật ấy mới thực lạ lùng, một màn ảo hóa li kỳ tinh vi của cái thấy mê lầm trong sinh tử. Chính cái thấy “lạ lùng” ấy đã làm ta mù mắt đối với bản tính tự nhiên, “bình thường” của tâm. Hãy thử tưởng tượng những vị Phật đang nhìn xuống chúng ta: các ngài sẽ kinh ngạc đau buồn xiết bao để thấy sự khôn lanh chết người, và tính phức tạp trong cái vô minh của chúng ta.
Đôi khi, chính vì ta vẫn thường rắc rối một cách không cần thiết, mà khi được một bậc thầy khai thị bản tâm, ta không thể tin được rằng nó quá đơn giản như thế. Cái tâm thường ngày của ta bảo ta rằng không thể thế được, phải có cái gì khác hơn thế chứ. Chắc phải “huy hoàng” hơn, phải có nhiều hào quang xẹt xung quanh ta, có chư thiên với đầu tóc vàng óng bay lả tả từ trên trời sà xuống gặp ta mà loan tin “Thế là bạn đã được khai thị bản tâm rồi đấy”. Hoàn toàn không có cái màn ấy đâu.
Vì trong nền văn hóa chúng, ta, chúng ta đã quen đánh giá tri thức quá cao, nên ta cứ tưởng rằng muốn giác ngộ thì cần phải có một trí thông minh phi thường. Tây Tạng có một ngạn ngữ rằng: “Nếu bạn quá thông minh, bạn có thể hụt mất hoàn toàn cái cốt tủy.”
Patrul Rinpoche nói:
- Cái tâm duy lý có vẻ hay đấy, nhưng chính nó là hạt giống của mê lầm.
Con người có thể bị ám ảnh bởi chính những lý thuyết của mình và hụt mất cái cốt tủy trong mọi sự. Ở Tây Tạng chúng tôi thường nói: “Lý thuyết giống như những miếng vá trên chiếc áo, có ngày cũng phải cũ mòn.”
Tôi xin kể cho bạn nghe một mẫu chuyện lý thú:
- Một bậc thầy vĩ đại vào thế kỷ trước có một đệ tử rất ngu đần. Ông đã giảng dạy nhiều lần, cố khai thị cho y trực ngộ bản tâm, mà y vẫn không ngộ. Cuối cùng, bậc thầy nổi giận bảo, “Này, ngươi hãy mang bao lúa mạch này lên trên đỉnh núi xa kia, nhưng không được dừng lại nghỉ. Phải đi một mạch cho tới đỉnh núi”. Người đệ tử tuy ngu đần song có lòng sùng kính và hoàn tòan tin tưởng nơi thầy, nên đã làm y như lời thầy dạy. Bao lúa rất nặng, nhưng y vẫn mang lên giốc núi không dám dừng lại nghỉ. Y cứ đi mãi đi mãi, và cái bao mỗi lúc một năng thêm. Y phải mất một thời gian dài, và cuối cùng, khi lên tới đỉnh núi, y thả cái bao ngồi phịch xuống đất, kiệt sức vì mệt nhọc nhưng bắt đầu thư giãn, nhẹ nhàng. Y cảm thấy gió núi mát lạnh trên mặt. Tất cả sự trơ lì đối với giác ngộ nơi y bỗng tan biến, cùng với cái tâm thường ngày của y. Mọi sự dường như ngừng phắt lại. Ngay lúc ấy, y thình lình trực ngộ bản tâm. Y nghĩ, “Ồ, thì ra đây là cái mà thầy đã chỉ cho ta bấy lâu nay”. Y chạy xuống núi trở về, và trái với mọi quy ước thường ngày y đâm sầm vào phòng thầy. “Con nghĩ rằng con đã được nó... Con thực sự đã được nó!” Vị thầy mỉm cười đầy cảm thông nhìn y mà nói: “Thế là con đã có một chuyến leo núi thú vị đấy chứ?”
Ngay cả bạn, bất kể bạn là ai, cũng có thể có cái kinh nghiệm mà người môn đệ kia đã gặp trên đỉnh núi, và chính cái kinh nghiệm ấy sẽ đem lại cho bạn đức tính vô úy để điều đình với sống chết. Nhưng gì là cách tốt nhất, nhanh nhất, và hiệu nghiệm nhất để khởi hành đi tìm nó? Bước đầu tiên là thực tập thiền định. Chính thiền định dần dần thanh lọc cái tâm thường ngày, lột mặt nạ nó, làm cho kiệt quệ những ảo tưởng và tập quán của nó, để chúng ta có thể, vào đúng thời tiết, trực nhận ra ta là ai.
---o0o---