KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ GÃY PHỨC HỢP GÒ MÁ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƯƠNG CẦN THƠ NĂM 2016 – 2018
Lê Minh Thuận*, Lê Nguyên Lâm Trường Đại học Y Dược Cần Thơ
*Email: [email protected] TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Gãy khối tầng mặt giữa chiếm tỷ lệ 23,6% trong gãy xương hàm mặt, trong đó gãy phức hợp gò má luôn xuất hiện trong các thể của gãy xương tầng mặt giữa.
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả điều trị của gãy phức hợp gò má tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả ttrên 51 bệnh nhân gãy phức hợp gò má. Kết quả nghiên cứu: Đặc điểm lâm sàng chiếm tỉ lệ cao nhất là đau chói khi ấn chiếm 96,1%; biến dạng mặt chiếm 92,2%.
Gãy phức hợp gò má xoay trong chiếm 68,6%. Sau 3 tháng điều trị có 9,8% há miệng hạn chế, 7,8% viêm xoang hàm tái phát. Kết luận: Sau 3 tháng điều trị kết quả tốt 79,1% và khá 20,9%.
Từ khóa: hình ảnh học, gãy phức hợp gò má, nắn chỉnh gò má qua xoang hàm.
ABSTRACT
THE EVALUATE OF THE TREATMENT OF
ZYGOMATICOMAXILLARY COMPLEX FRACTURES AT CAN THO CENTRAL GENERAL HOSPITAL FORM 2016 TO 2018
Le Minh Thuan*, Le Nguyen Lam Can Tho University of Medicine and Pharmacy Background: Midface fractures are accounted for 23.6% rate in maxillofacial fractures, including zygomaticomaxillary complex fractures always appeared in the form of midface fractures. Objectives: To evaluate of the treatment of zygomaticomaxillary complex fractures in Can Tho Central General Hospital. Materials and method: A cross prospective study was conducted in 51 patients with zygomaticomaxillary complex fractures.Results: The most common clinical features were tenderness 96.1%; face deformity 92.2%. Medically, rotated of the zygomaticomaxillary complex fractures 68.8%.
After 3 months, surgical had limited open mouth 9.8%; sinusitis 7.8%. Conclusion: After 3 months – up after surgical had 79.1% good and 20.9% fair.
Key word: radiographic images, zygomaticomaxillary complex fractures, reduction of zygoma with intrasinus fixation.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Phức hợp gò má (PHGM) là phức hợp xương quan trọng trong khối xương mặt, góp phần tạo nên đặc điểm khuôn mặt của mỗi người. Phức hợp gò má liên hệ với nền sọ, các xoang, các hốc tự nhiên của vùng mặt [3][8]. Do đó, gãy phức hợp gò má gây những ảnh hưởng nặng nề đối với thẩm mỹ cũng như chức năng nếu không được điều trị sớm và đúng. Ngày nay, sự tiến bộ không ngừng của khoa học kỹ thuật đã đưa ra những phương pháp điều trị ngày càng hiệu quả [12][13]. Tuy nhiên, đối với một số trường hợp có thể
điều trị bảo tồn không cần phẫu thuật vẫn cho kết quả tốt sau điều trị. Bên cạnh đó, có những trường hợp tuy đã áp dụng phương pháp điều trị tiến bộ nhưng vẫn còn những hạn chế nhất định trong kết quả điều trị đối với gãy phức hợp gò má. Phương pháp nâng gò má qua xoang hàm là phương pháp phẫu thuật ít sang chấn so với các phương pháp khác mà vẫn cho kết quả điều trị tốt trong đa số các trường hợp gãy phức hợp gò má [8][11]. Để có cái nhìn cụ thể hơn về đặc điểm lâm sàng, hình ảnh học và kết quả điều trị gãy PHGM chúng tôi tiến hành nghiên cứu với hai mục tiêu sau:
- Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, hình thái học của bệnh nhân gãy phức hợp gò má điều trị bằng phương pháp nâng gò má qua xoang hàm tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ.
- Đánh giá kết quả điều trị của bệnh nhân gãy phức hợp gò má bằng phương pháp nâng gò má qua xoang hàm tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ trước khi bệnh nhân xuất viện và sau 3 tháng điều trị.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng: Bệnh nhân gãy PHGM có chỉ định điều trị bằng phương pháp nâng gò má qua xoang hàm tại Bệnh viện Đa khoa Trung Ương Cần Thơ.
