càng xuống thấp, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
- Giới tính: Tỷ lệ đầu sonde JJ tại bàng quang ngang và dưới khớp mu của nữ giới cao hơn nam giới, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,001.
- Nước tiểu có máu: Đầu sonde JJ trong bàng quang càng cao thì tỷ lệ nước tiểu có máu càng tăng, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
- Đi tiểu ban đêm: Đầu sonde JJ tại bàng quang càng ở thấp thì số lần đi tiểu vào ban đêm càng tăng, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đàm Văn Cương, Lê Quang Dũng (2001),
"Kết quả bước đầu qua 50 ca tán sỏi niệu quản dưới bằng phương pháp nội soi", Tạp chí Y học Việt Nam;Chuyên đề tiết niệu bệnh học:75-8.
2. Dan Leibovici MD Amir Cooper MD, Arie Lindner MD et al (2005), "Ureteral Stents:
Morbidity and Impact on Quality of Life", Original Articles;7(491-494).
4. Đỗ Thu Tình, Trần Văn Long, Vũ Mạnh Độ, Nguyễn Thị Thanh Huyền, Nguyễn Thị Thùy (2020), "Nghiên cứu ảnh hưởng của sonde JJ đến người bệnh sau tán sỏi niệu quản nội soi ngược dòng tại bệnh viện đa khoa tỉnh Nam Định năm 2020 ", Khoa học Điều dưỡng Tập 03 - Số 05:38-45.
5. Trần Lê Linh Phương, Nguyễn Tấn Cường, Nguyễn Hoàng Đức, Chung Tuấn Khiêm (2006), "Khảo sát chất lượng cuộc sống của các bệnh nhân mang sonde Double J niệu quản sau các phẫu thuật niệu", Tạp chí Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh;Số 10:64-8.
6. Victor G. Ilie Vlad I. Ilie (2017), "Ureteric Stent Use – Part of the Solution and Part of the Problem", Curr Urol 11:126–130(DOI:
10.1159/000447206).
KẾT QUẢ CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ ÁP XE TUYẾN TIỀN LIỆT TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
Ngô Xuân Thái1,2, Nguyễn Hoài Phan2, Lý Hoài Tâm2, Phạm Đức Minh1,2, Nguyễn Thành Tuân1,2, Đỗ Văn Công2,
Quách Đô La2, Đinh Lê Quý Văn2, Thái Minh Sâm1,2 TÓM TẮT25
1Bộ môn Tiết niệu học – Đại học Y Dược Tp Hồ Chí Minh
2Khoa Ngoại Tiết niệu – Bệnh viện Chợ Rẫy Tác giả liên hệ: ThS.BS Nguyễn Hoài Phan Email: [email protected] Ngày nhận bài: 13/8/2021
Ngày phản biện: 11/9/2021 Ngày duyệt bài: 20/9/2021
Mục tiêu: Áp xe tuyến tiền liệt (TTL) là một cấp cứu niệu khoa hiếm gặp nhưng lại là một bệnh lý nhiễm khuẩn nặng của tuyến tiền liệt với tỉ lệ tử vong cao nếu không được điều trị thích hợp. Bệnh gây ra những biến chứng nghiêm trọng như nhiễm khuẩn huyết từ đường tiết niệu, choáng nhiễm khuẩn và tử vong. Chính vì vậy, chẩn đoán và điều trị hợp lý áp xe tuyến tiền liệt vẫn là thách thức đối với các bác sĩ lâm sàng.
Cho đến nay, vẫn còn rất ít nghiên cứu chứng
minh phương pháp điều trị nào là hiệu quả hơn ở bệnh nhân bị áp xe tuyến tiền liệt. Chúng tôi báo cáo kết quả chẩn đoán và điều trị áp xe tuyến tiền liệt tại khoa Ngoại Tiết Niệu, bệnh viện Chợ Rẫy, Thành Phố Hồ Chí Minh.
Đối tượng và Phương pháp: Mô tả loạt trường hợp áp xe tuyến tiền liệt được chẩn đoán và điều trị tại khoa Ngoại Tiết Niệu, bệnh viện Chợ Rẫy trong thời gian từ 01/2017 đến 01/2021.
Ghi nhận các biến số lâm sàng, cận lâm sàng, vi sinh và kết quả điều trị.
