• Tidak ada hasil yang ditemukan

ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH LÝ HẠCH CỔ TRÊN BỆNH NHÂN ĐẾN KHÁM VÀ ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN PHẠM NGỌC THẠCH

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH LÝ HẠCH CỔ TRÊN BỆNH NHÂN ĐẾN KHÁM VÀ ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN PHẠM NGỌC THẠCH"

Copied!
7
0
0

Teks penuh

(1)

ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH LÝ HẠCH CỔ TRÊN BỆNH NHÂN ĐẾN KHÁM VÀ ĐIỀU TRỊ

TẠI BỆNH VIỆN PHẠM NGỌC THẠCH

Nguyễn Xuân Trí1, Nguyễn Thị Thu Ba2, Vũ Thị Hiếu3

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Bệnh nhân đến khám vì bệnh lý hạch cổ là bệnh cảnh lâm sàng thường gặp, tuy nhiên nguyên nhân gây bệnh lý hạch cổ không phải lúc cũng dễ chẩn đoán.

Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm lâm sàng và nguyên nhân gây bệnh lý hạch cổ.

Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi tiến hành nghiên cứu cắt ngang trên 101 bệnh nhân có bệnh lý hạch cổ được chỉ định sinh thiết mở để chẩn đoán bệnh nguyên tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch.

Kết quả: lao hạch chiếm 43,56% bệnh nhân, Carcinoma di căn hạch cổ chiếm 31,68%. Tỷ lệ nam: nữ trong nhóm bệnh nhân viêm hạch cổ do lao là 1:1,75. Ngược lại trong nhóm bệnh nhân carcinoma di căn hạch cổ tỷ lệ nam: nữ là 4,33:1. Ở nhóm bệnh nhân nhỏ hơn 40 tuổi, lao hạch chiếm tỷ lệ 65,9% các nguyên nhân gây bệnh lý hạch cổ. Tuy nhiên ở bệnh nhân trên 60 tuổi carcinoma di căn hạch chiếm 72% các nguyên nhân.

Kết Luận: Viêm hạch bạch huyết do lao là nguyên nhân thường gặp nhất gây bệnh lý hạch cổ. Tuy nhiên ở những bệnh nhân trên 60 tuổi thì hạch di căn là nguyên nhân chủ yếu gây bệnh lý hạch cổ mạn tính.

Từ khóa: bệnh lý hạch cổ, lao hạch, carcinoma di căn hạch

ABSTRACT

CLINICAL PATTERN AND ETIOLOGY OF CERVICAL LYMPHADENOPATHY IN PATIENTS ADMITTED TO PHẠM NGỌC THẠCH HOSPITAL

Nguyen Xuan Tri, Nguyen Thi Thu Ba, Vu Thi Hieu

* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No 1 - 2021: 218 - 224 Background: Cervical lymphadenopathy is a common problem in clinical practice, however the causes are difficult to be diagnosed.

Objectives: To describe clinical manifestations and etiologies of cervical lymphadenopathy.

Method: We conducted a cross sectional study (n=101) amongs patients who had chronic cervical lymphadenopathy admitted to Pham Ngoc Thach hospital to get open surgical biopsy to find out etiologies.

Results: The most common diagnosis was tuberculous lymphadenitis (n=44, 43.56%). Carcinoma metastatic was the second common cause (n=32, 31.69%). Among tuberculous patients, the ratio of males to females is 1:1.75 whereas in carcinoma metastatic group this ratio is 4.33:1. In patients younger than 40 years of age, tuberculous lymphadenitis accounted for 65,9% of cases. However, patients who were over 60 years old, carcinoma metastatic lymphadenopathy accounted for 72% of cases.

Conclusion: Tuberculous lymphadenitis is still the most common cause of chronic cervical lymphadenopathy. However, in patients who were over 60 years old, carcinoma metastatic lymphadenophathy is

1Bộ môn Miễn dịch - Di truyền học, Khoa Y Đại Học Quốc Gia TP. Hồ Chí Minh

2Bộ Môn Lao - Bệnh Phổi, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh

3Khoa Giải Phẫu Bệnh - Bệnh Viện Phạm Ngọc Thạch

Tác giả liên lạc: ThS.BS. Nguyễn Xuân Trí ĐT: 0942723825 Email : [email protected]

(2)

the main cause.

