ĐẶC ĐIỂM CỦA NỒNG ĐỘ NON-HDL-C Ở BỆNH NHÂN NHỒI MÁU CƠ TIM CẤP
Hoàng Văn Sỹ1, Lê Trung Hiếu1, Nguyễn Tất Đạt2, Nguyễn Minh Kha1
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Quản lý hiệu quả tình trạng rối loạn lipid máu đóng vai trò quan trọng trong ngăn ngừa các biến cố tim mạch sau hội chứng vành cấp. Do đó, các khuyến cáo điều trị của Hội Tim Châu Âu 2019 hướng dẫn mục tiêu cần đạt cho LDL-C là < 55 mg/dL và non-HDL-C là 85 mg/dL. Vai trò của non-HDL-C trong hội chứng mạch vành cấp chưa được nghiên cứu nhiều tại Việt Nam.
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm nồng độ non-HDL-C ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp và đánh giá tỷ lệ bệnh nhân có nồng độ non-HDL-C đạt mục tiêu điều trị theo các khuyến cáo điều trị hiện nay.
Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả 297 bệnh nhân được chẩn đoán nhồi máu cơ tim cấp nhập Bệnh viện Chợ Rẫy trong khoảng thời gian từ tháng 01 năm 2020 đến tháng 07 năm 2020.
Kết quả: Trong 297 bệnh nhân, độ tuổi trung bình là 66,5 ± 12,5 tuổi, tỷ lệ giới nam:nữ là 1,2:1. Nồng độ trung bình của non-HDL-C và LDL-C lần lượt là 144,5 mg/dL và 123,9 mg/dL. Trong dân số nghiên cứu, chỉ có 2,6% số trường hợp đạt nồng độ LDL-C <55 mg/dL, trong khi đó có 6,1% số bệnh nhân có nồng độ non-HDL-C
<85 mg/dL. Bên cạnh đó, có 9,4% bệnh nhân có LDL-C <70 mg/dL và 14,4% số trường hợp có non-HDL-C <100 mg/dL. Nguy cơ tim mạch tồn dư theo khuyến cáo của ESC 2019 là 12,5% và theo AHA/ACC 2018 là 32,1%.
Những bệnh nhân thuộc nhóm có nồng độ non-HDL-C cao (≥85 mg/dL) có độ tuổi trung bình thấp hơn và chỉ số BMI cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm có nồng độ non-HDL-C thấp. Ở các thông số về bilan lipid, cũng ghi nhận nồng độ cholesterol toàn phần, LDL-C và triglyceride cao hơn có ý nghĩa thống kê ở nhóm có nồng độ non-HDL-C cao.
Kết luận: Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp có nồng độ non-HDL-C ở dưới ngưỡng mục tiêu theo khuyến cáo có tỷ lệ thấp. Nguy cơ tim mạch tồn dư trong dân số nghiên cứu còn tương đối cao. Bệnh nhân có nồng độ non-HDL-C cao có độ tuổi trung bình thấp hơn, chỉ số BMI cao hơn, các thông số trong bilan lipid như cholesterol toàn phần, LDL-C và triglyceride cao hơn so với nhóm có nồng độ non- HDL-C thấp.
Từ khóa: non-HDL-C, nhồi máu cơ tim cấp, LDL-C
ABSTRACT
PROFILE OF NON-HIGH-DENSITY LIPOPROTEIN CHOLESTEROL IN PATIENTS WITH ACUTE MYOCARDIAL INFARCTION
Hoang Van Sy, Nguyen Trung Hieu, Nguyen Tat Dat, Nguyen Minh Kha
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No. 2 - 2021: 22 - 28 Background: Effective management of hyperlipidemia is of almost importance for prevention of recurring cardiovascular events after an acute coronary syndrome. Indeed, guidelines recommend a low-density lipoprotein cholesterol level of <55 mg/dL for such patients. Role of non-HDL-C in patients with acute coronary syndrome has not been thoroughly studied in Vietnam.
