Áp dụng kỷ luật thị trường ngành ngân hàng
theo Basel II tại Pakistan và khuyến nghị cho Việt Nam
Trần Việt
DũngTrường
Bồi dưỡng cán bộ ngân hàng -
Ngânhàng Nhà nước
ViệtNam
PhanAnh,
NguyễnThị Lý
Học viện
Ngân
hàngHiệp ước Baseltạo ra một khuôn khổ pháp lý về an toàn vốn cũng như các quy định làmtăng tính công chaiminh bạch cho cácngânhàngtạicácquốc gia trên thế giới. Việc nhanh chóngtriển khai và hoàn tất các trụ cột của chuẩnmựcBaselkhôngchỉgiúp chínhcác ngân hàng tăng khảnăngchống đỡ trước những bấtổn của nền kinh tế mà còn thúc đẩyphát triển mộtthịtrườngtàichính minhbạch, hạnchếrủi rocho cácchủthểkinh tế. Với mục tiêu nghiên cứu việc áp dụng các trụ cột theo Hiệp ước Basel cho các ngành ngânhàng tại Pakistan, từ đó rút ra một số bài học hữu íchcho ViệtNam.
ở tr
1. Basel II với Kỷ luậtthị trường ngành ngân hàng
Kỷ luậtthị trường (KLTT) ngành ngân hàng được xem là hành động "trừng phạt” của những chủ thể khácnhau, bao gồm: ngườigửi tiền, người vay, cổ đông, trái chủ và cả chính các ngân hàng với nhau, đối với những hànhvi rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng thông quahai cơ chế:vềgiá(price mechanism] và về lượng (quantity mechanism].
Chính vì lẽ đó, vai tròcủa KLTT trong việc góp phần ổn địnhhệ thống ngân hàng nói riêngvà hệ thống tài chính nói chung đã được đề cập và thảo luận rất nhiềuqua các thập niêngầnđây.
Nỗ lực đầu tiên là việccác cơ quanquảnlý áp đặt yêu cầuvốn tối thiểu (đượcgọilàtrụ cột 1 quy định Hiệp ước Basel I) và thường được áp dụngdựa
■)n các tài sảncó rủi ro do ngân hàngnắmgiữ.Với sụ sáng tạokhánhanh chóng các sản phẩm tài chính đặ c biệt là chứng khoán hóa các tài sản (ví dụ sản plẩmphái sinh) đã cho phép các ngân hàng loại bỏ tài sảnrủirokhỏibảng cân đối kế toán và do đó, đáp ứng dễ dàng yêu cầu này. Để khắc phục điềunày,ủy bah Basel đã giới thiệu Hiệp định mới (BIS, 2001]
với đề xuất thêm hai trụ cột trong đó trụ cột 2 nêu bật yêu cầu cải tiến quy trình đánh giá giám sát và các biện phápcan thiệp kịp thờibên cạnh trụ cột 3 tập trung vào việc thực hiện KLTT nhằm khuyến khích các ngân hàng hoạtđộng an toàn. KLTT được xerti là tình huống mà những thành phần tham gia trường phải đối mặt với chi phíliên quan tích cựcđếnrủi ro ngân hàng (Yeyati và cộng sự, 2004).
Nói cách khác, KLTT là cơ chế cho phépcácchủ thể tham gia "trừng phạt” các hoạt động kinh doanh thị
mạo hiểm của ngân hàng thông qua cơ chế về giá (price mechanism) và cơ chế về lượng (quantity mechanism). Mục đích củaTrụ cột 3 — kỷ luật thị trườnglà bổ sung yêu cầu về vổn tốithiểu (Trụcột 1) và quy trình xem xét giám sát (Trụ cột 2). Mục tiêu của trụ cột này là nâng cao kỷ luật thị trường thôngqua việc công bố thông tincủa các ngânhàng.
Kỷ luậtthịtrường làsự thúcđẩy các ngân hàng,tổ chức tàichínhvà các doanh nghiệp lớnkhác dựa trên cơ sở thị trường về tính minh bạch và công khaicác rủi ro liên quan đến một doanh nghiệp hoặc tổ chức.
Nó hoạt động phối hợp với cáchệ thống quản lýđể tăng tínhantoànvà lành mạnh của thịtrường.Trong trường hợp không có sự can thiệp trực tiếp của chính phủ vào nền kinh tế thịtrường tự do, kỷ luật thị trường sẽ cungcấp cả cơ chế quản trị bên trong và bên ngoàivà trụ cột IIIlà mộtkhuônmẫu đê nhiều quốcgiahọc tập trong việcviệc xâydựngcácquy tắc chặt chẽ hơn chocác ngân hàng. Đặcbiệt, cácnước đangphát triển cũng đangtự nguyệnápdụng trụ cột II về minhbạchthông tin vàsử dụng trụ cột này như một thước đođể thúcđẩy việc xây dựng các quy tắc luật lệtốthơn đối với ngành ngânhàng. Từđó lĩnh vực ngân hàng có cơ sở để quản trị các rủi ro tài chính tốthơn và hoạt động ổn địnhhơn.