Kết quả: Tất cả 45 trường hợp (TH) áp xe TTL được chẩn đoán qua siêu âm TTL qua ngã trực tràng, MRI hoặc chụp CT scan. Tuổi trung bình 51,51 tuổi (24-85 tuổi). Đái tháo đường, xơ gan và nhiễm khuẩn đường tiết niệu là các yếu tố nguy cơ thường gặp nhất. Triệu chứng đường tiết niệu dưới, sốt lạnh run, đau vùng tầng sinh môn là 3 dấu hiệu cơ năng thường gặp, chiếm gần 90% TH. Tuyến tiền liệt đau chói và phập phều khi thăm khám trực tràng bằng ngón tay là triệu chứng thực thể điển hình, gặp trong 2/3 các TH.
Thể tích trung bình của TTL là 57,4 ± 30,86 ml (25 – 180ml). Áp xe đơn ổ chiếm 46,67% các TH, 53,33% các TH có từ 2 đến 4 ổ áp xe, 90%
có kích thước lớn hơn 1cm. Về vi sinh, 50% các TH cấy mủ từ ổ áp xe không mọc, 50% các TH ghi nhận các loại vi khuẩn bao gồm E.Coli, Burkho Pseudomallei, Klebsiella Pneumonie, Pseudomonas, Staphylococcus Aureus… trong đó tác nhân chiếm đa số là E.Coli và Burkho Pseudomallei. Ngoài ra chúng tôi ghi nhận được 4/45 TH mủ từ ổ áp xe dương tính với vi trùng lao. Về điều trị, 4/45 TH (8,89%) được điều trị nội khoa bảo tồn; đa số các TH được can thiệp ngoại khoa, cụ thể: 23/45 TH (51,11%) được phẫu thuật mở bàng quang ra da kèm rạch thoát lưu áp xe, 12/45 TH (26,67%) được chọc hút bằng kim qua siêu âm ngã trực tràng, 6/45 TH (13,33%) được cắt đốt nội soi TTL qua ngã niệu đạo để thoát lưu mủ. Kết quả: tỉ lệ thành công
44/45 TH, tử vong 1 do choáng nhiễm trùng, suy đa cơ quan.
Kết luận: Áp xe tuyến tiền liệt là một nhiễm khuẩn nặng, có tỉ lệ tử vong cao. Điều trị thành công áp xe tuyến tiền liệt cần chẩn đoán sớm, điều trị kịp thời kháng sinh kết hợp phẫu thuật dẫn lưu ổ nhiễm khuẩn. Việc chọn lựa kháng sinh điều trị cần tuân thủ nghiêm ngặt hướng dẫn sử dụng kháng sinh của mỗi cơ sở y tế.
Từ khoá: Áp xe tuyến tiền liệt, siêu âm tuyến tiền liệt qua ngã trực tràng, nội soi cắt đốt dẫn lưu áp xe qua ngã niệu đạo.
SUMMARY
CLINICAL CHARACTERISTICS AND TREATMENT OUTCOMES OF PROSTATE ABSCESS AT CHO RAY
HOSPITAL
Objectives: A prostatic abscess is an uncommon urological emergency but it is a serious infection of the prostate with a high mortality rate unless properly treated. It may result in severe complications, urosepsis and death. Diagnosis and proper treatment of prostatic abscesses remains a challenge for physicians. However, there are few reports comparing the treatment of prostate abscess according to treatment modalities. The aim of this study was to characterize clinical features and evaluate treatment outcome of prostate abscess treated in Department of Urology at Chợ Rẫy Hospital.
Methods: A case series of patient with prostate abscess hospitalized at Cho Ray hospital from January 2017 to January 2020.
Results: There are 42 cases of protstate abscess confirmed by transrectal ultrasonography (TRUS), MRI or CT scanner. Mean age was 51.51 years old (24-85). Diabetes mellitus and urinary tract infection were the most predisposing risk factors. The most common
presenting symptoms were lower urinary tract symtomps, fever-chill and perineal pain (more than 90% of cases). The most typical sign of prostatic abscess is a severely tender prostate with areas of fluctuation on digital rectal examination (66.66%). 50% of cases in which we did not find any organisms from the pus. The single cavity of abscess was found in 46.67% of cases. 53.33% of cases had multiple cavities of abscess. In 50% of other cases, we found some pathogens such as: E.Coli, Burkho Pseudomallei, Klebsiella Pneumonie, Pseudomonas, Staphylococcus Aureus. E.Coli and Burkho Pseudomallei were the predominant pathogens.