Keywords: cervical lymphadenopathy, tuberculous lymphadenitis, carcinoma metastatic lympadenopathy

ĐẶT VẤN ĐỀ

Bệnh lý hạch cổ là một trong những bệnh cảnh lâm hay gặp trong thực hành hằng ngày của bác sĩ Tai Mũi Họng, bác sĩ chuyên khoa Lao- Bệnh phổi cũng như bác sĩ Ung Bướu. Tại các nước có tần suất mắc lao cao, trong đó có Việt Nam, đa phần bệnh lý viêm hạch vùng cổ mạn thường do lao. Tác giả người Ấn Độ, Biswas G nghiên cứu cho thấy lao chiếm 45,4%

các trường hợp bệnh lý hạch cổ tại quốc gia này(1). Tuy nhiên trong đa số các trường hợp biểu hiện lâm sàng của bệnh lý hạch do di căn ác tính từ nơi khác (ung thư vùng mũi hầu, ung thư phổi …) hay hạch bệnh lý ác tính nguyên phát cũng không có dấu hiệu lâm sàng đặc hiệu và rất khó có thể chẩn đoán. Nghiên cứu của chúng tôi muốn gớp phần mô tả đặc điểm lâm sàng và nguyên nhân gây bệnh lý hạch cổ mạn tính trên bệnh nhân đến khám và điều trị tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch.

ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu

Tất cả các bệnh nhân từ 16 tuổi trở lên có hạch cổ đến khám tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch trong thời gian từ tháng 11 năm 2016 đến tháng 4 năm 2017.

Tiêu chuẩn chọn bệnh

Bệnh nhân khám và chỉ định thực hiện sinh thiết hạch cổ để chẩn đoán tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch trong thời gian từ tháng 11 năm 2016 đến tháng 4 năm 2017.

Được thực hiện sinh thiết hạch và làm giải phẫu bệnh lý.

Có chẩn đoán cuối cùng qua giải phẫu bệnh lý.

Đồng ý tham gia nghiên cứu, và có xác nhận bằng văn bản.

Tiêu chuẩn loại trừ

Bệnh nhân không đồng ý làm thủ thuật để chẩn đoán bệnh lý hạch cổ.

Thực hiện các thủ thuật chẩn đoán thất bại

hoặc có chống chỉ định thực hiện các thủ thuật chẩn đoán

Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu

Báo cáo hàng loạt các trường hợp.

Định nghĩa các biến số chính

Bệnh nhân có bệnh lý hạch cổ mạn tính chưa rõ nguyên nhân: Bệnh nhân có hạch vùng cổ >1 cm kéo dài hơn 2 tuần chưa rõ nguyên nhân.

Tuổi: Đây là biến định lượng, có giá trị bằng năm tiến hành sinh thiết trừ đi cho năm sinh, đơn vị là năm tuổi.

Tiền căn lao: Là biến định tính, nhận 2 giá trị có hoặc không, Tiền căn lao được khai thác qua bệnh sử. Hỏi bệnh nhân có từng mắc lao hoặc được điều trị lao không.

Số lượng hạch: Là biến bán định lượng, nhận 2 giá trị là 1 hạch hoặc nhiều hạch, thu được qua thăm khám lâm sàng.

Kích thước hạch: Là biến định lượng, thu được qua thăm khám lâm sàng, đơn vị cm.

Kết quả mô bệnh học: Là biến định tính, thu được qua hình ảnh mô bệnh học của bệnh nhân.

Phương pháp thống kê

Các số liệu được phân tích bằng phần mềm thống kê Stata 14.0.

Y đức

Nghiên cứu đã được Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Trường Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, số 173/ĐHYD-HĐ.

KẾT QUẢ

Chúng tôi thu dung được 101 bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu. Tuổi nhỏ nhất là 18 tuổi, lớn nhất là 79 tuổi, tuổi trung bình trong mẫu nghiên cứu là 46,4 ± 3,4 tuổi.

