NGHIÊN CỨU
RESEARCH
Đổi mới mô hình tăng trưởng để phát triển bền vững:
những vấn đề đặt ra hiện nay
Nguyễn Quang Vinh
Tổng Công ty Viễn thông Mobifone
Asia-PacificEconomicReview
Thực tế đã chothấy có nhiều mô hìnhtăng trưởngtrên thếgiới gắn liền với định hướngphát triển củacác nềnkinh tế khác nhau.Mô hình tăng trưởng trì trệ chú trọng đầutư vào của cải vật chất mà không đầu tư phát triển con người. Mô hìnhnàycó thể đem lại tăng trưởng cao trong ngắn hạn nhưngsau đó sẽ tuột dốc và khó tăngtrưởng trở lại.Mô hình tăng trưởng thiên lệch tuycó chú trọng đến an sinh vàphúclợixã hội songvẫn ưu tiên đều tư vật chất, kinh tế nhiều hơn. Mô hình này kéo dài sẽdẫnđếnsự phát triển méo mó, mất cân đối trongdài hạn. Mô hình tăng trưởng bềnvững chú trọng đầu tư cân đối, không chỉkinh tế mà chú trọnghơn đến nhântố con người, cho giáo dục và y tế, tái tạo nguồn tàinguyên và năng lượcsạch.
1. Mởđâu
Hiện nay, Việt Nam đang thiên về mô hình tăng trưởng liên tụcở cáccấp với cái giáphảitrảkhá lớn trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội và môi trường.
Tăng trưởng một phần trăm kinh tế điliền với nhiều phần trăm suy giảm môi trường sống và gia tăng phân hóagiàu nhgeof là điều không ai mong muốn.
Kinh tếViệt Nam cơ bản là một nền kinh tếgia công và khai thác nguyên liệu thô, lao động giá rẻ. Cho đến thời điểm diễn ra cơnbãotàichính toàncầu, mô hìnhtăng trưởngnước ta vẫndựatrênbốn yếutốlà khai thác tài nguyên, thâm dụng vốn, sử dụng lao động chất lượng thấp và đầu tư lớn cho khu vực doanh nghiệp nhà nước.
Rõ ràng làphương thứctăng trưởng hiệntạichưa tạođược tiềnđềcho một nềnmóng xã hộivững chắc.
An sinh xã hội ởViệtNam đòi hỏi phảiđược cải thiện, từ số giường bệnh, số phòng học cho đễn những khoản cứu trợ vùng nghèo, lũ lụt đều cần có những chính sách được ban hành và thực thi nghiêm túc.
Mặc dù tăng trưởngkinh tế sẽ giúp cho giáo dục và y tế thêmkinh phí để phát triển và nâng caochất lượng bệnhviện, trường học. Song,nếungười dân không có tiền để cho conđi học,không có đủ điều kiện để chi trả những dịchvụ y tế chất lượng cao,khôngcó cơ hội để đi trênnhững xã lộ cao cấp thì nhữngthành quả của tăng trưởng trở nênítcó ý nghĩa.
Sự quan tâm chú ý đến các vấn đề xã hội và sự chia sẻ trách nhiệm trước những nghịch lý nói trên điliền vớitác động của suy giảm kinh tế chưa được chú ý. Tức góc nhìn xã hội, có thể xem xét những thách thức đối với phát triển bền vững trong giai đoạn hiện nay và đề xuất sự cần thiết hướng đến một mô hình tăng trưởngcân bằng, có chất lượng hơn, vì mục tiêu phát triển con người,d dặc biệt trong mộtbối cảnh khuvựcvà thếgiới có nhiều biến động khó lường.