Tiêu chuẩn chọn mẫu:Bệnh nhân từ 16 tuổi trở lên, được chẩn đoán xác định gãy PHGM và có chỉ định điều trị phẫu thuật nắn chỉnh. Gãy thân xương gò má xoay vào trong hoặc ra ngoài hoặc gãy lún cung tiếp. Bệnh nhân được phẫu thuật trong khoảng thời gian từ khi gãy xương đến ngày thứ 7.
Tiêu chuẩn loại trừ: Gãy PHGM phối hợp với chấn thương sọ não nặng. Bệnh nhân gãy PHGM cũ đã hình thành can xương. Bệnh nhân có các bệnh toàn thân chống chỉ định phẫu thuật, có dị tật bẩm sinh, u bướu,…làm biến dạng mặt. Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả tiến cứu có can thiệp.
Cỡ mẫu: n = 50 với p = 0,97 [2]; d = 0,05. Cỡ mẫu thực tế thu được n = 51.
Phương pháp chọn mẫu: chọn mẫu thuận tiện
Nội dung nghiên cứu: Khám và ghi nhận đặc điểm lâm sàng, X quang gãy PHGM.
- Đặc điểm lâm sàng của mẫu: sưng nề, vết bầm, tê môi, cằm, nhìn mờ, chảy máu hốc tự nhiên, mất cân đối, sai khớp cắn, há miệng hạn chế, đau chói khi ấn, gián đoạn bờ xương (dấu hiệu bậc thang).
- Đặc điểm X quang: đánh giá vị trí gãy trên CT Scans, sự liên quan với xoang hàm và ổ mắt.
- Tái khám và đánh giá kết quả sau 3 tháng phẫu thuật.
Phương pháp xử lí số liệu: nhập liệu và xử lí bằng phần mềm SPSS 20.0.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu
Bảng 1. Phân bố nhóm tuổi trong nghiên cứu
Nhóm tuổi Số lượng (n) Tỉ lệ %
16 – 17 tuổi 2 3,92
18 – 39 tuổi 44 86,27
40 – 59 tuổi 5 9,81
Nhận xét: Trong nghiên cứu, độ tuổi nhỏ nhất là 16 tuổi, tuổi lớn nhất là 48 tuổi, tuổi trung bình là 28,39 ± 7,41 tuổi. Nhóm tuổi thanh niên (18 – 39 tuổi) chiếm cao nhất trong nghiên cứu (86,27%).
Về giới tính: nam giới cao gấp 9,2 lần nữ giới.
3.2. Đặc điểm lâm sàng, hình ảnh học gãy phức hợp gò má Bảng 2. Phân bố triệu chứng lâm sàng gãy phức hợp gò má
Triệu chứng Số lượng (n) Tỉ lệ %
Sưng nề 41 80,39
Vết bầm quanh mắt 40 78,43
Tê môi, má 25 49,02
Nhìn mờ 1 1,96
Chảy máu hốc tự nhiên 46 90,19
Mất cân đối gò má 47 92,15
Sai khớp cắn 15 29,41
Há miệng hạn chế 18 35,29
Đau chói khi ấn 49 96,08
Gián đoạn bờ xương 46 90,19
Nhận xét: Các triệu chứng thường gặp nhất trong nghiên cứu là điểm đau chói khi ấn (96,08%); biến dạng gò má (92,15%); gián đoạn bờ xương và chảy máu vào các hố tự nhiên đều chiếm 90,19%.
Bảng 3. Hình ảnh học gãy phức hợp gò má
Vị trí gãy Số lượng (n) Tỉ lệ %
Cung tiếp 40 78,43
Khảo sát xoang hàm
Thành trước xoang hàm 51 100
Thành sau xoang hàm 44 86,27
Thành trong xoang hàm 17 33,33
Khảo sát ổ mắt
Vỡ bờ dưới ổ mắt 51 100
Vỡ bờ ngoài ổ mắt 23 45,10
Vỡ thành trong ổ mắt 4 7,84
Đẩy lệch nhãn cầu 6 11,76
Nhận xét: Gãy phức hợp gò má vị trí gãy nhiều nhất là thành trước xoang hàm cũng là bờ dưới ổ mắt (100%); vị trí gãy chiếm tỉ lệ cao kế tiếp là thành sau xoang hàm chiếm tỉ lệ 86,27%; tỉ lệ gãy cung tiếp chiếm 78,43%.