Also, Mycobacterium tuberculosis was found in pus of 4/45 of cases. Regarding management, 4/45 of cases underwent conservative treatment.
Most of cases underwent surgical interventions, including: 23/45 of cases underwent open cystostomy combined with abcess drainage;
12/45 of cases underwent TRUS-guided aspiration; 6/45 of cases underwent transurethral rescetion deroofing. Result: successful: 44/45 cases, mortalities 1 case, cause septic shock and multi-organ failure.
Conclusion: Prostatic abscess is a serious infection of the prostate with a high mortality rate. Successful treatment of prostate abscess includes early diagnosis, properly antibiotic administration, and interventional surgery. The decision of empirical antibiotics should be strictly followed by antibiotic use guidelines of each medical facility.
Keywords: Prostate abscess, TRUS, TUR deroofing.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Áp xe tuyến tiền liệt (AXTTL) là một bệnh lý hiếm gặp và khó chẩn đoán, có thể xảy ra ở bất kỳ lứa tuổi nào đặc biệt thường gặp hơn ở nam giới từ 50 tuổi trở lên(4). Theo
y văn, tần suất chẩn đoán áp xe tuyến tiền liệt chỉ chiếm 0,2% trong số bệnh nhân có triệu chứng về đường tiết niệu dưới và chiếm 0,5- 2.5% triệu chứng của bệnh lý tuyến tiền liệt(3,4,10). E.Coli là tác nhân gây bệnh chủ yếu với hơn 70% trường hợp, thường gặp trên những bệnh nhân lớn tuổi có triệu chứng bế tắc đường tiết niệu dưới hoặc nhiễm khuẩn đường tiết niệu, đặt biệt nguy cơ cao trên những bệnh nhân có hệ thống miễn dịch bị tổn hại như bệnh nhân bệnh thận mạn đang chạy thận nhân tạo, ung thư, đái tháo đường, xơ gan, hay HIV/AIDS(4,10).
Áp xe tuyến tiền liệt nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời có thể dẫn đến nhiễm khuẩn huyết nặng, suy đa cơ quan, thậm chí tử vong. Điều trị chủ yếu bao gồm kháng sinh và dẫn lưu ổ áp xe. Có nhiều phương pháp dẫn lưu áp xe tùy theo kích thước, số lượng ổ áp xe, tuy nhiên các phương pháp can thiệp ít xâm lấn như chọc hút áp xe dưới hướng dẫn siêu âm ngã trực tràng đang dần chiếm ưu thế và được ưa chuộng(7,9,10).
Hầu hết các nghiên cứu về áp xe tuyến tiền liệt trên thế giới và trong nước là báo cáo trường hợp ca, vẫn còn thiếu chứng cứ và y văn chưa có phát đồ cụ thể trong chẩn đoán và điều trị. Do đó, khi đối mặt với bệnh lý này, các nhà lâm sàng thường gặp khó khăn và thử thách, thậm chí có thể bỏ sót hoặc chậm trễ trong chẩn đoán áp xe TTL.
Chợ Rẫy là một trung tâm điều trị nhiễm khuẩn, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này với mong muốn giúp các bác sĩ lâm sàng trong nước có những dữ liệu tổng quan quan trọng về các đặc điểm lâm sàng, vi sinh và các phương pháp tiếp cận dẫn lưu áp xe tuyến tiền liệt, góp phần hướng dẫn và nâng cao hiệu quả điều trị AXTTL.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu mô tả loạt trường hợp. Những bệnh nhân được chẩn đoán áp xe tuyến tiền liệt và được điều trị tại BV Chợ Rẫy 01/2017 đến tháng 01/2021. Bệnh nhân được chẩn đóan áp xe tuyến tiền liệt dựa vào bệnh sử, thăm khám trực tràng và một trong những phương tiện chẩn đoán hình ảnh siêu âm trực tràng (TRUS), CT scan hoặc MRI bụng chậu.
Tất cả bệnh nhân đều được khởi đầu điều trị kháng sinh theo phân tầng kháng sinh của bệnh viện, sau đó sẽ điều chỉnh kháng sinh phù hợp theo kháng sinh đồ. Can thiệp dẫn lưu áp xe tuỳ vào kích thước, số lượng ổ áp xe và tình trạng bệnh nhân. Các phương pháp dẫn lưu bao gồm: chọc hút dẫn lưu bằng kim qua siêu âm trực tràng, nội soi rạch áp xe qua ngã niệu đạo, cắt đốt nội soi qua ngã niệu đạo và mổ mở.