2. Những thách thứchiện nay
Hơn hai thập kỷvừa qua là thờigian ấn tượng về tốc độ tăng trưởngkinh tế, giảm nghèo với những thành quả chuyển đổi đạt được ở Việt Nam. Tốc đọ tăng trưởngkinh tế cao và liên tục trong nhiều năm qua là cơ sở kinhtế cho việc ổnđịnhchính trị,nâng cao thu nhập của người dân. Tuy nhiên, thu nhập bình quân đầungười Việt Nam cũngvẫn còn thấp so với các nước trong khu vựcvà có xuhướng chững lại. Hiệuquả vàchấtlượng đầu tưthấp, mất cân đối, đặcbiệt ít đầu tư cho phát triểnxã hội và con người là một trong những nguyên nhân khiến cho tăng trưởng thiếu bền vững vàổnđịnh.
Đảm bảo an sinh xã hội đanghết sức hạn chế, nhất là ở khu vực nông thôn. Trên 2/3 nông dân trong tình trạng"tay làm, hàm nhai", thiếu tích lũy cần thiết. Hầu hết người già không có lương hưu, không có bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong khi mạngbảo trở xã hội truyền thống dựa trên mạng lướigia đình, người thân và họ hàng đã bị phá vỡ dướitác động của quá trình toàn cầu hóa. Thực tế cho thấy dân số ở nông thôn Việt Nam thu nhập thấp, trong khi dân số đô thị (chiếm 34% dân số) vẫn dưới mức trung bình.Sức muakhó tăng lên khi thu nhậpcủa người lao động cũngthấp vàbấp bênh.
Thịtrường nội địa bị giới hạn do sứcmuakém nên không dễ dàngpháthuy được tiềm năng. Trong khi đó, người nông dân phải tự bươn chải, tự làm và chịurủi ro về biến động giá cả, môitrường,thời tiết.
Đây lànhững thách thức lớn và lâu dài đối với người dân,chứ không chỉ trong giai đoạnhiệnnay.
Tìnhtrạnglươngthấp, giá cả tăng, chấtlượngbữa ăn hàng ngày công nhân khu công nghiệp đã khiến cho lao động ngày càng "tuột dốc", sức khoe đi xuống một cách nhanh chóng. Đặc biệt, vấn đề nhà ở cho công nhân ở các khu công nghiệp vẫnluôn bức xúc, khiến cho người laođộng ở các khu côngnghiệp chỉ
102
Kinh tế Châu Ả - Thái Bình Dương (Tháng 5/ 2022)coi đây là nơi tạmbợ, sẵn sàng bỏ việc đi nơi khác hoặc về quê sinhsống. Sự thiếu hụtngân công tạicác khu công nghiệp là điều không mong muốn,song có thể sẽ tạo nensức ép đối với các doanh nghiệp phải điều chỉnh lương và quan tâm hơn đến phúc lợi của người lao động.Vấn đề là ở chỗ, không phải người lao động thiều gắn bó vớicông việc màtrước hết là do chính sách tiềnlương và chế độ chưa thỏa đáng kiến cho đời sống công nhân gặp nhiều khó khăn, khóyên tâm vớicôngviệc.
Không thể không đề cập đến tình trạng tiêu cực kéodàitrongđời sốngxãhội, nhất là trong lĩnh vực giáo dục, y tế vàdịch vụ hành chính,đanglàm nảy sinh những quan ngại về tính công bằng và kìm hãm sự phát triển xã họi.Văn hóa "phong bì”và đòi hỏi bồidưỡngtừ những ngườisửdụng dịchvụ diễn ra kháphổbiến trongviệc cung cấp dịch vụ công. Lấy vídụ trong lĩnh vực khámchữa bệnh, để tạo nguồn thu caohơn nên các cơ sởy tế cungcấp các dịchvụ trênmứccần thiết, đặc biệt là khi các khoản phải trả cho các cơ sởy tếchủyếu dựa trên nguồn phí dịch yụ, dẫn tới việc lạm dụng các xét nghiệm, côngnghệ Ỉthuốcmen đắttiền, mà người gánhchịu hậu quả
bệnh nhân vàxã hội. Hàngchục triệu người Việt na đang phải gánh chịu giáthuốc chưa bệnh cao lý. Trong khi đó, tình trạng kê các loại thuốc đắt tiỊền, hoặc các loại thuốc đa chức nang, quá liều lượng, thậm chí nhiều khi không cần thiết và bất hợp ly diên ra phổbiếntrong các cơ sở y tế. Đây là một thách thức lớn đối với cả người bệnh và nhà nước, bởixấp xỉ mộtnửa ngân sách chi tiêucho y tế liộn quan tới chi cho dược phẩm.
