Chương 3
MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP SỬA ĐỔI PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM VỀ CHẾ TÀI PHẠT VI PHẠM VÀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
3.1 Phương hướng sửa đổi pháp luật thương mại Việt Nam về chế tài
Quy định về "giới hạn trên" của mức phạt (8%) chưa hợp lý lắm vì nếu một bên thấy mức thiệt hại mà họ phải chịu nếu thực hiện đúng hợp đồng còn cao hơn mức thiệt hại do nộp phạt thì họ sẽ "cố ý" vi phạm. Mục đích "răn đe" do đó sẽ không thực hiện được. Hơn nữa quy định này cũng can thiệp vào quyền tự do thoả thuận của các bên. Vì vậy, mức phạt tối đa 8% trong Luật Thương mại 2005 là quá thấp. Do đó khi sửa đổi Luật Thương mại, các nhà làm luật nên bỏ mức trần 8% này mà thay vào đó mức trần cao hơn để tăng tính răn đe cho chế tài.
Việc qui định phạt vi phạm với mục đích răn đe cũng có thể gây ra những nguy cơ nhất định trong việc áp dụng. Ví dụ theo thông luật (common law) áp dụng tại các nước Anh, Mỹ, Úc... các bên chỉ được thoả thuận về bồi thường theo mức định trước, mọi thoả thuận về phạt vi phạm đều vô hiệu.
Như vậy một bản án của toà án hay phán quyết trọng tài chấp nhận hiệu lực của điều khoản phạt vi phạm trong hợp đồng thương mại có thể sẽ bị toà án tại các nước theo hệ thống thông luật từ chối công nhận và thi hành. Do đó, pháp luật cần có những sửa đổi cho phù hợp với quy định của pháp luật quốc tế và phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế hiện nay.
- Về chế tài bồi thường thiệt hại:
Theo khoản 2, Điều 302 LTM 2005: “ Bồi thường thiệt hại là việc bên bị vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm”. Bản chất của hình thức chế tài này khôi phục, bù đắp những lợi ích vật chất bị mất cho bên bị vi phạm. Với chức năng này, chế tài bồi thường thiệt hại chỉ được áp dụng khi hành vi vi phạm gây ra thiệt hại thực tế. Căn cứ để áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại là có hành vi vi phạm hợp đồng, có thiệt hại thực tế, hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại. Ba căn cứ này đã thể hiện rõ tại khoản 1 Điều 302 LTM 2005. Quy định tại điều 303 LTM 2005 lại nhắc lại ba căn cứ trên một lần nữa
là không cần thiết. Ngoài ra thì vấn đề lỗi của bên vi phạm cũng là một căn cứ rất quan trọng nhưng trong luật lại không đề cập đến.
Về nguyên tắc, một người chỉ phải chịu trách nhiệm pháp lý khi có hành vi vi phạm pháp luật và có lỗi khi vi phạm. Lỗi là trạng thái tâm lý và mức độ nhận thức của một người về hành vi của người đó và hậu quả của hành vi. Trong khoa học pháp lý, lỗi được phân thành nhiều loại như lỗi vô ý, lỗi cố ý... Vấn đề trạng thái tâm lý và nhận thức chỉ có thể đặt ra đối với một con người cụ thể. Trong khi đó, chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng kinh tế trước đây và hợp đồng mua bán hàng hóa hiện nay chủ yếu là các tổ chức kinh doanh. Việc xác định trạng thái tâm lý và mức độ nhận thức của các tổ chức không chính xác nên lỗi khi vi phạm hợp đồng là lỗi “suy đoán ”. Bên vi phạm hợp đồng bị coi là có lỗi nếu không chứng minh được là mình không có lỗi. Nếu bên vi phạm chứng minh được là mình không có lỗi sẽ được miễn trách nhiệm. Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989 và LTM 1997 đều có các quy định về các trường hợp miễn trách nhiệm đối với bên vi phạm khi họ không có lỗi. LTM 2005 lại không đề cập đến yếu tố lỗi là căn cứ để áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại. Bởi vậy, có ý kiến cho rằng, khi áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại trong thương mại không cần xem xét bên vi phạm có lỗi hay không. Trong một số điều khác của Luật Thương mại còn quy định về lỗi cố ý của bên vi phạm, như: Điều 238 quy định về giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistic và Điều 266 quy định về trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định. Nếu nhà làm luật cho rằng, đây là những trường hợp ngoại lệ thì cần phải lưu ý ngay trong quy định chung về các căn cứ áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại là trừ những trường hợp nào.
Điều 303 chỉ trừ những trường hợp quy định tại Điều 294 mà không đề cập đến Điều 238 và Điều 266. Việc quy định không khoa học và không thống nhất như vậy là nguyên nhân gây ra các cách hiểu khác nhau làm cho Luật
Thương mại không được áp dụng một cách thống nhất. Bởi vậy, những bất cập nêu trên cần phải lưu ý khi sửa đổi LTM 2005 để luật đi vào cuộc sống một cách hiệu quả nhất.
3.2 Giải pháp sửa đổi pháp luật thương mại Việt Nam về chế tài phạt vi