3.3. Kết quả điều trị sau 3 tháng
Bảng 4. Các triệu chứng ghi nhận khi ra viện và sau 3 tháng điều trị
Triệu chứng Ra viện Sau 3 tháng
Tính cân đối gò má Nhô cao 1 (1,96%) 0
Lõm 10 (19,6%) 13 (25,5%)
Tê môi, má 23 (45,1%) 3 (5,9%)
Song thị 1 (1,96%) 0
Sai khớp cắn 9 (17,7%) 0
Há miệng hạn chế X 5 (9,8%)
Viêm xoang hàm tái phát X 4 (7,8%)
Nhận xét: Sau 3 tháng điều trị, gò má bên chấn thương lõm hơn so với bên lành chiếm tỉ lệ cao nhất (25,49%); kế đến là triệu chứng há miệng hạn chế (9,8%); các triệu chứng như song thị hay sai khớp cắn đều không còn.
Bảng 5. Kết quả điều trị sau 3 tháng
Giải phẫu Chức năng Thẩm mỹ
Ra viện 3 tháng Ra viện 3 tháng Ra viện 3 tháng
Tốt 20 37 14 46 31 38
Khá 31 14 32 5 20 13
Kém 0 0 5 0 0 0
IV. BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu
Trong nghiên cứu này, tuổi trung bình của bệnh nhân là 28,39 ± 7,41 tuổi. Bệnh nhân nhỏ tuổi nhất là 16 tuổi và bệnh nhân lớn tuổi nhất là 48 tuổi.
Trong đó, tỉ lệ bệnh nhân trong nhóm tuổi thanh niên (18 – 39 tuổi) chiếm cao nhất trong nghiên cứu là 86,27%. Đây là nhóm tuổi chính tham gia các hoạt động xã hội, lao động cũng như tham gia giao thông chủ yếu. Kết quả này cũng tương đồng với nghiên cứu Hoàng Ngọc Lan (76,4%) [4], Đặng Xuân Lộc (73,2%) [5], Nguyễn Thị Hồng Minh (69,4%) [6]. Cao hơn nhiều so với nghiên cứu của Nguyễn Minh Sang (44,1%) [7], Trần Phan Chung Thủy (54,9%) [9].
Tỉ lệ bệnh nhân trong nhóm tuổi trung niên (40 – 59 tuổi) chiếm tỉ lệ là 9,81%.
Đây cũng là một trong những nhóm tuổi tham gia hoạt động xã hội, lao động chủ yếu nhưng ở nhóm tuổi này họ thường có sự ổn định về tâm lí, họ thường cẩn thận và có nhiều kinh nghiệm trong việc xử lí các tình huống giao thông nên nhóm tuổi này chiếm tỉ lệ thấp hơn. Bên cạnh đó, ở nhóm tuổi này thường ít có nhu cầu về thẩm mỹ hơn nhóm 19 – 39 tuổi nên bác sĩ thường chọn phương pháp điều trị nội khoa cho những bệnh nhân gãy PHGM không ảnh hưởng chức năng mà chỉ ảnh hưởng thẩm mỹ không nhiều.
Trong nghiên cứu này, tỉ lệ nam giới gãy PHGM cao hơn nữ giới gấp 9,2 lần. Tỉ lệ nam giới cao gấp nhiều lần so với những nữ giới trong khi ngày nay sự tham gia các hoạt động xã hội, lao động, giao thông của nam và nữ gần như nhau. Nguyên nhân của sự chênh
lệch này có thể được giải thích là do ý thức chấp hành các hoạt động giao thông, thói quen uống rượu bia, điều khiển xe có tốc độ cao và phân khối lớn thường gặp ở nam giới.
Kết quả này cũng tương đồng với nghiên cứu của Hoàng Ngọc Lan (nam/nữ: 10) [4], Nguyễn Thị Hồng Minh (nam/nữ: 8) [6]. Cao hơn nhiều so với nghiên cứu của Hoàng Tiến Công (nam/nữ: 6) [1], Nguyễn Minh Sang (nam/nữ: 5,8) [7], Trần Phan Chung Thủy (nam/nữ: 5,4) [9].