Đánh giá kết quả dựa vào: cải thiện lâm sàng và giảm ít nhất 50% thể tích ổ áp xe sau khi điều trị, các biến chứng thủ thuật, thời gian nằm viện, siêu âm kiểm tra.
Số liệu được nhập và xử lý bằng phần mềm SPSS 20. Kiểm định các mối liên quan
bằng 2, T-test, Fisher, RR ở mức ý nghĩa 5%, khoảng tin cậy 95% để đo lường sự khác biệt.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong thời gian 4 năm từ 01/2017 đến 01/2021 có 45 trường hợp AXTTL được chẩn đoán và điều trị tại BV Chợ Rẫy, tuổi trung bình 51,51 ± 10,2 (24-85), đa số bệnh nhân có các bệnh lý nhiễm khuẩn đường tiết niệu trước đó (gần 50%) và 36% TH có bệnh nền đái tháo đường.
Có 35/45 TH tăng bạch cầu máu lúc nhập viện với bạch cầu máu trung bình 14,45 2,4.
PSA trung bình thời điểm nhập viện: 5,7
± 4,44 (0,04 – 100) ng/dL, có 1 TH có PSA tăng cao 100 mg/dl. Thể tích trung bình của TTL 57,4 ± 30,86 ml (25 – 180).
Phần lớn triệu chứng lâm sàng thường gặp là LUTS (85%) và dấu hiệu phập phều khi thăm khám tuyến tiền liệt (chiếm gần 70%
các TH). Bảng 1.
Có 4/45 TH (9%) có biến chứng choáng nhiễm khuẩn kèm theo và 1 TH ổ áp xe vỡ vào niệu đạo.
Bảng 1. Các triệu chứng lâm sàng của áp xe tuyến tiền liệt
Triệu chứng lâm sàng TH (n=45) Tỉ lệ %
Triệu chứng cơ năng
LUTS 38 84,44%
Sốt 25 55,56%
Đau tầng sinh môn 18 40%
Triệu chứng thực thể
Đau tuyến tiền liệt 28 62,22%
Dấu hiệu phập phều 30 66,67%
Chúng tôi chẩn đoán AXTTL chủ yếu dựa vào các xét nghiệm hình ảnh học với 28 TH siêu âm bụng (62,2%) kèm với chụp cắt lớp vi tính cho 27 TH (60%), hoặc có thể siêu
âm qua ngã trực tràng (TRUS) với 18 TH (40%) hoặc chụp MRI (2 TH, 4,4%). Qua hình ảnh học, nghiên cứu ghi nhận áp xe đa ổ chiếm tỷ lệ khoảng 53,33% với đa số các TH
có kích thước ổ áp xe > 1cm (93%).
Tất cả các bệnh nhân đều được cấy máu và cấy nước tiểu trước khi cho kháng sinh và nếu có can thiệp dẫn lưu sẽ được cấy mủ và làm BK, PCR lao. Tỷ lệ cấy mủ phát hiện tác nhân nhiễm khuẩn trong 20/40 TH (50%).
Phần lớn vi khuẩn trong các mẫu cấy là Gram âm 92% với E. coli chiếm 8/33 TH, kế đến là Klebsiella (7/33), Burkholderia (6/33 TH). 4/45 TH cấy mủ dương tính với lao, trong đó có 1 TH bệnh nhân dương tính với HIV.
Biểu đồ 1. Tỷ lệ các loại vi khuẩn được phân lập trong các môi trường cấy
Tất cả bệnh nhân đều được khởi động kháng sinh ngay thời điểm nhập viện theo phác đồ hướng dẫn sử dụng kháng sinh của bệnh viện với kháng sinh sử dụng nhiều nhất là nhóm carbapenem (chiếm 59%), có 15/45 BN được sử dụng phối hợp từ 2 kháng sinh trở lên. Đa số kháng sinh sử dụng phù hợp với kết quả kháng sinh đồ với tỷ lệ nhạy kháng sinh nhóm carbapenem còn cao (hơn 90%).