Bảng 4: Nguyên nhân gây bệnh lý hạch cổ

Hạch viêm lao 44 (43,56%) Carcinoma di căn 32 (31,68%) Viêm kinh niên 18 (17,82%) Viêm tăng sinh 7 (6,93%)

(3)

Trong 101 trường hợp hạch cổ được sinh thiết, có 44 bệnh nhân ( 43,56%) được chẩn đoán mô bệnh học là hạch viêm lao, 32 bệnh nhân (31,68%) được chẩn đoán là hạch cổ bị xâm lấn ác tính bởi Carcinôm loại tuyến hoặc gai, có độ biệt hóa từ tốt ( grade I) cho đến không biệt hóa.

Chúng tôi ghi nhận có 18 trường hợp cho hình ảnh mô bệnh học là hạch viêm mạn tính (Viêm kinh niên) với sự hiện diện của lympho bào ưu thế. Trong đó có 7 trường hợp tương ứng với 6,93% các bệnh nhân được chẩn đoán là hạch viêm tăng sinh mạn tính.

Trong 44 trường hợp được chẩn đoán mô bệnh học là viêm lao trong nghiên cứu. Có 21 trường hợp chiếm 47,73% có sự hiện diện của đại bào Langhans, 23 trường hợp chiếm 52,27%

không có hình ảnh của đại bào Langhans mà chỉ có hình ảnh viêm dạng hạt với các tế bào dạng biểu mô và hoại tử bã đậu.

Hình 1: Hạch viêm mạn tính do lao ở bệnh nhân trong nghiêm cứu ( mẫu hạch cổ nhuộm HE độ phóng đại X400) Hình ảnh đại bào Langhans và tế bào biểu mô, 400X. Đại bào Langhans với nhiều nhân ở ngoại vi, xung quanh là những tế bào dạng biểu mô,

ngoài cùng là lympho bào

Bảng 5: Liên quan giữa giới tính và bệnh lý hạch cổ

Lao Carcinoma di căn

Viêm kinh niên

Viêm tăng sinh Tổng Nam 16

(36,36%) 26 (81,25%) 9 (50%) 5

71,43% 56 Nữ 28

63,63%

6 18,75%

9 50%

2

28,57% 45 Tổng 44

100%

32 100%

18 100%

7 100%

Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ nam nữ trong từng nhóm bệnh lý có sự khác nhau có ý nghĩa thống kê ( Kruskal- Wallis test, p= 0.0012).

Trong nhóm bệnh nhân hạch viêm lao, nữ chiếm tỉ lệ 63,63%, nam chiếm tỉ lệ 36.36%. Trong nhóm bệnh nhân carcinoma di căn hạch, nam chiếm tỉ lệ 81,25%, nữ chiếm tỉ lệ 18,75%.

Hình 1: Liên quan giữa tuổi và bệnh lý hạch cổ Trong những bệnh nhân có bệnh lý hạch cổ nhỏ hơn hoặc bằng 40 tuổi, lao hạch chiếm 67,44%. Trong những bệnh nhân có bệnh lý hạch cổ và tuổi từ 41 đến 60 tuổi, lao hạch chiếm 39,39%, ung thư di căn chiếm 42,42% còn lại là hạch viêm kinh niên và viêm tăng sinh chiếm 18,18%. Đặc biệt ở những bệnh nhân trên 60 tuổi có hạch cổ thì ung thư di căn chiếm tới 72%. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (Chi 2, p=0,000).

Bảng 6: Liên quan giữa triệu chứng đau và nguyên nhân gây bệnh lý hạch cổ

Không đau Có đau Tổng Lao 15 (30,61%)

34,09%

29 (55,77%) 65,91%

44 100%

Carcinoma di căn 28 ( 57,14%) 87,50%

4 ( 7,69%) 12,50%

32 100%

Viêm kinh niên 5 (10,2%) 27,78%

13 (25%) 72,22%

18 100%

Viêm tăng sinh 1 (2,04%) 14,29%

6 ( 11,54%) 85,71%

7 100%

Tổng 49 ( 100%) 52 (100%)

Triệu chứng đau chỉ xuất hiện trong 4 trường hợp chiếm 12,50% bệnh nhân có hạch cổ di căn được chẩn đoán bằng mô bệnh học.