Tương tự, tình trạngthu và sử dụngcác khoản đóng góp củagia đình học sinh - một ngườilực rất lớn cho xã hội - cũng thiếu minh bạch và không đượcthể chế hóa chặtchẽ, đã tạo ra cơ hội chocác cơ sở giáo dục đào tạo lạm dụng và đặt gánh nặng cl í quá lớnlênvai cácgia đình. Chiphí giáodục cũing ở mức cao đối với các gia đình nghèo. Những khoản chỉ cao so với thu nhậpcủa hộ gia đình tạora rào cản đối với cơ hội họctập củatrẻ em, đặcbiệt nhómtrẻ emnghèo và trẻ em các dân tộc thiểu số.
Trọng khi đó, việc đi họckhông đảm bảo có được một nghề nghiệp. Một số lượng lớn sinh viên tốt nghiệp đại học không xin đượcviệclàm, chưa nói là việc iam phù hợp, cũng là mộtminh chứngchothực trạng trên.
Phương thức tạo veiecj làm trong nước những năm tới ở Việt Nam về cơ bản vẫn theo phương châm xã hộihóa: đó là nhà nước, xãhộivà bản thân
ng’ _ A ’
làrri- Song, giải quyết việclàm đối với khuvựcnông thôn Việt Nam vẫn là vấn đề lớn bởi hai lẽ: một là do quá trình đô thị hóavà công nghiệp hóa còn tiếp tục, nê
nghiệp vẫndiễn ra đòihỏiphảicó việclàm mới cho 'ời lao động cùng tạo việc làm, giải quyết việc
việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nông dân mất đất; hai là, cần chuyển dịch một số lượng lớn lao động nông nghiệp sang các ngành công nghiệp, xaay dựng và dịch vụ đòi hỏi phải tạo ra nhiều việc làmtronglĩnhvực này. Việt Nam cãn xem xét đầu tư cho khu vực dịch vụ để có thể tạo được nhiều việc làm. Đây là nhiệm vụ nặng nề và khó khăn, song không thể không thực hiện.
Trong khi đó, chất lượng nguồn nhân lực đang cản trở sựbứt phá củaViệt Nam. Tại cácnướcphát triển, do đầu tư tốt vào chất lượnggiáo dục nên yếu tốkhoahọc công nghệ đónggóp vào tăng trưởng giá trị gia tăng 70-80%, còn ở Việt Nam thì mức đóng góp hàmlượng chất xám cònkhiêmtốn, chỉ khoảng 10-15% nên giá cả sản phẩm hàng hóa xuất khẩu vẫn thấp,giá trị thu về chonền kinh tế hạn chế.Bên cạnh đó, những khó khăn như thiếu kinh nghiệm quản lý và thiếulao động có taynghề đangđe dọa sự phát triểnbềnvững. Hiện nay,tỷ lệ lao động đãqua đào tạochỉ chiếm khoảng 30% lực lượng lao động.
Gần 80% lao động trẻ ở độ tuổi từ 20-24 khi tham gia vào thị trườnglao động hầu nhưchưa qua đào tạo nghề, không đápứngđược nhu cầu tuyển dụng.
Chất lượng lao động thực sự thấpkhi năng suất lao động ước tính chỉ đạt xấp xỉ 1600 USD/lao động/năm, thấp hơn nhiều so với mức năng suất bình quân thế giới là 14.600USD.