Objectives: To describe the profiles of non-HDL-C in patients with acute infarction myocardial and, to assess the proportion of patients with non-HDL-C levels achieving treatment goals according to current
1Bộ môn Nội Tổng quát, Khoa Y, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 2Bệnh viện Chợ Rẫy Tác giả liên lạc: TS.BS. Hoàng Văn Sỹ ĐT: 0975979186 Email: [email protected]
treatment recommendations.
Methods: A cross-sectional descriptive study of 297 consecutive patients with acute myocardial infarction admitted Cho Ray Hospital from January 2020 to July 2020.
Results: Among 297 patients, the mean age was 66.5 ± 12.5 years, and the male to female ratio was 1.3:1.
The mean level of non-HDL-C and LDL-C were 144.5 mg/dL and 123.9 mg/dL, respectively. Of these, 2.6%
achieved LDL-C <55 mg/dL while 6.1% achieved non-HDL-C <85 mg/dL. Of these, 9.4% achieved LDL-C < 70 mg/dL while 14.4% achieved non-HDL-C <100 mg/dL. The risk of residual cardiovascular risk as recommended by ESC 2019 was 12.5%, and according to the AHA/ACC 2018 was 32.1%. Patients in the group with high levels of non-HDL-C (≥ 85 mg/dL) had a significantly lower mean age and higher BMI compared to the group with low levels of non-HDL-C. In the parameters of lipid, the level of total cholesterol, LDL-C and triglyceride was also significantly higher in the group with high levels of non-HDL-C.
Conclusions: Our study revealed that the rate of patients with acute myocardial infarction achieved non- HDL-C goals was low. The residual cardiovascular risk in the study population was still relatively high. Patients with high levels of non-HDL-C have a lower mean age, higher BMI, and lipid parameters such as total cholesterol, LDL-C and triglyceride had higher level than the group with low levels of non-HDL-C.
Keywords: non-HDL-cholesterol, acute myocardial infarction, LDL-cholesterol
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh động mạch vành, trong đó có hội chứng mạch vành cấp đang trở thành một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên thế giới cũng như tại Việt Nam(1). Rối loạn lipid máu là một trong những yếu tố khởi đầu cho quá trình hình thành và phát triển của xơ vữa động mạch. Cho đến hiện tại, giảm LDL-C vẫn là mục tiêu hàng đầu trong điều trị để giảm biến cố tim mạch. Giảm LDL-C bằng statin đã làm giảm nguy cơ tương đối bệnh tim mạch từ 25- 45%(2). Cứ giảm 1 mmol/L nồng độ LDL-C sẽ làm giảm 22% nguy cơ tương đối biến cố do bệnh tim mạch do xơ vữa(3).
Tuy nhiên, thực tế ngay khi kiểm soát tốt LDL-C bằng statin liều cao nhưng bệnh nhân vẫn còn khoảng gần 60% nguy cơ bị bệnh tim mạch, hay nói cách khác bệnh nhân vẫn còn các yếu tố nguy cơ tồn dư mà trong đó có vai trò quan trọng của non-HDL-C(4). Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng non-HDL-C có giá trị dự báo nguy cơ xảy ra biến cố tim mạch sau hội chứng vành cấp. Bên cạnh đó, non-HDL-C được tìm thấy là một yếu tố dự báo độc lập của bệnh mạch vành bất kể nồng độ triglyceride, trong khi vai trò của LDL-C trong tiên đoán nguy cơ bị hạn chế khi triglyceride >400 mg/dL(5).
Bệnh nhân nhập viện vì nhồi máu cơ tim cấp được xem là đối tượng nguy cơ tim mạch rất cao theo khuyến cáo điều trị về quản lý rối loạn lipid của Hội Tim Châu Âu 2019(6). Các báo cáo tại Việt Nam cho thấy dân số Việt Nam có tỷ lệ cao mắc các yếu tố nguy cơ tim mạch như tăng huyết áp, đái tháo đường và rối loạn lipid máu(1). Dữ liệu về đặc điểm nồng độ non-HDL-C sẽ cung cấp nhiều thông tin lâm sàng quan trọng trong đánh giá và quản lý tối ưu nguy cơ tim mạch tồn dư, đặc biệt trên đối tượng bệnh nhân đã xảy ra biến cố tim mạch như bị nhồi máu cơ tim cấp. Tại Việt Nam, dữ liệu về các chỉ số non- HDL-C còn hạn chế, nhất là ở đối tượng bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim cấp.