Ngược lại trong bệnh lý lành tính khác như lao,

(4)

viêm kinh niên và viên tăng sinh, triệu chứng đau hiện diện lần lượt trên 65,91%, 72,22% và 85,71%. Mặc khác khi phân tích những bệnh nhân đến khám có triệu chứng đau tại hạch cổ thì chúng ta ghi nhận có 55,77% bệnh nhân có kết quả mô bệnh học là viêm hạch do lao, trong khi đó ở nhóm bệnh nhân có hạch cổ nhưng không có triệu chứng đau tại hạch, thì có 57,14%

bệnh nhân có kết quả mô bệnh học là ung thư di căn hạch. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (Fisher’s extract test, p=0,000).

Bảng 7: Liên quan giữa triệu chứng sốt và bệnh lý hạch cổ

Không có triệu chứng sốt

Có triệu chứng sốt Tổng Lao 15 ( 27,78%)

34,09%

29 (61,70%)

65,91% 100%

Carcinoma di căn 28 ( 51,85%) 87,50%

4 (8,51%)

12,50% 100%

Viên kinh niên 9 (16,67%) 50%

9 (19,15%)

50% 100%

Viên tăng sinh 2 (3,70%) 28,57%

5 (10,64%)

71,43% 100%

Tổng 54 (100%) 47 (100%)

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận:

Trong số những bệnh nhân có hạch cổ và sốt, ớn lạnh,mệt mõi đặc biệt về chiều thì lao hạch chiếm tỉ lệ cao nhất tương ứng với 61,07%, kế tiếp là hạch viêm kinh niên, chiếm 19,15%, viêm tăng sinh chiếm 10,64%, và chỉ có 8,51% bệnh nhân sau đó được chẩn đoán là ung thư di căn hạch từ mẫu sinh thiết hạch. Trái lại, trong số những bệnh nhân có bệnh lý hạch cổ cần sinh thiết để chẩn đoán nhưng không có triệu chứng sốt thì 51,85% trong số ấy được chẩn đoán ung thư di căn hạch bằng mô bệnh học sau đó. Trong những bệnh nhân không có triệu chứng sốt thì lao hạch chiếm 27,78%. Trong những bệnh nhân được chẩn đoán hạch viêm lao thì chỉ có 65,91%

bệnh nhân có triệu chứng sốt, ớn lạnh,mệt mõi về chiều. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (Fisher’s extract test, p=0,000) (Bảng 4).

BÀN LUẬN

Trong nghiên cứu của chúng tôi, khi tiến hành sinh thiết hạch chẩn đoán 101 bệnh nhân có bệnh lý hạch cổ, viêm hạch cổ do lao là

nguyên nhân chiếm tỉ lệ cao nhất, tương ứng 43,56%. Bệnh lý hạch cổ thứ phát do ung thư di căn chiếm 31,68%. Còn lại 24,75% bệnh nhân được chẩn đoán viêm kinh niên hoặc viêm tăng sinh. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của các tác giả khác khi tiến hành sinh thiết hạch cổ để chẩn đoán bệnh lý hạch cổ trên những bệnh nhân đến khám tại các cơ sở y tế của Ấn Độ và Pakistan(2,3,4) (Bảng 5).

Bảng 5: Nhiên cứu của các tác giả khác

Lao Ung thư di căn

Viêm không

đặc hiệu٭ lymphoma Melkundi RS(2)

(n=50) 52% 20% 24% 4%

Ismail M(3)

(n=90) 74,5% 6,7% 11,1% 4,4%

Magsi PB(4)

(n=140) 74% 10% 12% 4%

Chúng tôi

(n=101) 43,56% 31,68% 24,75%

* Viêm kinh niên, viêm tăng sinh

Lao chiếm 43,56% nguyên nhân gây bệnh lý hạch cổ trong nghiên cứu của chúng tôi. Tỷ lệ này tương tự trong một số nghiên cứu của các tác giả khác. Tác giả Biswas G tiến hành nghiên cứu 423 bệnh nhân có bệnh lý hạch cổ mạn tính chưa rõ nguyên nhân đến khám và điều trị tại một bệnh viện trường đại học ở Calcutta, Ấn Độ.