Trước những thựctế nói trên, tăng trưởng kinh tế phải hướng đến mục tiêu phát triển con người, đảmbảo tính bềnvững xã hội, tạo ra nhiềuviệc làm, thu nhập, nâng cao trình độ tay nghề vàphúc lợi xã hội. Đây làphươngthức tăngtrưởng được ưutiên lựachọntrong giaiđoạn hậukhủng hoảng. Việc mở rộng các cơ hộiviệc làm thực sự sẽ là cầu nốiquan trọng giữa tăng trưởng vàphát triển con người.Tái cấu true nền kinh tế đòi hỏi nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua giáo dục,học vàdạynghề phùhợpvớingười dân với sự tham giatíchcực của nhiều thành phần kinh tếvàđầu tư củaChính phủ.
Mặc dù có chủ trương đúng, quá trình tăng trưởng kinh tếtrong những năm quachưa góp phần mở rộng những cơ hội việc làm và thu nhập cho người dân,tận dụng tốt hơn lực lượng lao động,cần chú trọng cải thiện môi trường đầu tư, phát triển sản xuấtkinh doanh, dịch vụ, sửdụng có hiệu quả các nguồnvốn đầu tư phát triển, song song với nâng cao chất lượng việc làmvà chất lượng nguồn nhân lực. Cầncó những giải pháp cụ thể và hữu hiệu hơn về an sinh xã hội, cải thiện thu nhập và điều kiện sống.
3. Hướngtới mô hình phát triển bền vững ở Việt Nam
Mô hình tăng trưởng trên thế giới hiện nay không còn như trước. Tăng trưởng dựa vào xuất khẩu sản phẩm thô, lao động giá rẻ, khai thác cạn kiệt tài nguyên, gâynên thảm họa môi trườnglà đi
Kinh tế Châu Ả - Thái Bình Dương (Tháng 5/ 2022)
103
NGHIÊN CỨU
RESEARCH
ngược lại với mục tiêu phát triển bềnvững. Đâylà phương thức tăng trưởng không có tương lai và không được sự chấp nhận ở nhiều quốc gia. Nếu chạy theo con sốtăng trưởngthì sẽđưa đếnsự mất thăng bằng của nền kinhtế,và khi bị duytrì trong một thời gian dài sẽ tạo ra sự bất ổn và hàng loạt hậu quảxãhội khác.
Phương thức tăng trưởng của Việt Nam trong những năm qua chủyếu dựavào vốn đàu tư công, xuất khẩu tài nguyên, lao động giá rẻ, là mô hình tăng trưởng theo chiều rộng và đã đếntới hạn. Các vấn đề nhạy cảm như ô nhiễm môi trường, quy hoạch thiếu cân đối, đầu tư tràn lan, tỷ lệ nghèo không ổn định khi tiếpcận với chuẩn mựcthế giới, mất cân đốitrong phânphối thu nhập giữa các vùng, nănglựccạnhtranhthấp xuất hiện ngaycàngnhiều trong nền kinh tế. Rõ ràng là tăng trưởng diễn ra không thể bằng mọi cách. Tuy nhiên, các chỉ tiêu kinh tế trongkế hoạch 5 năm giai đoạn 2016-2020 của Việt Nam được đặc ra khá lạc quan, và vẫn cho thấyxu hướng chạy theo tốc độ tăngtrưởng.
Việt Nam cần chuyển hướngmạnhsangmô hình tăngtrưởng bền vững, chú trọng chất lượng dù với tốc độ không nhanh nhưn mong muốn, bởi lợi ích mà mô hình này đồngbộ hơn, hiệu quả và bềnvững hơn. Đầu tư tạo công ăn việc làm, nhà ở cho người lao động thu nhập thấp... làgiải pháp để phân phối tốt hơn các thành quả tăng trưởng, thúc đẩy hòa nhập xã hội. Quá trình tăng trưởngtớiđây cần tính đến một số các trở ngại như khảnăng liênkết xã hội hạn chế, lòng tin và mức độ thamgia củangười dân vào các quyết địnhcủa bộ máy công quyền, nhất là với các dự án công, hiện đang ở mức thấp. Tuy nhiên, nếu biết đầu tư và đầu tưđúng nhu cầu xã hội,trúng lĩnh vực thì nền kinhtếvà xã hội sẽ được hưởng lợi và mục tiêu gắn tăngtrưởng kinh tế với côngbằng và tiến bộxãhộisẽ trở nên hiện thực.