Do đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mục tiêu mô tả nồng độ non-HDL-C ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp nhập viện.
Đồng thời, cũng khảo sát mối liên quan nồng độ non-HDL-C với một số yếu tố nguy cơ tim mạch của bệnh nhân.
ĐỐI TƢỢNG - PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tƣợng nghiên cứuBệnh nhân bị nhồi máu cơ tim cấp theo định nghĩa Toàn cầu lần thứ 4 về nhồi máu cơ tim cấp(7). Bệnh nhân trong nghiên cứu được lựa chọn liên tiếp từ tháng 1 năm 2020 đến tháng 7
năm 2020 tại bệnh viện Chợ Rẫy.
Tiêu chuẩn chọn
Chẩn đoán nhồi máu cơ tim khi có sự gia tăng và/hoặc giảm troponin tim với ít nhất 1 giá trị trên bách phân vị thứ 99 và kèm theo ít nhất 1 trong các tiêu chuẩn sau: Các triệu chứng của thiếu máu cục bộ cơ tim hoặc thay đổi mới về điện tâm đồ do thiếu máu cục bộ cơ tim hoặc sự hình thành sóng Q bệnh lý hoặc bằng chứng hình ảnh của mất đi cơ tim còn sống mới xuất hiện hoặc bất thường vận động vùng mới xuất hiện phù hợp với nguyên nhân thiếu máu cục bộ cơ tim hoặc xác định được huyết khối trong mạch vành bởi chụp mạch vành. Nhồi máu cơ tim cấp gồm 2 thể lâm sàng là nhồi máu cơ tim cấp có ST chênh lên và nhồi máu cơ tim cấp không ST chênh lên, chẩn đoán dựa vào hình ảnh ST trên điện tâm đồ bề mặt(7).
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân bị rối loạn chuyển hóa lipid máu thứ phát như hội chứng thận hư, Basedow, suy giáp, bệnh nhân không có khả năng nhận thức đầy đủ, thời gian nằm viện <24 giờ.
Phƣơng pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả.
Phương pháp thực hiện
Nồng độ các thành phần trong bilan lipid máu được đánh giá trong vòng 24 giờ sau nhập viện. Nồng độ non-HDL-C được tính bằng cách tổng nồng độ cholesterol máu trừ cho nồng độ HDL-C. Theo hướng dẫn về điều trị rối loạn lipid máu của Hội Tim Châu Âu năm 2019 chúng tôi chia dân số nghiên cứu thành 2 nhóm dựa theo nồng độ non-HDL-C với điểm cắt là 85 mg/dL. Nhóm 1 có nồng độ non-HDL-C <85 mg/dL và nhóm 2 có nồng độ non-HDL-C ≥85 mg/dL(6).
Xử lý thống kê
Các biến liên tục được thể hiện bằng trung bình ± độ lệch chuẩn nếu phân bố chuẩn và trung vị - khoảng tứ phân vị nếu phân bố không
chuẩn. Biến danh định được trình bày dưới dạng tần số (phần trăm). Dùng phép kiểm Student-t cho biến liên tục có phân bố chuẩn, phép kiểm Wilcoxon rank-sum cho biến liên tục không có phân phối chuẩn và phép kiểm chi bình phương hoặc chính xác Fisher cho biến phân loại, để so sánh các biến số ở 2 nhóm. Dữ liệu được nhập và xử theo phần mềm Stata 13 (StataCorp. 2013.
Stata Statistical Software: Release 13. College Station, TX: StataCorp LP).
KẾT QUẢ
Trong thời gian nghiên cứu có 297 bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp thỏa tiêu chuẩn được nhận vào nghiên cứu. Trong đó, số trường hợp bị nhồi máu cơ tim cấp có ST chênh lên và không ST chênh lên có tỷ lệ gần bằng nhau, lần lượt 50,2% và 49,8%. Tuổi trung bình trong nghiên cứu là 66,5 ± 12,5 và tỷ lệ giới nam chiếm ưu thế với 63%. Các đặc điểm về nhân trắc học của dân số nghiên cứu được thể hiện ở Bảng 1.