4.2. Đặc điểm lâm sàng, hình ảnh học gãy phức hợp gò má 4.2.1. Đặc điểm lâm sàng gãy phức hợp gò má
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 2 triệu chứng lâm sàng quan trọng giúp chẩn đoán gãy PHGM là gián đoạn bờ xương và đau chói khi ấn lần lượt chiếm tỉ lệ là 96,08%
và 90,19%. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Hoàng Ngọc Lan (98,2%) [4], Nguyễn Thị Hồng Minh (100%) [6], Nguyễn Minh Sang (97%) [7]. Điều này hoàn toàn hợp lí vì gián đoạn bờ xương và đau chói khi ấn điểm gãy là những dấu hiệu đặc trưng cho tất cả các gãy xương trên cơ thể. Đồng thời, khi chấn thương mô mềm bị tổn thương thường gây sưng nề vùng má nên khó xác định dấu hiệu gián đoạn bờ xương hơn dấu hiệu đau chói khi ấn.
Mất cân đối gò má hai bên cũng là triệu chứng chiếm tỉ lệ cao trong nghiên cứu (92,15%). Triệu chứng này là do xương gò má gãy di lệch ở nhiều vị trí đường tiếp khớp hoặc cung tiếp gãy nhiều đoạn sụp lún, hình chữ M, chữ V. Sự mất cân đối của gò má được xác định ở thời điểm bệnh nhân không còn sưng mặt nhiều như trước khi phẫu thuật.
Thời điểm lí tưởng nhất để xác định sự mất cân đối của gò má là khi bệnh nhân chưa sưng trong những giờ đầu sau chấn thương nhưng ở thời điểm này rất khó ghi nhận vì bệnh nhân đang ở khoa cấp cứu để được khám và làm các xét nghiệm loại trừ các chấn thương nặng nề hơn. Tỉ lệ này cũng gần tương đồng với nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Minh (95,4%) [6], Đỗ Thành Trí (87,27%) [10].
4.2.2. Đặc điểm hình ảnh học gãy phức hợp gò má
Gãy thành trước xoang hàm xuất hiện 100% trong nghiên cứu. Thành trước xoang hàm liên quan PHGM nhiều nhất nên luôn gãy trong nghiên cứu là hợp lí. Các đường gãy thành trước xoang hàm thường xuất phát từ đường khớp gò má – hàm trên và đến bờ dưới ổ mắt làm gián đoạn bờ dưới ổ mắt. Điều này cũng lí giải cho tỉ lệ gãy bờ dưới ổ mắt chiếm 100%. Vị trí đường khớp gò má – hàm trên là vị trí gãy thường gặp trong gãy PHGM, điều này cũng tương đồng với nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Minh (86,1%) [6].
Thành sau xoang hàm cũng là vị trí gãy phối hợp thường thấy trong gãy PHGM chiếm tỉ lệ 86,27% trong nghiên cứu này. Cũng như thành trước xoang hàm, thành sau xoang hàm là một vị trí dễ gãy trong gãy PHGM vì thành này cũng liên quan trực tiếp đến PHGM và đây là thành tương đối mỏng so với các thành còn lại của xoang hàm.
Bờ dưới ổ mắt gãy trong tất cả các trường hợp gãy PHGM. Trong khi gãy bờ ngoài ổ mắt chỉ chiếm tỉ lệ 45,1% trong nghiên cứu này. Giải thích cho sự khác nhau này là do bờ ngoài ổ mắt tương ứng với đường khớp gò má – trán là vị trí khỏe nhất, vững chắc nhất
trong 4 đường khớp của xương gò má. Bờ ngoài ổ mắt xương rất dày, có sức chịu đựng cao với lực tác động nên tỉ lệ gãy thấp hơn các vị trí khác.