Tác giả ghi nhận 45,4% bệnh nhân được chẩn đoán viêm hạch cổ cho lao, 21,2% bệnh nhân được chẩn đoán là hạch cổ bệnh lý thứ phát do ung thư di căn(1). Tỷ lệ này trong nghiên cứu của chúng tôi là 31,68%.

Trong một nghiên cứu được tiến hành trên những người trưởng thành thuộc tầng lớp trung lưu của thành phố Mumbai, Ấn Độ. Kết quả ghi nhận 38,7% bệnh nhân được chẩn đoán do lao(5).

Tác giả Hernandez-Solis A đã tiến hành nghiên cứu tần suất bệnh lý nhiễm trùng trên những bệnh nhân trưởng thành người Mê Hi Cô có bệnh lý hạch cổ. Các tác giả ghi nhận 48%

bệnh nhân được chẩn đoán phù hợp với viêm hạch do lao qua mô học. Những bệnh nhân này có 19% tìm thấy vi trùng kháng acide qua nhuộm, 55% bệnh nhân cấy dương tính với vi

(5)

khuẩn lao, 81% bệnh nhân dương tính bằng phương pháp PCR(6).

Các tác giả Trung Quốc cho thấy lao là nguyên nhân của 28% bệnh nhân có bệnh lý hạch cổ, ung thư di căn chiếm 37,5%, viêm phản ứng chiếm 27%(7). Trong một nghiên cứu khác của các tác giả Hàn Quốc, lao là nguyên nhân của 22,4% các trường hợp bệnh lý hạch cổ(8).

Điều này cho thấy lao vẫn còn là một nguyên nhân đáng chú ý gây bệnh lý hạch cổ mạn tính tại các quốc gia Châu Á kể cả những quốc gia đã có nền công nghiệp hóa hiện đại như khu vực Đông Bắc Á.

Các đại thực bào có thể hòa vào nhau để tạo thành những đại bào Langhans nhiều nhân, một đặc trưng của lao. Quá trình này được khởi động bởi lipomannan của mycobacteria (nhưng không phải là lipoarabinomannan)(9). Một nghiên cứu khác gần đây cho thấy có thể tạo ra đại bào langhans khi nuôi cấy đồng thời đại thực bào và tế bào T đã hoạt hóa(10). Những đại bào nhiều nhân chỉ được tìm thấy trong u hạt do Mycobacteria tuberculosis. Những dạng u hạt do các mycobacteria độc lực yếu hơn có thể chứa những tế bào nhiều nhân nhưng không bao giờ biệt hóa thành những tế bào khổng lồ nhiều nhân. Những tế bào khổng lồ nhiều nhân này không còn khả năng thu nhận vi khuẩn vì mất đi thụ thể đặc hiệu nhưng vẫn còn khả năng trình diện kháng nguyên(11). Đại bào Langhans được tạo thành để tiêu diệt những vi khuẩn đã được thực bào trong những giai đoạn biệt hóa trước đó của đại thực bào. Và đây là một chiến lược để chống lại vi khuẩn lao của cơ thể(12).

Trong nghiên cứu, chúng tôi ghi nhận sự hiện diện của đại bào langhans trong 47,73% các trường hợp được chẩn đoán viêm hạch do lao.

Tác giả Smaoui S hồi cứu những bệnh nhân chẩn đoán và điều trị viêm hạch do lao từ năm 2009 đến 2013, đại bào Langhans hiện diện trong 64,9% các trường hợp(13). Một nghiên cứu trên qui mô lớn hơn, khảo sát 550 trường hợp viêm hạch do lao, đại bào Langhans được ghi nhận trong 21,8% các trường hợp(14). Trong nghiên cứu

của tác giả Phan Đăng, thực hiện năm 1994 tại Hà Nội, sự hiện diện của đại bào Langhans được ghi nhận trong 19,31% bệnh phẩm FNA hạch ngoại vi của bệnh nhân lao(15).