Bảng 1: Bảng 2x2 về tỷ lệ nồng độ mục tiêu của LDL-C và triglyceride theo non-HDL-C theo khuyến cáo Hội Tim Châu Âu 2019
Non-HDL-C
<85 N = 18
Non-HDL-C
≥85 N = 279
Nguy cơ tim mạch tồn dư LDL-C <55 mg/dL, n
(%) 7 (87,5) 1 (12,5) 12,5%
LDL-C ≥55 mg/dL, n
(%) 11 (3,2) 278 (96,8)
Nồng độ non-HDL-C của dân số nghiên cứu có phân phối chuẩn với giá trị trung bình là 144,5 ± 44,0 mg/dL, giá trị nhỏ nhất là 45 mg/dL, giá trị lớn nhất là 291 mg/dL (Hình 1A).
Đa số bệnh nhân trong nghiên cứu có nồng độ non-HDL-C từ 85 mg/dL trở lên (93,94%), từ 100 mg/dL trở lên (85,19%), trong đó gần 60%
bệnh nhân có nồng độ non-HDL-C >130 mg/dL.
Chỉ có 18 trong số 297 bệnh nhân chiếm tỷ lệ 6,06% có mức non-HDL-C nằm ở mức mục tiêu ngay khi nhập viện (Hình 1B).
Kết quả nghiên cứu cho thấy 97,3% bệnh nhân có nồng độ LDL-C ≥55 mg/dL và 90,6% số bệnh nhân có nồng độ LDL-C ≥70 mg/dL. Về nguy cơ tim mạch tồn dư, theo khuyến cáo của
ESC 2019, Bảng 1 cho thấy nhóm bệnh nhân vừa có LDL thấp và non-HDL-C cao chiếm tỷ lệ rất thấp, chỉ 1 bệnh nhân với 12,5% số trường hợp.
Theo khuyến cáo của AHA/ACC ghi nhận tỷ lệ bệnh nhân có nguy cơ tim mạch tồn dư là 9 trường hợp với 32,1% (Bảng 2). Mối liên quan nồng độ LDL-C và non-HDL-C theo mốc khuyến cáo của AHA/ACC 2018 được thể hiện ở Hình 2. Ngoài ra, bệnh nhân có nồng độ Non- HDL-C ≥85 mg/dL thì có 193 trường hợp, chiếm 69,2% có nồng độ triglyceride ≥200 mg/dL.
Bảng 2: Bảng 2x2 về tỷ lệ nồng độ mục tiêu của LDL-C và non-HDL-C theo Trường môn Tim Hoa Kỳ 2018
Non-HDL-C
<100 N = 43
Non-HDL-C
≥100 N = 254
Nguy cơ tim mạch tồn dư LDL-C < 70 mg/dL,
n (%) 19 (67,9) 9 (32,1) 32,1%
LDL-C ≥ 70 mg/dL,
n (%) 24 (8,9) 245 (91,1)
Hình 1: A. Phân bố nồng độ non-HDL-C; B. Phân bố theo nhóm nồng độ non-HDL-C
Hình 2: Mối liên quan giữa nồng độ LDL-C và Non-HDL-C
Hình 3: A. Phân bố các nhóm về mục tiêu điều trị theo Hội Tim Châu Âu 2019. B. Đặc điểm nồng độ non-HDL- C giữa 2 nhóm
Bảng 3: Đặc điểm lâm sàng chung giữa ở 2 nhóm dựa theo nồng độ non-HDL-C
Biến số Chung
N = 297
Nhóm 1 N = 18
Nhóm 2
N = 279 p
Tuổi 66,5 ± 12,5 73,8 ± 9,6 66,0 ± 12,6 0,01
Giới nam, n (%) 187 (63,0) 13 (72,2) 174 (62,4) 0,40
BMI, kg/m2 23,3 ± 3,6 20,9 ± 2,7 23,5 ± 3,7 0,003
BMI > 23, n (%) 149 (50,1) 1 (5,6) 148 (53,1) < 0,001
STEMI, n (%) 149 (50,2) 8 (44,4) 141 (50,5) 0,62
Killip I, n (%) 227 (76,4) 11 (61,1) 216 (77,4) 0,43
Hút thuốc lá, n (%) 173 (58,3) 13 (72,2) 160 (57,4) 0,22