2. Thực trạng áp dụng kỷ luật thị trường ngành' ngân hang thèo Basel li tại Pakistan
Năm 1990, Chính phủPakistan bắt đầu cải cách hệ thống tài chính sau khi nhận thức được những thiếu sót bẩm sinh mà do phát triển hậu quốc gia hóa. Mục tiêucủa cải cách là thúc đẩysự cạnh tranh giữa các tổ chức bằng cách áp dụng hệ thống trao đổi tiềntệ giántiếp dựa trênthị trường vàquảnlý
Kinh tế Châu  - Thái Bình Dương (Tháng 5/ 2022)
25
NGHIÊN cứu
RESEARCH
tín dụng để có được tốt hơn nguồn lực tài chính đồng thời tăngcường quản trị và giám sát của họ.
Những cải cách này đòi hỏi cơ chế chính sách và khuônkhổkhuyếnkhích. Do đó, đã cósựđảongược hoàntoàn chếđộ chính sách tàichính của hệ thống tài chính trực tiếp đã phổ biến ở Pakistan trướcthời kỳ cải cách và phần lớn củađầu những năm 1990 chuyển sang cơchế chính sách dựatrênthị trường.
Giai đoạn thứba của quátrình cảicách liênquan đến việctư nhân hóa cáctổchức thuộc sở hữunhà nước ởcả hai thử nghiệm và hệthống tài chính cùng với sựcủng cố tổng thể củacác tổ chức này. Nhằm nâng cao mức độ cạnh tranh và hiệu quả trong ngành cũng như hệ thống tài chính thông qua việc bổ sung các lực lượng thị trường.Điều này cũng liên quan đến việc mở cửa các ngân hàng nước ngoài như một phần của quá trình tự do hóa, tạo ra sự cạnh tranh cho các ngân hàng địa phương. Cuối cùng, việc đổi mới hệ thống giám sátngân hàng là lĩnh vực trọng tâmcốt lõi của quá trình cải cách. Một sốbước đã được thực hiện để nângcao vai trò của cơ quan giám sát, Ngân hàng Nhà nước Pakistan (SBP). Mộtchìa khóa vai trò của cáccảicáchlà quản lý các khoản nợ xấu (NPL) gây khó khăn chobảng cân đối kế toáncủa hầu hết mọi ngân hàng vào thời điểm đó, cùngvới vấn đềcác ngân hàng hoạt động kém hiệu quả và các tổ chức tài chính phát triển (DFIs).Các quy định vềbảo hiểm đã được đưara để tấtcả các ngân hàngtuân thủ nghiêm ngặt. Hơnnữa, cơ quan giám sát đã được cải cách để tuân theo các chỉ thị của ủyban Basel và tuân thủ các tiêu chuẩn của Basel. Trước đây, do nhà nước sở hữu nên các vấn đề về khả năngthanh toán đã có nhưng không phải là vấnđề quá đáng longại. Tuy nhiên,sự thay đổitrongthựctiễn hoạt động diễn ra dựa trên việc tự do hóa lãi suất, xóa bỏ trầnđối với tiềngửivà lãi suất cho vay, xóa bỏ tín dụng được trợ cấp và định hướng, và dỡ bỏ các biện pháp kiểm soát chủ yếu đối với hoạt động cho vay ở cấp độ thể chế hoặc hoạt động kinh doanh của họ.
Ngân hàng Nhà nước Pakistan (SBP) đã đưa ra một lộ trìnhđể thực hiện Basel-Il, theo đó các ngân hàng đượcyêu cầu áp dụng phươngpháp tiếp cận rủi ro tín dụng và các chỉ số cơ bản/phương pháp tiếp cận chuẩn hóa cho rủi ro hoạt động từ ngày 1 tháng 1 năm 2008 và phương pháp tiếp cận dựa trên xếphạng nội bộ (IRB) từngày 1 tháng 1 nãm 2010. SBP đã bắt tay vào một chương trình chạy song song kéo dài một năm rưỡi cho Phương pháp tiếp cận tiêu chuẩn hóa và hai năm cho Phương pháp tiếp cận IRB bắt đầu từ ngày 1/7/2006 và ngày 1/1/2008 tương ứng. Các ngân hàng DFI, đã được yêu cầu xây dựngcác kế hoạch nộibộ của họ chỉ rõ cách tiếp cận mà họ sẵn sàng áp dụng và bảng thời gian để chuyển sangcách tiếp cận cụ thể. yêu
cầulàcáckế hoạch nêndự tínhthiết lậpquảnlýrủi ro, các phương pháp đánhgiárủi ro khác nhauđang đượcsửdụng để đánh giá các rủi ro khác nhau danh mục và chính sáchvà thủ tục phân bổ vốn. SBP đã hướng dẫncác ngân hàng DFI một giới hạn thời gian kế hoạch hành động phác thảo các hoạt động cần thiết phải thực hiện và thời giankhen thưởng trong khung thời gian triển khai tổng thể để có thế duytrì chặt chẽ triển khai Basel-II trong nước.