Trong nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận tỷ lệ nam: nữ trong nhóm bệnh nhân lao hạch cổ là 1:1,75. Tỷ lệ này phù hợp với ghi nhận của các tác giả khác. Tác giả Kamal MS tiến hành nghiên cứu tiến cứu 65 trường hợp viêm hạch cổ do lao đến khám và điều trị tại một bệnh viện tại Bangladesh ghi nhận tỉ lệ nam: nữ là 1:2,1(16). Trong một nghiên cứu của các tác giả Hoa Kỳ cho thấy tỉ lệ nam: nữ ở bệnh nhân lao hạch ngoại vi là 1:2,6(17). Trong báo cáo của Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) năm 2010 cũng đề cập đến tỷ lệ nam: nữ ở bệnh nhân lao hạch cổ là 1:2,14(18). Tác giả Dass A lý giải cho sự khác biệt này là do nữ giới lưu tâm đến vẻ ngoài của họ nhiều hơn và trong xã hội nam quyền thì nữ có tình trạng dinh dưỡng kém hơn(19). Còn tác giả người Pakistan, Ahmed I cho rằng sự khác biệt này là do động lực xã hội, trong đó người phụ nữ ở quốc gia này thường làm việc tại nhà, trong môi trường kín và thông khí kém khiến họ gia tăng nguy cơ mắc các bệnh truyền nhiễm trong đó có lao(20).

Trong nghiên cứu của chúng tôi, ở những bệnh nhân có bệnh lý hạch cổ do di căn từ một khối u ác tính ở vị trí khác, nam giới thường gặp hơn nữ và chiếm tỷ lệ gấp 4,33 lần nữ. Điều này cũng tương tự trong báo cáo của các tác giả khác.

Kiran A cho cho thấy tần số bệnh nhân có bệnh lý ác tính ở hạch cổ ở nam cao hơn nữ (tỷ lệ nam:nữ=2,4:1). Trong nghiên cứu của tác giả Biswas G tỷ lệ này là 2,33:1(1).

Trong nghiên cứu của chúng tôi, đa số bệnh nhân lao hạch cổ nằm trong nhóm tuổi dưới 40, chiếm 65,91%, tiếp theo là những bệnh nhân nằm trong nhóm tuổi từ trên 40 tuổi đến 60 tuổi, chiếm 29,55%. Những bệnh nhân trên 60% chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ, tương ứng 4.,55%. Kết quả này tương đồng với các nghiên cứu của các tác giả khác trên thế giới. Như 2 tác giả người Ấn Độ

(6)

Melkundi RS và Patel KR mà chúng tôi nêu tại biểu đồ trên đây(2,21).

Ngược lại trong nhóm những bệnh nhân được chẩn đoán là hạch di căn từ một ung thư ở vị trí khác, tuổi trung bình của bệnh nhân là 61,72 tuổi và ở nhóm bệnh nhân trên 60 tuổi. Tỷ lệ mắc phải của bệnh lý này lên đến 72%. Kết quả này phù hợp với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác. Tác giả Qadri SK nghiên cứu bệnh lý hạch lympho do di căn tại vùng thung lũng Kashmir, Ấn Độ cho thấy tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân này là 52,5 tuổi(22). Tỷ lệ mắc ung thư di căn ở những bệnh nhân có hạch thượng đòn trên 60 tuổi lên đến 95%(23).

Chúng tôi ghi nhận 65,91% bệnh nhân lao hạch cổ có triệu chứng đau tại hạch. Tác giả Patel KR ghi nhận triệu chứng đau tại vùng cổ trong 27% bệnh nhân lao hạch cổ (21). Tác giả Mutiullah S ghi nhận triệu chứng đau tại vị trí hạch cổ trong 14% trường hợp(24).

Bảng 6: Liên quan giữa triệu chứng toàn thân và bệnh lý lao hạch cổ

Sốt Sụt cân Chán ăn Ra mồ hôi đêm Jha BC(6) (n=87) 17,8% 14,3% _ _ Kamal MS(16) (n=65) 87,8% 63,4% 80,5% 63,4%

Patel KR(21) (n=77) 60% 23% 16% _ Chúng tôi (n=44) 65,91% 31,82% 36,36% 18,18%

Trong nghiên cứu của chúng tôi, triệu chứng toàn thân thường gặp nhất trong nhóm bệnh nhân viêm hạch cổ do lao là sốt, kế đến là chán ăn, sụt cân và cuối cùng là ra mồ hôi đêm. Đây là những triệu chứng cơ năng kinh điển trong hội chứng nhiễm lao chung. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu tương tự của các tác giả khác trên thế giới khi nghiên cứu về bệnh lý hạch cổ do lao. Tuy có sự dao động trong tỷ lệ cụ thể của các triệu chứng nhưng nhìn chung triệu chứng thường gặp nhất vẫn là sốt kế đến lần lượt là chán ăn, sụt cân và ra mồ hôi đêm(16,19,21).