Tăng huyết áp, n (%) 266 (89,5) 18 (100,0) 248 (88,9) NA
Đái tháo đường, (%) 97 (32,7) 5 (27,8) 92 (33,0) 0,65
STEMI: Nhồi máu cơ tim cấp có ST chênh lên Giá trị là trung bình ± độ lệch chuẩn hoặc số lượng (%) Dân số nghiên cứu được chia thành 2 nhóm
dựa vào nồng độ của non-HDL-C theo khuyến cáo về điều trị rối loạn lipid máu của Hội Tim Châu Âu 2019, cụ thể lấy mốc nồng độ 85 mg/dL. Kết quả nghiên cứu cho thấy số bệnh nhân hội chứng vành cấp thuộc nhóm 1 (non- HDL-C <85 mg/dL) có 18 bệnh nhân, chiếm 6,1%, nhóm 2 (non-HDL-C ≥85 mg/dL) có 279 bệnh nhân, chiếm 93,4%. Nhóm 1 có nồng độ non-HDL-C trung bình là 71,4 ± 11,3 mg/dL, trong khi đó nhóm 2 có nồng độ trung bình là 149,2 ± 41 mg/dL và có sự khác biệt có nghĩa thống kê giữa 2 nhóm bệnh nhân (Hình 3).
Khi so sánh các đặc điểm lâm sàng giữa 2 nhóm, chúng tôi nhận thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về các đặc điểm như tỷ lệ giới tính, tiền căn như tăng huyết áp, đái tháo
đường và hút thuốc lá. Tuy nhiên, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm về độ tuổi và mức độ cân nặng của bệnh nhân. Bệnh nhân nhóm có nồng độ non-HDL-C < 85 mg/dL có độ tuổi cao hơn và chỉ số BMI thấp hơn so với nhóm bệnh nhân có nồng độ non-HDL-C ≥85 mg/dL (Bảng 3).
Tương tự, khi đánh giá các đặc điểm khác về cận lâm sàng liên quan đến chức năng thận, phân suất co bóp thất trái, 2 nhóm không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về những chỉ số này. Về các chỉ số liên quan đến rối loạn lipid máu, chúng tôi ghi nhận có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở chỉ số cholesterol toàn phần, LDL-C và triglyceride. Cả 3 chỉ số này đều cao hơn đáng kể ở những bệnh nhân có nồng độ non-HDL-C ≥85 mg/dL so với nhóm còn lại
(Bảng 4). Trong khi đó, nồng độ HDL-C khác biệt nhau không có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm.
Bảng 4: Đặc điểm về các chỉ số cận lâm sàng ở 2 nhóm bệnh nhân
Biến số Chung
N = 297
Nhóm 1 N = 18
Nhóm 2
N = 279 p
Glucose máu, mg/dL 129,9 ± 65,4 140,3 ± 60,0 129,2 ± 65,8 0,49
Creatinine huyết thanh, mg/dL 1,12 ± 0,70 1,17 ± 0,39 1,12 ± 0,72 0,76
LVEF, % 45,9 ± 12,9 44,7 ± 15,3 45,6 ± 12,8 0,75
Cholesterol toàn phần, mg/dL 179,7 ± 46,5 109,4 ± 19,6 184,2 ± 44,1 < 0,001
LDL-C, mg/dL 123,9 ± 43,5 56,8 ± 15,5 128,3 ± 41,1 < 0,001
HDL-C, mg/dL 37,2 ± 10,1 37,9 ± 13,9 37,1 ± 9,9 0,76
Triglyceride, mg/dL 137
(100 – 211,3)
93 (75 – 110)
144,0
(104,2 – 218,8) < 0,001*
LVEF: Phân suất tống máu thất trái.