SBPđã cungcấp hướngdẫn về ICAAP (Kếhoạch đánh giámức độ phù hợp vốn nộibộ) để tạo điều kiện cho Trụcột II (Quytrình xem xét giám sát) việc thực hiện trong ngân hàng, về Trụ cột III (công bố thị trường) yêucầu công bố thôngtin của các ngân hàngthìthông qua cácbáocáo tàichính được công bố và các báo cáo quy định khác đã được mở rộng nhiều và dođó được củng cố trongnhững nămqua.
Tại Pakistan, công bố thông tin của các ngân hàng đang được thựchiện công bố trên báo cáo tàichính theo chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế IFRS nhằm tạo sự minh bạch, trung thực của các thông tin tài chính. Theo Pháp lệnh Công ty Pakistan (1984), ủy ban Chứng khoán và Giao dịch Pakistan thông báo cácchuẩn mực kế toánđược ápdụng bởi các tổ chức ởPakistan. Pakistan đã áp dụng hầu hết nhưng không phảitất cả các Chuẩn mực BáocáoTài chính Quốctế (IFRS) đểcác công ty niêm yết, ngân hàng và các tổ chức tàichính khác cũng như các Tổ chứcQuan trọngvềKinh tế(ESE)áp dụng bắt buộc, ngaycả khi chúngkhông được liệt kê. BPRDThông tư số 04/2019 về việc Thực hiện Chuẩn mực Báo cáo Tài chính Quốc tế 9 (IFRS 9). Theo đó, việc thực hiện IFRS9 có hiệu lựctừ ngày 1 tháng1 năm2021.
1FRS 9 đã đưa ra phương pháptiếp cận dự kiến về tổn thất tíndụng, mang lại nhữngthay đổi lớn trong cách các tổ chức tàichính (FIs) đánh giásự suy giảm của các công cụ tài chính, đólà lí do SBP đã khuyến cáo ngành ngân hàng thực hiện đánh giá tác động định lượng củaIFRS 9 đối với tài chính của họcùng với việc đánh giá mứcđộsẵnsàng thực hiện Chuẩn mực này. Trên BCTC theo chuẩn mực quốc tế, các nhà đầu tư sẽ nắm bắt đượccácyếutốvề thu nhập, đòn bẩy, giá trị sổ sách vốn chủ sở hữu ở cả các khoản mục trênbảngcân đối kế toán và đặc biệt ở thuyết minh báo cáo tài chính. Sovới cách tiếp cận tổn thất phát sinh của IAS 39, mô hình IFRS 9 ECL kết hợp các khoản trợ cấpsớm hơn, lớn hơnvà phù hợp hơn với tổnthất dự kiếntheo quy định.
Về quản lý vàbáo cáo rủi ro gian lận yêu cầu các ngân hàng sẽ báo cáo dữ liệugianlận của các công ty liên kết và liên doanh mà họ có tỷ lệ sở hữu cổ phần tối thiểu là 20%. về vấn đề này, định dạng báo cáohàng quý được đơngiản hóa để báo cáo dữ liệu gian lận của các công ty con/công ty liên kết/liên doanh. Trong trường hợp có vấn đề pháp lýtrong
Asia-PacificEconomicReview
2 6
Kinh tế Châu Ả - Thái Bình Dương (Tháng 5/2022)việc chia sẻ thông tin của các công ty con/công ty liên kết/liên doanh nước ngoài, SBP sẽ giải quyết các vấnđề đó tùy từng trườnghợp. Hơnnữa,nếu có các định dạngbáo cáo cụ thể do các cơ quan quản lý liên quan của các đơn vị đó quy định thì có thểsử dụng các định dạng báo cáo tương tự, nếu không phảituântheo các hướngdẫn củaSBP.
3. Một sô' khuyên nghị cho ViệtNam
Sau cải cách, giai đoạn hiện nay được coi là sự khởi đầu của một kỷ nguyênmới đốivới lĩnh vực tài chính củaPakistan.Tăngtrưởng trong tương lai của hệ thống tài chính, cũng như nền kinh tế của Pakistan, sẽphụ thuộc vào mức độ kiên quyết của các nhà hoạch định chính sách có thể duy trì tiến trình này, theo đó nêu rõ phản hồi chính sách và thực hiện thành công.