Biểu đồ 2. Tỷ lệ nhạy cảm kháng sinh của vi khuẩn Gram âm Trong nghiên cứu này, ngoài điều trị
kháng sinh thì phần lớn các TH được can thiệp ngoại khoa dẫn lưu áp xe chiếm 91,11%. 4/45 TH được điều trị nội khoa bảo tồn thành công, những TH này có kích thước
ổ áp xe nhỏ hơn 1cm.
Kết quả điều trị:
Đại đa số các TH đáp ứng điều trị và xuất viện hoặc chuyển tuyến dưới, không ghi nhận tai biến điều trị hoặc tái phát
Gram âm 91,91%
Gram dương 9,09%
(44/45TH).
Có 1 TH tử vong, bệnh nhân choáng nhiễm khuẩn, suy đa cơ quan, nhiều bệnh
nền. BN được can thiệp mổ mở dẫn lưu áp xe, mở bàng quang ra da. BN tử vong sau khi chuyển hậu phẫu.
Bảng 2. Các phương pháp điều trị áp xe tuyến tiền liệt
Phương thức điều trị TH Tỉ lệ %
Điều trị nội khoa bảo tồn 4 8,89%
Mở bàng quang ra da + Dẫn lưu áp xe 23 51,11%
Cắt đốt nội soi qua ngã niệu đạo 6 13,33%
Chọc hút bằng kim qua siêu âm trực tràng 12 26,67%
Tổng 45 100
IV. BÀN LUẬN
Áp xe tuyến tiền liệt là một bệnh lý hiếm gặp, thường là biến chứng của viêm tuyến tiền liệt cấp không được điều trị hoặc điều trị không đầy đủ do nhiễm khuẩn ngược dòng từ các ổ vi áp xe ở ngoại vi tuyến tiền liệt, với tỷ lệ tử vong từ 3-16%(3,10). Áp xe tuyến tiền liệt có mối tương quan chặt chẽ trên một số đối tượng nguy cơ cao như có bệnh lý tắc nghẽn đường tiết niệu dưới, cơ địa suy giảm mễn dịch như đái tháo đường, xơ gan, suy thận, ghép tạng hoặc HIV/AIDS(4).
Triệu chứng thường gặp của áp xe tuyến tiền liệt có thể không đặc hiệu, rất giống với triệu chứng của viêm tuyến tiền liệt cấp do vi khuẩn bao gồm: triệu chứng đường tiết niệu dưới (tiểu khó, tiểu lắt nhắt, tiểu gấp,…), đau trên xương mu, cảm giác đau hoặc căng tức vùng chậu, tầng sinh môn hoặc hiếm hơn là tiểu mủ, tiểu máu. Thăm khám trực tràng bằng ngón tay có 95% các trường hợp thăm khám thấy đau tuyến tiền liệt và dấu hiệu TTL mềm hoặc phập phều tại vị trí khối áp xe biểu hiện ở 16-88% trong các nghiên cứu(6,8,10). Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy thăm khám trực tràng là dấu hiệu quan trọng
giúp trong cả chẩn đoán và dẫn lưu áp xe, với tỷ lệ phát hiện là 66,7%.
Kể từ khi ra đời liệu pháp kháng sinh phổ rộng, đáp ứng của loại vi khuẩn đối với sự tiến triển của áp xe TTL đã thay đổi đáng kể(4). Trước đây, 75% áp xe tuyến tiền liệt là do lậu cầu, hiện nay, vi khuẩn Gram âm đặc biệt là E.coli là tác nhân gây bệnh chủ yếu chiếm hơn 70% trường hợp. Đối với trường hợp theo đường máu từ một ổ nhiễm khuẩn nguyên phát ở nơi khác như phổi, đường tiêu hóa, da, áp xe quanh thận, vi khuẩn thường gặp nhất là Staphylococcus aureus, Mycobaterium tuberculosis hoặc Burkholderia pseudomallei gây bệnh Melioidosis(3,4,9).
Các phương tiện chẩn đoán hình ảnh như siêu âm trực tràng (TRUS), CT scan hoặc MRI ngày càng đóng vai trò quan trọng trong chẩn đoán và điều trị áp xe tuyến tiền liệt với độ nhạy và đặc hiệu cao. Những báo cáo gần đây cho thấy MRI, CT scan không lợi thế hơn về chi phí hiệu quả so với TRUS trừ khi áp xe thâm nhập ra ngoài vỏ bao TTL hoặc những ổ áp xe ngoại vi. TRUS là kỹ thuật được sử dụng rộng rãi trong chẩn đoán
và hướng dẫn chọc hút, dẫn lưu áp xe TTL cũng như đánh giá đáp ứng điều trị(3,6,10).