Giá trị là trung bình ± độ lệch chuẩn hoặc trung vị (khoảng tứ phân vị).
*: Phép kiểm Wilcoxon test.
BÀN LUẬN
Về mặt sinh lý bệnh, non-HDL-C là tổng cholesterol của các hạt lipoprotein chứa apo B, có tiềm năng gây xơ vữa gồm LDL-C, IDL-C, Lp(a), VLDL (cả VLDL thừa), các hạt chylomicron và chylomicron thừa. NCEP ATP III ghi nhận tầm quan trọng của non-HDL-C trong bệnh sinh xơ vữa, có nhiều bằng chứng đã ủng hộ quan điểm non-HDL-C liên quan đến nguy cơ của bệnh tim mạch do xơ vữa nhiều hơn so với LDL-C, mối quan hệ này được thể hiện rõ ngay ở những người có và không có tăng triglyceride. Non- HDL-C trở thành mục tiêu điều trị quan trọng trong thực hành lâm sàng. Nghiên cứu của Cui Y cho thấy non-HDL-C làm tăng nguy cơ tim mạch nhiều hơn so với LDL-C (cùng với mức tăng 30 mg/dL thì non-HDL-C làm tăng nguy cơ tim mạch lên 11%, còn LDL-C tăng nguy cơ 8% ở bệnh nhân nữ và ở bệnh nhân nam thì nguy cơ tăng 19% khi dùng non-HDL-C so với 15% khi dùng LDL-C)(8). Ngoài ưu điểm vượt trội về mối liên quan đến tim mạch, non-HDL-C còn có ưu điểm vượt trội khác so với LDL-C trong thực hành lâm sàng. LDL-C thường tính theo công thức Friedewald chỉ có giá trị khi TG <400 mg/dL và việc định lượng gặp nhiều khó khăn về mặt kỹ thuật để triển khai trong thực hành lâm sàng.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nếu áp dụng theo khuyến cáo của ESC 2019 và AHA/ACC 2018 thì nồng độ LDL-C cao hơn
mục tiêu điều trị với tỷ lệ không đạt mục tiêu lần lượt là 61,1% và 55,8%. Tuy nhiên nếu xét theo mục tiêu về non-HDL-C thì tỷ lệ không đạt theo 2 khuyến cáo trên còn cao hơn, tỷ lệ không đạt mục tiêu lần lượt là 99,6% và 96,5%.
Nồng độ trung bình non-HDL-C trong nghiên cứu của chúng tôi gần như tương đương với nghiên cứu của Wongcharoen W tiến hành trên dân số Thái Lan (144,5 so với 142,8)(9). Cũng theo tác giả trên, có 34% bệnh nhân nhập viện vì nhồi máu cơ tim cấp có nồng độ non-HDL-C <100 mg/dL, của Su X (2019) là 39,%(10). Tỷ lệ này đối với nghiên cứu của chúng tôi là 14,8% (Hình 1).
Dân số nghiên cứu là bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim cấp nhập viện. Do đó, theo khuyến cáo điều trị rối loạn lipid của Hội Tim Châu Âu năm 2019 những trường hợp sẽ thuộc nhóm nguy cơ rất cao và khi đó mục tiêu điều trị đối với LDL-C là <55 mg/dL và non-HDL-C <85 mg/dL. Từ kết quả nghiên cứu của chúng tôi với tỷ lệ bệnh nhân có nồng độ non-HDL-C ≥85 mg/dL là 93,9% (Hình 3) cho thấy gánh nặng để đạt mục tiêu điều trị là khá lớn cho các biện pháp điều trị bằng thuốc và không thuốc.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, những bệnh nhân có nồng độ non-HDL-C cao có chỉ số BMI cũng như tình trạng thừa cân cao hơn có ý nghĩa so với nhóm có nồng độ non-HDL-C thấp.