Thứnhất, đưa ra kế hoạch về lộ trình áp dụng và triểnkhaiBasel II cho các ngân hàng.
Lựa chọn một số ngân hàng có điều kiện, nền tảngtốt để áp dụng Basel II,từđó triểnkhaiđồng bộ các giải pháp, văn bản pháp lý hướng dẫn cho các ngân hàng này thực hiện với lộ trình phù hợp để hoàn thành việctriểnkhaiBaselII. Đối với các ngân hàng đãtriểnkhai thì tiếp tục đẩymạnhhoàn thành đặy đủ cả ba trụ cột và tiếp tục nghiên cứu khiển khai Basel III trong thời gian sắp tới.
Thứhai, nghiên cứu ápdụng chuẩn mựcbáo cáo tài chínhquốc tế(IFRS) tại Việt Nam
Ban hành mới và tổ chức thực hiện hệ thống chuẩn mực báo cáotài chínhViệt Nam (VFRS) theo nguyên tắc tiếp thu tối đa thông lệ quốctế,phùhợp với đặcthù của nền kinh tế Việt Nam vànhucầu của doanh nghiệp, đảm bảo tính khảthitrong quá trình thực hiện. Lộtrình áp dụngcó thể gồm 3 giai đoạn:
(i)Giai đoạn chuẩn bị (2022-2023): Xây dựng và ban hành Đề án áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính tạiViệt Nam. Thời gian thực hiện: Đến trước tháng 3/2020; ThànhlậpBan dịch thuậtvà soátxét, hoàn thành bản dịch IFRS sang tiếng Việt; Bộ Tài chính xây dựng, ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành văn bản quyphạm pháp luật phù hợp công bố bản dịch IFRS sang tiếng Việt; BộTài chính xây dựng, ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về cách thức áp dụng IFRS; Bổ sung, sửa đổi và ban hànhmới mộtsốcơchế tàichínhliên quan đến việc áp dụng IFRS.
(ii)Giaiđoạn áp dụng tự nguyện (2023-2025):
- Đối với báo cáo tài chính hợp nhất: Các doanh nghiệp sau có nhu cầu và đủ nguồn lực, thôngbáo cho Bộ Tài chính trước khi tự nguyệnáp dụng IFRS để lập báocáo tàichính hợp nhất.
- Đối với báo cáo tài chính riêng: Các doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư trựctiếp nước ngoài là công tycon của công tymẹ ở nước ngoài có nhu cầu và đủ nguồn lực,thông báo cho Bộ Tài chínhtrước khitự nguyện ápdụng1FRS để lập báocáotài chính riêng.
(iii)Giai đoạn bắt buộcáp dụng (saunăm 2025):
- Đối với báocáo tài chính hợp nhất: Trên cơsở đánh giá tình hình thực hiện áp dụng IFRS củagiai đoạn 1, Bộ Tài chính căn cứnhu cầu, khả năngsẵn sàng của cácdoanh nghiệp vàtình hình thựctế, quy định phương án, thời điểm bắt buộc áp dụng 1FRS để lập báo cáo tài chính hợp nhất cho từngnhóm doanh nghiệp thuộc các đối tượng cụ thể.
- Đối với báocáotàichínhriêng:Trêncơ sởđánh giá tình hình thực hiện áp dụngIFRS của giai đoạn 1, Bộ Tài chính căn cứ nhu cầu, khả năng sẵnsàng củacácdoanh nghiệp, pháp luậtcó liên quan và tình hình thực tế, quy định phương án, thời điểm áp dụngbắt buộc hoặc áp dụng tựnguyện IFRS đểlập báo cáo tài chính riêng cho từng nhóm đối tượng, đảmbảotính hiệu quảvàkhả thi./.
Tài liệu tham khảo
Abbas, K. and Malik, M. (2010). "Impact of Financial Liberalisation and Deregulation on Banking Sector in Pakistan". PIDE Working Paper Series,2010:64.
Chami, Ralph and Khan, Mohsin s. and Sharma, Sunil, "Emerging Issues in Banking Regulation"
(May 2003). IMF Working PaperNo. 03/101.
IMF (2004)."Pakistan: Financial System Stability Assessment, including Reports on the Observance of Standards andCodes on the following topics:
Monetary and Financial Policy Transparency, Banking Supervision, and Securities Regulation", IMF CountryReportNo. 04/215.
Limi, A. (2004). "Banking Sector Reforms in Pakistan: Economies of Scale and Scope, and cost Complementarities". Journal of Asian Economies, 15(3): 507-528.
Rehman, w., Fatima, G., and Ahmad, w. (2011).
"An Empirical Analysis of Financial Reforms in Pakistan: Does it Affect Economic Growth?"
International Journal of Trade, Economics and Finance, 2(4): 341-345.
Kinh tế Châu Ả - Thái Bình Dương (Tháng 5/ 2022) 27