Chẩn đoán sớm AXTTL là điều kiện thuận lợi cho quá trình điều trị có thể kéo dài và phức tạp với nhiều trường hợp cần phảỉ can thiệp dẫn lưu. Cho đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có 1 hướng dẫn hay toán đồ về điều trị AXTTL mà chủ yếu dựa vào sự đồng thuận của các chuyên gia và có thể xem như là một hướng dẫn tiêu chuẩn cho điều trị AXTTL với các nguyên tắc: cho kháng sinh phổ rộng, dẫn lưu áp xe để giảm thiểu diễn tiến đến các biến chứng, chuyển lưu nước tiểu nếu có bế tắc đường tiết niệu dưới đi kèm và hồi sức nội khoa điều chỉnh các rối loạn đi kèm(2,3,8). Theo Ludwig và Ackerman, điều trị nội khoa bảo tồn nên dành cho áp xe đơn ổ có đường kính <1cm và thời gian đánh giá đáp ứng kháng sinh là 2 tuần(4,10). Nghiên cứu của chúng tôi phần lớn là áp xe đa ổ và kích thước lớn với 93%
các trường hợp, 4/45 TH có kích thước ổ áp xe < 1cm được điều trị nội khoa thành công, phù hợp với các khuyến cáo của các tác giả.
Kháng sinh được khởi động ngay thời điểm nhập viện với gần 60% TH là nhóm carbapenenem và có 15/45 TH cần phối hợp nhóm aminoglycoside hoặc metronidazole, chúng tôi phân tầng lựa chọn kháng sinh theo phác đồ hướng dẫn của bệnh viện Chợ Rẫy(1).
Các tác giả đều đồng thuận rằng chỉ định ngoại khoa nên được thực hiện đối với các trường hợp sau: áp xe tuyến tiền liệt đa ổ, đường kính ổ áp xe >1cm, áp xe tái phát, có choáng nhiễm khuẩn, áp xe có kèm theo tắc nghẽn đường tiết niệu dưới liên quan đến bệnh lý tăng sinh lành tình tuyến tiền liệt và điều trị nội khoa thất bại(3,4,10). Dẫn lưu áp xe tuyến tiền liệt không phải là mục tiêu duy
nhất của bác sĩ tiết niệu. Mục tiêu của điều trị là giảm biến chứng và tử vong của phẫu thuật dẫn lưu, giảm nhu cầu điều trị lại và bảo tồn chức năng tiết niệu và sinh dục bình thường, đặc biệt ở những bệnh nhân trẻ tuổi(3,4,9). Có nhiều phương pháp dẫn lưu như chọc hút bằng kim, nội soi dẫn lưu qua ngã niệu đạo hoặc mổ mở, chọc hút dẫn lưu áp xe bằng kim qua TRUS là thủ thuật ít xâm lấn, cho kết quả tốt và rất được ưa chuộng cho hầu hết các trường hợp hiện nay(6,7,8). Collado và cs (1999), Lim và cs (2000) đã báo cáo điều trị chọc hút áp xe bằng kim cho kết quả tốt và ít tái phát với số TH lần lượt là 20 và 12. Trong khi, Suresh (2008) đã thực hiện 31/48 trường hợp dẫn lưu áp xe qua cắt đốt nội soi qui ước hoặc nội soi xẻ thoát lưu cho kết quả dẫn lưu triệt để, tránh tái phát.
Khi ổ áp xe lớn, đặc biệt nằm ở vùng trung tâm, áp xe đa ổ, áp xe tái phát hoặc áp xe tồn lưu thì phương pháp nội soi xẻ thoát lưu mủ (TUR deroofing) qua ngã niệu đạo giúp dẫn lưu áp xe tốt hơn và bệnh nhân nhanh chóng phục hồi hơn(4,7,9). Trong nghiên cứu này, chúng tôi thực hiện dẫn lưu thành công gần 50% các TH bằng chọc hút áp xe qua siêu âm trực tràng hoặc cắt đốt nội soi rạch áp xe qua ngã niệu đạo, không ghi nhận tai biến và tái phát sau thủ thuật. Tỷ lệ mổ hở trên xương mu+dẫn lưu bàng quang trong nghiên cứu còn cao với hơn 50% TH do Chợ Rẫy là bệnh viện tuyến cuối, tiếp nhận điều trị phần lớn là các bệnh nặng cần phải can thiệp nhanh chóng và triệt để nhằm giảm thiểu biến chứng và tử vong cho bệnh nhân.
Nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy can thiệp ngoại khoa trên 91% các TH cho tỷ lệ thành công cao tương tự các nghiên cứu khác từ 60-93%, chỉ 1 TH tử vong do choáng nhiễm khuẩn, suy đa cơ quan, nhiều bệnh
nền, không TH nào tái phát cần phải can thiệp lại hoặc có biến chứng. Qua đó cũng cho thấy điều trị phẫu thuật là một trong những phương thức tiếp cận quan trọng nhất đối với áp xe tuyến tiền liệt, tuy nhiên lựa
chọn phương pháp nào tùy thuộc tình trạng lâm sàng của bệnh nhận, kích thước, số lượng ổ áp xe và điều kiện sẵn có của từng trung tâm.
Hình 1. Chọc hút ổ áp xe TTL dưới hướng dẫn của siêu âm ngã trực tràng(5)
Hình 2. Lưu đồ khuyến cáo xử trí áp xe tuyến tiền liệt theo kích thước ổ áp xe theo tác giả Abdelmoteleb(3)
Chẩn đoán AXTTL TRUS
> 1cm
< 1cm
Điều trị bảo tồn + kháng sinh Dẫn lưu qua siêu âm + kháng sinh
Chữa khỏi
Không đáp ứng với kháng
sinh
CT/MRI
Khu trú trongTTL Áp xe ra ngoài vỏ bao TTL
Dẫn lưu qua TUR Mổ mở dẫn lưu
V. KẾT LUẬN
Áp xe tuyến tiền liệt là một dạng lâm sàng nặng của nhiễm khuẩn đường tiết niệu dưới, chẩn đoán vẫn còn là một thách thức đối với các nhà lâm sàng, chưa có hướng dẫn điều trị cụ thể. Lựa chọn kháng sinh cần tuân thủ nghiêm ngặt theo hướng dẫn sử dụng kháng sinh tại từng cơ sở. Can thiệp dẫn lưu áp xe là phương thức điều trị chủ yếu, mang lại kết quả khả quan.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bệnh viện Chợ Rẫy (2013), Kháng sinh điều trị nhiễm khẩn tiết niệu tại các khoa lâm sàng, Hướng dẫn sử dụng kháng sinh, Tr. 22.
2. Hội Tiết Niệu Thận Học Việt Nam (2020), Hướng dẫn điều trị nhiễm khuẩn đường tiết niệu ở Việt Nam, Nhà xuất bản Đại Học Huế, tr. 14-21.
3. Abdelmoteleb H., Rashed F., Hawary A.
(2017), “Management of prostate abscess in the absence of guidelines”, Int Braz J Urol, 43 (5), pp. 835-840.
4. Ackerman A. L, et al (2017), “Diagnosis and treatment of patients with prostatic abscess in
the post-antibiotic era”, International Journal of Urology, 25 (2), pp. 103-110.
5. Doble A., Carter S. S. (1989),
“Ultrasonographic findings in prostatitis”, Urol Clin North Am, 16 (4), pp. 763-72.
6. Elshal. A. M, Abdelhalim A, Barakat. T. S., et al. (2014), “Prostatic abscess: objective assessment of the treatment approach in the absence of guidelines”, Arab J Urol, 12, pp.
262–8.
7. El-Shazly M, El-Enzy N, El-Enzy K., et al.
(2012), “Transurethral drainage of prostatic abscess: points of technique”, Nephro-Urol Mon, 4 (2), pp. 458–61.
8. Granados E. A., Riley G., Salvador J., et al.
(1992), “Prostatic abscess: diagnosis and treatment”, J. Urol, 148 (1), pp. 80–2.
9. Jang K., Lee D. H., Lee S. H., et al. (2012),
“Treatment of prostatic abscess: case collection and comparison of treatment methods”, Korean J Urol, 53 (12), pp. 860- 864.
10. Ludwig M., Schroeder-Printzen. I., et al.
(1999), “Diagnosis and therapeutic management of 18 patients with prostatic abscess”, Urology, 53 (2), pp. 340–5.