4.3. Kết quả điều trị sau 3 tháng
Tình trạng cân xứng của gò má khi ra viện có 19,61% lõm hơn so với bên lành. Các trường hợp này sẽ khó đạt được thẩm mỹ của gò má khi hồi phục hoàn toàn. Các trường hợp này thường là do gãy PHGM được điều trị trễ, các đầu đoạn gãy đã bắt đầu hiện tượng can xương mà phương pháp phẫu thuật nâng gò má qua xoang hàm lại không đủ để phá các can xương nên không thể nắn chỉnh lại đúng vị trí. Có 1,96% gò má bên chấn thương nhô cao hơn so với bên lành, điều này là do nâng xương gò má quá mức hoặc đặt gạc cố định quá nhiều. Tuy nhiên, sau khi tái khám lại ở thời điểm 3 tháng thì không còn tình trạng gò má nhô cao hơn so với bên lành. Điều này chứng tỏ vai trò của các cơ quanh xương gò má và lân cận cũng như ảnh hưởng của hoạt động sinh hoạt lên sự ổn định của ổ gãy xương làm thay đổi vị trí xương gò má. Nhưng có tới 25,49% gò má lõm hơn so với bên lành. Điều này là do hai đầu đoạn gãy không được cố định vững chắc nên có thể di lệch lại sau khi phẫu thuật từ các lực tác động từ bên ngoài. Điều này đặc biệt quan trọng trong thời gian từ 1 – 4 tháng đầu, vì đây là giai đoạn hình thành can xương cứng chắc.
Biến chứng viêm xoang tái phát ở thời điểm 3 tháng sau điều trị này chiếm 7,84%.
Khi điều trị bằng phương pháp nâng gò má qua xoang hàm phải đặt gạc cố định từ 5 – 7 ngày (trong nghiên cứu này đặt gạc cố định 6 ngày cho tất cả các trường hợp). Đây là con đường thông thương giữa môi trường miệng và xoang hàm nên vi khuẩn có thể sẽ theo con đường này vào làm viêm xoang hàm ở thời điểm sau mổ và để lại biến chứng viêm xoang hàm tái phát. Ngoài ra, phương pháp nâng gò má qua xoang hàm không thể sắp xếp các mãnh vỡ của xoang hàm lại đúng vị trí giải phẫu hoàn toàn nên sẽ tạo điều kiện cho việc viêm xoang tái phát.
Về giải phẫu, khi ra viện chỉ 20 bệnh nhân (39,22%) đạt kết quả tốt về mặt giải phẫu nhưng đến thời điểm 3 tháng sau phẫu thuật tỉ lệ này tăng lên 72,55% (37 trường hợp). Điều này đơn giản là do ở thời điểm ra viện các ổ gãy chưa xuất hiện hiện tượng lành thương. Sự ổn định của hai đầu đoạn gãy chỉ là do yếu tố cơ học. Nhưng ở thời điểm tái khám 3 tháng sau phẫu thuật, ổ gãy đang trong giai đoạn hình thành can xương cứng và đang bắt đầu giai đoạn pha sửa chữa can xương. Để hai đầu đoạn gãy lành xương hoàn toàn cần thời gian dài hơn để có thể sửa chữa hình thể cũng như tính chất xương của ổ can.
Về mặt chức năng, tất cả các trường hợp bệnh nhân đều có khớp cắn đúng ở thời điểm 3 tháng sau điều trị. Tuy nhiên còn 5 trường hợp (9,8%) được đánh giá là có kết quả khá về mặt chức năng sau 3 tháng điều trị. Kết quả này chủ yếu là há miệng hạn chế sau khi cố định hai hàm. Cố định hai hàm với mục đích chính là điều chỉnh khớp cắn của bệnh nhân. Tuy nhiên, há miệng hạn chế sau khi cố định hai hàm là một biến chứng thường gặp.
Để giảm tỉ lệ biến chứng há miệng hạn chế này cần tháo cố định hàm và tập há miệng cho bệnh nhân càng sớm càng tốt. Trong nghiên cứu này, bệnh nhân há miệng hạn chế được hướng dẫn tập há miệng bằng que đè lưỡi với số lượng que tăng dần. Kết quả về thẩm mỹ trong nghiên cứu này sau 3 tháng chỉ còn 13 trường hợp (25,49%) có kết quả khá, còn lại
đều đạt kết quả tốt. Điều này là do đường rạch phẫu thuật trong nghiên cứu nằm ở ngách hàng lang nên sẽ không ảnh hưởng đến thẩm mỹ khuôn mặt của bệnh nhân. Đánh giá thẩm mỹ chỉ còn là sự cân xứng của khuôn mặt. Trong phẫu thuật, sau khi nắn chỉnh xương và trước khi cố định, cần phải đánh giá kết quả nắn chỉnh đã đạt yêu cầu hay chưa. Yếu tố cần đánh giá bao gồm: độ nhô của xương gò má, mức độ cải thiện tình trạng lõm hay nhô, tình trạng gián đoạn bờ dưới ổ mắt và mức độ hồi phục.