KẾT LUẬN

Viêm hạch bạch huyết vùng cổ do lao là nguyên nhân thường gặp nhất gây bệnh lý hạch cổ trên bệnh nhân đến khám và điều trị tại Bệnh

Viện Phạm Ngọc Thạch đặc biệt trên những bệnh nhân nhỏ hơn 40 tuổi. Tuy nhiên Carcinoma di căn hạch cổ là nguyên nhân thường gặp thứ 2 gây bệnh lý hạch cổ mạn tính đặc biệt ở những bệnh nhân trên 60 tuổi.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Biswas G, Haldar D, Mukherjee A, Dutta S, Sinha R (2013).

Clinico-Pathological correlates of cervical lymphadenopathy: a hospital based study. Indian J Otolaryngol Head Neck Surg, 65(1):42-47.

2. Melkundi RS (2017). Clinicopathological sutdy of cervical lymphadenopathy. International Journal of Otorhinolaryngology and Head and neck Surgery, 3(2):244-249.

3. Ismail M, Muhammad M (2013). Frequency of tuberculosis in cervical lymphadenopathy. J Postgrad Med Inst, 27(3):342-346.

4. Magsi PB (2013). An audit of 140 cases of cervical lymphadenopathy at tertiary care hospital. Gomad J Med Sci, 11:47-56.

5. Khajanchi M, Bambarkar S, et al (2016). Cervical Node Tuberculosis in Adults of an Urban Middle Class Community:

Incidence and Management. Indian J Otolaryngol Head Neck Surg, 68(3):345-51.

6. Cicero-Sabido R, Hernandez A- Solis,Olivera H, Rivero V, Ramirez E, Escobar-Gutierrez A (2003), Tuberculosis is still a majr cause of cervical lymphadenopathies in adults from developing countries. Epidemiol Infect, 131(3):1071–1076.

7. Ying M, Ahuja A, Brook F (2004). Accuracy of sonographic vascular features in differentiating different causes of cervical lymphadenopathy. Ultrasound Med Biol, 30(4):441-448.

8. Song JY, Cheong HJ, và Kee SY (2007). Disease spectrum of cervical lymphadenitis: analysis based on ultrasound- guided core needle gun biopsy. J Infect, 50(4):310-316.

9. Puissegur MP, Lay G, Gilleron M (2007). Mycobacterial lipomannan induces granuloma macrophage fusion via a TLR2- dependent, ADAM9- and beta1 integrin-mediated pathway. J Immunol, 178(5):3161-3170.

10. Sakai H, Okafuji I, Nishikomori R (2012). The CD40-CD40L axis and IFN-gamma play critical roles in Langhans giant cell formation. Int Immunol, 24(1):5-15.

11. Lay G, Poquet Y (2007). Langhans giant cells from M.

tuberculosis induced human granulomas cannot mediate mycobacterial uptake. J Pathol, 211(1):76-85.

12. Silva MM, Breiman A, Allain S (2012). The tuberculous granuloma: an unsuccessful host defence mechanism providing a safety shelter for the bacteria? Clin Dev Immunol, doi:10.1155/2012/139127.

13. Smaoui S, Mezghanni MA (2015). Tuberculosis lymphadenitis in a southeastern region in Tunisia: Epidemiology, clinical features, diagnosis and treatment. International Journal of Mycobacteriology, 4(3):196-201.

14. Chand P, Dogra R, Chauhan N, Gupta R, Khare P (2014).

Cytopathological Pattern of Tubercular Lymphadenopathy on FNAC: Analysis of 550 Consecutive Cases. J Clin Diagn Res, 8(9):16-9.

15. Phan Đăng (1994). Giá trị chẩn đoán tế bào học lao hạch ngoại biên qua chọc hút kim nhỏ. Luận án Phó Tiến sĩ, Đại học Y Hà Nội.