Để có thể đảm bảo công ăn việc làm về lâu dài, cần cú trọng cải thiện môi trường đầutư, phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ, sử dụng cóhiệu quả các nguồn vốn đầu tư phát triện,song song với nâng caochấtlượng việc làm và điều kiệnsốngchongười lao động.Câuchuyện thị trường lao động biến động đã trở thanh nỗi ám ảnh đối với nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động phổ thông. Tuynhiê,tình trạngnày phảnánh những khó khăn bất cập của người lao động như điều kiện lao độngđộchại, chẽ độ đãi ngộ kém, bớt xén phúc lợi và nợ đọng.bảo hiểmcủa côngnhân...
Tái cấu trúc kinh tế sẽgópphần đổi mớimôhình tăng trưởng, giúp cho nền kinh tếdẻo dai hơn trước nhữngcú sốc, trong đó nâng cao chấtlượng nguồn nhân lực là một trongnhững nút thắt càn được ưu tiên. Song, táicấutrúckinh tế khôngthểhành động và diễn ra theoýmuốnchủ quan mà phải dựa trên cáctieefnd dề và điều kiện cho quá trình chuyển đổi
đó. Tái cấu trúccũngnhư tăng trưởng chỉ làphương tiện chứkhôngphải mụctiêu cuối cùng. Thực tếViệt Nam vàkinh nghiệm củanhiều quốc gia trong khu vực cho thấy mục tiêucuối cùng đạtđượckhông chỉ phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng mà ở sự bền vững xã hội. Tuy nhiên,cácyếu tố quyết địnhchất lượng tăng trưởng, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nhưnguồn nhân lực, năng lực sáng tạo, đổi mới công nghệ cũng thiếu và yếu ở nước ta. Để tăng trưởng có hiệu quả cao, cần có nhiều hàm lượng chấtxám trong sản phẩm do nguồn nhân lực chất lượng cao tạo ra. Cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực như là đầu tư vào phát triển con người, thông qua đổi mới công tác giáo dục, dạy nghề, nghiên cứu và triển khai phù hợp vì đây là những nhântố quyếtđịnh hiệu quả tăng trưởng, đòi hỏi sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế và giai tầng xãhội./.
Asia-PacificEconomicReview
Tài liệutham kháo
Hiền Hòa (2022). Chuyển đổi mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế: Kinh nghiệm 35 năm đổi mới. https://dangcongsan.vn/thoi-su/chuyen- doi-mo-hinh-tang-truong-co-cau-lai-nen-kinh-te- kinh-nghiem-35-nam-doi-moi-608875.html
BùiTấtThắng(2019). Mộtsốvấn đề đặt ra về cơ cấu lại, đổi mới mô hình tăng trưởng hiện nay.
http://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/mot-so- van-de-dat-ra-ve-co-cau-lai-doi-moi-mo-hinh-tang- truong-hien-nay.html
Nghị quyết số 05-NQ/TW, ngày 1-11-2016, Hội nghị Trung ương4 khóaXII "Về một số chủtrương, chính sách lớn nhằm tiếp tụcđổi mới mô hìnhtăng trưởng, nângcao chấtlượng tăng trưởng, năngsuất lao động,sứccạnh tranh của nền kỉnhtế"
Văn kiệnĐại hộiđạibiểu toànquốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc giaSự thật, Hà Nội, 2021