V. KẾT LUẬN
Kết quả sau 3 tháng điều trị cho thấy đặc điểm lâm sàng chiếm tỉ lệ cao nhất là đau chói khi ấn chiếm 96,1%; biến dạng mặt chiếm 92,2%. Gãy phức hợp gò má xoay trong chiếm 68,6%. Sau 3 tháng điều trị có 9,8% há miệng hạn chế, 7,8% viêm xoang hàm tái phát, có 25,49% bị lõm gò má so với bên lành. Tê bì môi, má, mũi chiếm 5,88%. Không còn tình trạng song thị và sai khớp cắn. Há miệng hạn chế (9,8%). Viêm xoang tái phát (7,84%). Kết quả về giải phẫu: tốt (72,55%), khá (27,45%); về chức năng: tốt (90,20%), khá (9,80%); về thẩm mỹ: tốt (74,51%), khá (25,49%).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Tiến Công (2012), “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, X quang và kết quả điều trị gãy khối xương tầng mặt giữa tại Bệnh viện Đa Khoa Trung Ương Thái Nguyên”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, tập 89 (01), tr. 238 – 244.
2. Vũ Thị Bắc Hải (2005), “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và kết quả điều trị gãy xương gò má cung tiếp tại Bệnh viện Trung Ương Huế”, Y học thực hành, 521, tr. 38 – 81.
3. Nguyễn Bắc Hùng (2006), “Chấn thương hàm mặt”, Phẫu thuật tạo hình, Nhà xuất bản y học, Hà Nội.
4. Hoàng Ngọc Lan (2015), Đánh giá chức năng nhai trên bệnh nhân sau điều trị gãy xương hàm trên Lefort I, Lefort II và gò má cung tiếp, Luận án Tiến sĩ Y học, Trường Đại học Y Hà Nội.
5. Đặng Xuân Lộc (2015), Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị gãy xương gò má cung tiếp tại Bệnh viện Quân Y 121, Bệnh viện Quân y 121.
6. Nguyễn Thị Hồng Minh (2008), Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị gãy kín phức tạp xương gò má cung tiếp bằng nẹp vít, Luận án Chuyên khoa II, Trường Đại học Y Dược Huế.
7. Nguyễn Minh Sang (2013), Đặc điểm dịch tễ lâm sàng và điều trị gãy phức hợp hàm gò má tại Bệnh viện khu vực Củ Chi, Luận án Chuyên khoa II, Đại học Y Dược Tp.HCM.
8. Lê Văn Sơn (2015), Bệnh lí và phẫu thuật hàm mặt – Tập 1, Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam.
9. Trần Phan Chung Thủy (2014), “Tình hình chấn thương gãy xương gò má tại khoa Tai Mũi Họng Bệnh viện Chợ Rẫy”, Tạp chí Y học Tp.HCM, tập 18 (2), tr. 355 – 360.
10. Đỗ Thành Trí (2013), Nghiên cứu điều trị vỡ xoang hàm trong chấn thương tầng giữa mặt bằng nội soi kết hợp với nắn chỉnh xương, Luận án Tiến sĩ Y học, Viện nghiên cứu khoa học Y Dược lâm sàng 108.
11. Lê Đức Tuấn (2010), Phẫu thuật hàm mặt, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân Hà Nội.
12. Taub P. J., Patel P. K., Buchman S. R. (2015), "Midfacial Fractures", "Zygoma Fractures", Ferraro's Fundamentals of Maxillofacial Surgery, Springer, London, pp. 185 - 208.
13. Yang L and (2013), "Sequential reduction and fixation for zygomatic complex fractures", Zhongguo Xiu Fu Chong Jian Wai Ke Za Zhi, 27(10), pp. 181- 184.
(Ngày nhận bài: 07/8/2018- Ngày duyệt đăng: 12/9/2018)