(7)

16. Kamal MS (2016). Cervical tuberculous lymphadenitis: Clinico- demographic profiles of patients in a secondary level hospital of Bangladesh. Pak J Med Sci, 32(3):4.

17. Gonzalez OY, LD Teeter, Musser JM, et al (2003). Extrathoracic tuberculosis lymphadenitis in adult HIV seronegative patients:

a population-based analysis in Houston, Texas, USA. Int J Tuberc Lung Dis, 7(10):987-93.

18. Chand P, Dogra R, Chauhan N, Gupta R, Khare P (2014).

Cytopathological Pattern of Tubercular Lymphadenopathy on FNAC: Analysis of 550 Consecutive Cases. J Clin Diagn Res, 8(9):Fc16-Fc9.

19. Dass A, Jha BC, Nagarkar NM (2001). Cervical tuberculous lymphadenopathy: changing clinical pattern and concepts in management. Postgrad Med J, 77(905):185-187.

20. Ahmed I, Hashmi S (2013). Tuberculosis and Cervical Lymphadenopathy- A study of 175 cases in a Tertiary care hospital, Tawir Oral Hyg Health, 13(1):11-19.

21. Patel KR, Sisodia JA (2014). A Retrospective analysis of prospectively collected data of patients of tuberculous cervical lymphadenopathy confirmed by FNAC carried out at Medical college, Baroda, Gujarat. Int J Res Med, 3(4):124-136.

22. Qadri SK, Hamdani NH (2014). Metastatic Lymhadenopathy in Kashmir Valley: A clinicopathological study. Asian Pac J Cancer Prev, 15(1):419-422.

23. Mitra S, Ray S, và Mitra P (2011). Fine needle aspiration cytology of supraclavicular lymph nodes: Our experience over a three-year period, J Cytol, 28(3):108-110.

24. Mutiullah S, Ahmed Z, và Yunus M (2009). Evaluation of tuberculosis cervical lymphadenopathy. Pakistan Journal of Surgery, 25(3):419-422.

Ngày nhận bài báo: 08/08/2020

Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 20/02/2021 Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021

Referensi

Dokumen terkait

Các biểu hiện gợi ý là bệnh nhân điều trị dai dẳng, sốt lên, khó thở, suy hô hấp, phổi có ran ẩm, ngáy/rít, Xquang ứ khí hay tăng đậm phế quản.. Công thức máu cho thấy kết quả bình

Sự khác biệt ở các nhóm cơ thang, cơ vòng mi, cơ thuộc bàn tay khi thực hiện test kích thích thần kinh lặp với các phân nhóm bệnh nhân trên lâm sàng đã được ghi nhận qua nghiên cứu về

Trong các bệnh lý rối loạn chuyển hóa canxi và phospho, hạ canxi máu cũng là biểu hiện thường gặp nhất.1,2 Hạ canxi máu có biểu hiện triệu chứng lâm sàng đa dạng, từ không triệu chứng

Nghiên cứu ẢNH HƯỞNG CỦA MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG , CẬN LÂM SÀNG LÊN SỐNG CÒN TOÀN BỘ BỆNH NHÂN UNG THƯ DẠ DÀY GIAI ĐOẠN TIẾN XA Nguyễn Thị Hồng Chuyên1 DOI:

Mô tả một số đặc điểm trên phim CT Conebeam của nhóm bệnh nhân hẹp chiều ngang XHT - Độ rộng của nền XHD lớn hơn so với nền XHT trung bình là 23,14mm và độ rộng của xương ổ răng

Theo kết quả nghiên cứu của Chaivichit S, Vũ Xuân Trung, Phạm Thị Hồng Vân và một số tác giả trong nước cũng như nước ngoài khác, các yếu tố nguy cơ có hoặc phát sinh trong môi trường

Chính vì vậy, chúng tôi mạnh dạn đăng ký đề tài “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, nguyên nhân và đánh giá kết quả điều trị suy hô hấp có thở máy ở trẻ sơ sinh tại bệnh viện

- 100% cán bộ y tế thực hiện công tác phòng, chống bệnh không lây nhiễm của thị xã và các xã, phường được đào tạo tập huấn về dự phòng, giám sát, phát hiện, chẩn đoán, điều trị quản lý