KHAI THÁC VÀ THIẾT KẾ HỆ THỐNG BÀI TOÁN TIỂU HỌC
Vũ Lâm Bình*
Tóm tắt: Trong dạy học, nếu chúng ta không biết khơi dậy ở học sinh óc tò mò, sự tìm tòi khám phá những gì ẩn sau mỗi bài toán mà chỉ giải xong bài toán là kết thúc thì việc dạy học trở nên nhạt nhẽo. Nếu sau mỗi bài toán, chúng ta tìm được nhiều cách giải khác nhau cho bài toán, xây dựng được một hệ thống bài toán liên quan từ dễ đến khó từ bài toán gốc thì có thể rèn luyện năng lực tư duy sáng tạo cho học sinh, đồng thời kiến thức sẽ được mở rộng hơn, hệ thống hơn.
1. Đặt vấn đề
Trong các môn học ở tiểu học, cùng với môn Tiếng Việt, môn Toán có vị trí hết sức quan trọng. Các kiến thức, kĩ năng của môn Toán ở Tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời sống; rất cần thiết để học tốt các môn khác ở Tiểu học. Môn Toán giúp học sinh nhận biết những mối quan hệ về số lượng và hình dạng không gian của thế giới hiện thực. Trong các giờ dạy học toán, giáo viên cần giải quyết ba nhiệm vụ cơ bản:
- Hình thành cho học sinh tri thức mới;
- Luyện tập cho học sinh nắm vững tri thức;
- Rèn luyện cho học sinh kĩ năng sử dụng tri thức.
Để thực hiện tốt 3 nhiệm vụ này, trong giờ học trên lớp cũng như hướng dẫn bài tập, giáo viên cần “bài tập hóa” các tri thức dạy học thông qua hoạt động thành lập và sử dụng hệ thống các bài toán. Giáo viên có thể hướng dẫn theo nhiều cách giải khác nhau cho bài toán, thiết kế xây dựng từ bài toán gốc thành một hệ thống bài toán liên quan từ dễ đến khó để rèn luyện năng lực tư duy sáng tạo cho học sinh; mở rộng hơn, hệ thống hơn kiến thức cho học sinh. Hệ thống các bài toán là tập hợp các bài toán có mối quan hệ xác định về cấu trúc hay về tri thức phương pháp giải toán phục vụ cho mục đích dạy học xác định nhằm giải quyết ba nhiệm vụ cơ bản trên.
2. Nội dung
2.1. Khai thác về phương pháp giải toán Tiểu học
Một bài toán không nhất thiết có một phương pháp giải toán mà trên cơ sở các dữ kiện có trong bài toán ta có thể khai thác nhiều phương pháp giải khác nhau. Ở bậc Tiểu học, học sinh có thể giải toán bằng phương pháp sơ đồ đoạn thẳng, phương pháp chia tỉ lệ, phương pháp tính ngược từ cuối…
* Giảng viên Khoa TH - MN
Bài toán: Một người đi từ A đến B với vận tốc 25km/giờ. Sau 30 phút người thứ hai cũng đi từ A về B với vận tốc 30km/giờ và đuổi kịp người thứ nhất tại B. Tính quãng đường AB.
Cách 1.
Đổi 30 phút = 0,5 giờ Trong 0,5 giờ người thứ nhất đi được là:
25 x 0,5 = 12,5 (km)
Thời gian của người thứ hai đi để đuổi kịp người thứ nhất tại B là:
12,5 : (30 – 25) = 2,5 (giờ) Quãng đường AB dài là:
30 x 2,5 = 75 (km).
Cách 2.
Giả sử người thứ hai cùng khởi hành và đi với thời gian bằng thời gian của người thứ nhất thì khi đó người thứ hai đi vượt qua B một đoạn đường dài là:
30 x 0,5 = 15 (km)
Vận tốc của người thứ hai hơn vận tốc của người thứ nhất là:
30 – 25 = 5 (km/giờ)
Thời gian người thứ nhất đi quãng đường AB là:
15 : 5 = 3 (giờ) Quãng đường AB dài là:
25 x 3 = 75 (km).
Cách 3.
Trên cùng một quãng đường thì vận tốc tỉ lệ nghịch với thời gian.
Tỉ số vận tốc của người thứ nhất và vận tốc của người thứ hai là: 25 : 30 = Do đó tỉ số thời gian của người thứ nhất và thời gian của người thứ hai là Vì hiệu thời gian của hai người là 0,5 giờ nên thời gian của người thứ nhất đi từ A đến B là:
0,5 : (6 – 5) x 6 = 3 (giờ) Quãng đường AB dài là:
25 x 3 = 75 (km).
Cách 4.
Cứ mỗi km người thứ nhất đi hết số phút là:
60 : 25 = 2,4 (phút)
Cứ mỗi km người thứ hai đi hết số phút là:
60 : 30 = 2 (phút)
Do đó, cứ mỗi km người thứ nhất đi nhiều hơn người thứ hai số phút là:
2,4 – 2 = 0,4 (phút) Quãng đường AB dài là:
30 : 0,4 = 75 (km).
Cách 5.
Cứ mỗi km người thứ nhất đi hết thời gian là: (giờ).
Cứ mỗi km người thứ hai đi hết thời gian là: (giờ).
Do đó, cứ mỗi km người thứ nhất đi nhiều hơn người thứ hai một thời gian là:
- = (giờ).
Quãng đường AB dài là:
0,5 : = 75 (km).
Cách 6.