Ram N cũng ghi nhận tỷ lệ rối loạn non-HDL-C
tăng gấp 3,6 lần ở những bệnh nhân tăng BMI so với nhóm không có tăng BMI(11). Chúng tôi tìm thấy có ý nghĩa nồng độ của cholesterol toàn phần, LDL-C và triglyceride ở nhóm có nồng độ non-HDL-C cao hơn thì cao hơn so với nhóm có nồng độ thấp. Điều này cho thấy giá trị của non- HDL-C cũng phản ánh giá trị của cholesterol toàn phần cũng như LDL-C. Non-HDL-C chỉ đơn giản là ước tính của tất cả các phần tử lipid gây xơ vữa vì nó bao gồm LDL-C, lipoprotein tỷ trọng trung bình cũng như một phần lipoprotein tỷ trọng rất thấp(12).
KẾT LUẬN
Nghiên cứu cho thấy bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp nhập viện có nồng độ non-HDL-C ở dưới ngưỡng mục tiêu điều trị theo khuyến cáo còn thấp. Tỷ lệ bệnh nhân có nồng độ non-HDL- C < 85 mg/dL là 6,1% và < 100 mg/dL là 14,8%.
Nguy cơ tim mạch tồn dư theo khuyến cáo của ESC 2019 là 12,5% và theo AHA/ACC 2018 là 32,1%. Bệnh nhân có nồng độ non-HDL-C cao có độ tuổi trung bình thấp hơn, chỉ số BMI cao hơn, các thông số trong bilan lipid như cholesterol toàn phần, LDL-C và triglyceride cao hơn so với nhóm có nồng độ non-HDL-C thấp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyen QN, Pham ST, Do LD, et al (2012). Cardiovascular disease risk factor patterns and their implications for intervention strategies in Vietnam. Int J Hypertens, 2012:560397.
2. An International Atherosclerosis Society Position Paper: global recommendations for the management of dyslipidemia--full report (2014). J Clin Lipidol, 8(1):29-60.
3. Baigent C, Blackwell L, Emberson J, et al (2010). Efficacy and safety of more intensive lowering of LDL cholesterol: a meta- analysis of data from 170,000 participants in 26 randomised trials. Lancet, 376(9753):1670-1681.
4. Sniderman AD, Islam S, Yusuf S, et al (2012). Discordance analysis of apolipoprotein B and non-high density lipoprotein cholesterol as markers of cardiovascular risk in the INTERHEART study. Atherosclerosis, 225(2):444-449.
5. Executive Summary of the Third Report of the National Cholesterol Education Program (NCEP) Expert Panel on Detection, Evaluation, And Treatment of High Blood Cholesterol In Adults (Adult Treatment Panel III) (2001).
JAMA, 285(19):2486-2497.
6. Mach F, Baigent C, Catapano AL, et al (2020). 2019 ESC/EAS Guidelines for the management of dyslipidaemias: lipid modification to reduce cardiovascular risk. Eur Heart J, 41(1):111-188.
7. Thygesen K, Alpert JS, Jaffe AS, et al (2018). Fourth Universal Definition of Myocardial Infarction. J Am Coll Cardiol, 72(18):2231-2264.
8. Cui Y, Blumenthal RS, Flaws JA, et al (2001). Non-high-density lipoprotein cholesterol level as a predictor of cardiovascular disease mortality. Arch Intern Med, 161(11):1413-1419.
9. Wongcharoen W, Sutthiwutthichai S, Gunaparn S, et al (2017).
Is non-HDL-cholesterol a better predictor of long-term outcome in patients after acute myocardial infarction compared to LDL-cholesterol? a retrospective study. BMC Cardiovasc Disord, 17(1):10.
10. Su X, Luo M, Tang X, et al (2019). Goals of non-high density lipoprotein cholesterol need to be adjusted in Chinese acute coronary syndrome patients: Findings from the CCC-ACS project. Clin Chim Acta, 496:48-54.
11. Ram N, Ahmed B, Hashmi F, et al (2014). Importance of measuring non-HDL cholesterol in type 2 diabetes patients. J Pak Med Assoc, 64(2):124-128.
12. Maki KC, Galant R, Davidson MH (2005). Non-high-density lipoprotein cholesterol: the forgotten therapeutic target. Am J Cardiol, 96(9a):59K-64K.
Ngày nhận bài báo: 13/11/2020
Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 01/02/2021 Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021