1.4 Mối quan hệ giữa chế tài phạt vi phạm và chế tài bồi thường thiệt hại
đồng phát sinh ngay cả trong trường hợp các bên không có thỏa thuận về vấn đề này, đồng thời cũng không có quy định nào giới hạn mức bồi thường thiệt hại mà chỉ hoàn toàn căn cứ vào thiệt hại thực tế phát sinh mà bên bị vi phạm chứng minh được.
Còn theo BLDS 2015, mối quan hệ giữa chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại được thể hiện thông qua quy định tại khoản 3 điều 418 mà theo đó:
“Các bên có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại.
Trường hợp các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm.”
Từ điều 360, điều 418 BLDS 2015 thì có thể thấy mối quan hệ giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại được chia làm 4 trường hợp và tùy vào từng trường hợp thỏa thuận mà có cách hành xử thích hợp:
- Nếu trong hợp đồng chỉ thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng thỏa thuận không phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm chỉ bị phạt vi phạm.
- Nếu trong hợp đồng chỉ thỏa thuận về bồi thường thiệt hại mà thỏa thuận phạt vi phạm thì bên vi phạm chỉ phải bồi thường thiệt hại.
- Nếu trong hợp đồng thỏa thuận cả phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm phải chịu phạt vi phạm và cả bồi thường thiệt hại.
- Nếu trong hợp đồng không có thỏa thuận gì về phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại thì khi có vi phạm xảy ra gây thiệt hại, bên vi phạm chỉ phải chịu bồi thường thiệt hại.
Có thể thấy quy định về việc áp dụng đồng thời phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại là có sự không đồng nhất với nhau trong hệ thống pháp luật thương mại Việt Nam. Nếu như trong LTM 2005, chế tài bồi thường thiệt hại
được áp dụng ngay cả khi không có thỏa thuận trong hợp đồng thì BLDS 2015 yêu cầu nếu trong hợp đồng không thỏa thuận về việc bồi thường thiệt hại mà có thỏa thuận về phạt vi phạm thì chỉ được áp dụng phạt vi phạm, còn nếu không có thỏa thuận về cả phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại thì chỉ bồi thường thiệt hại được áp dụng. Đây là sự khác nhau rõ nét trong quy định về phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại giữa LTM 2005 và BLDS 2015.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Khi một hợp đồng mua bán hàng hóa được xác lập và có hiệu lực pháp luật thì quyền và nghĩa vụ của các bên thỏa thuận trong hợp đồng luôn được nhà nước thừa nhận và bảo vệ, các bên có nghĩa vụ phải thực hiện các nghĩa vụ đã thỏa thuận. Việc vi phạm các nghĩa vụ theo hợp đồng mua bán (không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ) sẽ dẫn đến bên vi phạm phải chịu những chế tài do pháp luật quy định. Chế tài phạt vi phạm và chế tài bồi thường thiệt hại là hai chế tài được áp dụng thường xuyên khi có vi phạm hợp đồng xảy ra. Trong chương này, tác giả đã nêu lên những vấn đề lý luận cơ bản nhất về hợp đồng mua bán hàng hóa, vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa, chế tài phạt vi phạm và chế tài bồi thường thiệt hại khi vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa. Những vấn đề lý luận cơ bản trong chương 1 là cơ sở, tiền đề để luận văn tiếp tục nghiên cứu về thực trạng thực hiện pháp luật thương mại Việt Nam về chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hóa trong chương 2. Ngoài ra trong chương này còn lưu ý, khi áp dụng chế tài phạt vi phạm phải chú ý đến mối quan hệ của nó với chế tài bồi thường thiệt hại và ngược lại. Đặc biệt phải lưu ý rằng: chỉ khi có thỏa thuận trong hợp đồng, phạt vi phạm mới được áp dụng khi có vi phạm xảy ra. Bồi thường thiệt hại thì được áp dụng ngay khi có hành vi vi phạm và có thiệt hại thực tế xảy ra, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại mà không cần có thỏa thuận trong hợp đồng.
Chương 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM VỀ CHẾ TÀI PHẠT VI PHẠM VÀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
2.1 Thực trạng thực hiện pháp luật thương mại Việt Nam về chế tài phạt