Vì quãng đường AB (s = v x t) không đổi, nên ta có thể xem vận tốc (v) là chiều dài của một hình chữ nhật và thời gian (t) là chiều rộng của hình chữ nhật đó.
Vì quãng đường không đổi hay diện tích hình chữ nhật không đổi nên ta có:
S1 = S2 hay 5 x t2 = 0,5 x 25.
Suy ra: t2 = 0,5 x 25 : 5 = 2,5 (giờ).
Quãng đường AB dài là:
30 x 2,5 = 75 (km).
2.2. Khai thác phát triển từ bài toán gốc thành bài toán mới trên cơ sở dữ kiện bài toán đã cho
Bài toán gốc: Một người đi từ A đến B với vận tốc 25km/giờ. Sau 30 phút người thứ hai cũng đi từ A về B với vận tốc 30km/giờ và đuổi kịp người thứ nhất tại B. Tính quãng đường AB.
Hướng khai thác thứ nhất: Bài toán cho biết hiệu thời gian là 30 phút. Nếu ta thay điều kiện hiệu thời gian này bằng điều kiện tương đương thì ta có các bài toán mới sau:
Bài toán 1. Một người đi từ A đến B với vận tốc 25 km/giờ. Người thứ hai cũng đi từ A đến B với vận tốc 30 km/giờ. Biết rằng người thứ hai đi sau người thứ nhất 20 phút và đến B trước người thứ nhất là 10 phút. Tính quãng đường AB.
Bài toán 2. Một người đi từ A đến B với vận tốc 25 km/giờ. Người thứ hai cũng đi từ A đến B với vận tốc 30 km/giờ. Biết rằng người thứ nhất đi trước người thứ hai 20 phút và đến B sau người thứ hai là 10 phút. Tính quãng đường AB.
Bài toán 3. Một người đi từ A đến B trong một thời gian đã định theo kế hoạch.
Nếu người đó cho xe chạy với vận tốc 25 km/giờ thì sẽ đến B muộn 17 phút, còn nếu
cho xe chạy với vận tốc 30 km/giờ thì sẽ đến B sớm 13 phút so với thời gian đã định.
Tính quãng đường AB.
Bài toán 4. Ba người cùng khởi hành một lúc từ A để đến B, vận tốc người thứ nhất là 25 km/giờ, vận tốc người thứ hai là 30 km/giờ. Người thứ ba đến B trước người thứ nhất là 16 phút và sau người thứ hai là 14 phút. Tính quãng đường AB.
Hướng khai thác thứ hai: Xem chuyển động của hai người là chuyển động của một người có vận tốc thay đổi trên một phần của quãng đường thì ta có các bài toán khác sau:
Bài toán 5. Một người dự định đi từ A đến B theo một thời gian nhất định. Lúc đầu người đó đi với vận tốc 25 km/giờ. Sau khi đi được 75 km thì người đó đi tiếp trên quãng đường còn lại với vận tốc 30 km/giờ nên đến B sớm hơn thời gian dự định là 30 phút. Tính quãng đường AB.
Bài toán 6. Một người dự định đi từ A đến B theo một thời gian nhất định. Lúc đầu người đó đi với vận tốc 30 km/giờ. Sau khi đi được 75 km thì người đó đi tiếp trên quãng đường còn lại với vận tốc 25 km/giờ nên đến B muộn hơn thời gian dự định là 30 phút. Tính quãng đường AB.
Bài toán 7. Một người đi từ A đến B với vận tốc 25 km/giờ và dự định đến B lúc 10 giờ 30 phút. Đi được một nửa quãng đường AB thì người đó đi tiếp đến B với vận tốc 30 km/giờ nên đến B vào lúc 10 giờ cùng ngày. Tính quãng đường AB.
Bài toán 8. Một người đi từ A đến B với vận tốc 30 km/giờ và dự định đến B lúc 10 giờ 30 phút. Đi được một nửa quãng đường AB thì người đó đi tiếp đến B với vận tốc 25 km/giờ nên đến B vào lúc 11 giờ cùng ngày. Tính quãng đường AB.
Bài toán 9. Một người đi từ A đến B với vận tốc 25 km/giờ. Đi được quãng đường AB thì người đó dừng lại nghỉ 30 phút nên để đến B đúng hẹn, người đó đi tiếp trên quãng đường còn lại với vận tốc 30 km/giờ. Tính quãng đường AB.
Bài toán 10. Một người đi từ A đến B với vận tốc 25 km/giờ. Lúc về, sau khi đi được quãng đường với vận tốc cũ, người đó dừng lại nghỉ 30 phút. Muốn thời gian về bằng thời gian đi, người đó phải đi tiếp trên quãng đường còn lại với vận tốc 30 km/giờ. Tính quãng đường AB.
Hướng khai thác thứ ba:
Từ cách giải thứ 2 của bài toán gốc, ta thấy nếu người thứ hai đi thêm 30 phút nữa thì quãng đường tăng thêm là 15 km và khi đó thời gian đi của hai người bằng nhau. Từ đó, ta phát triển bài toán đã cho thành bài toán khác như sau:
Bài toán 11. Một người đi từ A đến B với vận tốc 25 km/giờ, rồi đi tiếp từ B đến D với vận tốc 30 km/giờ. Quãng đường BD dài hơn quãng đường AB là 15 km.
Thời gian đi AB bằng thời gian đi BD. Tính quãng đường AB.
Giải:
Gọi C là điểm trên quãng đường BD sao cho AB = BC thì CD = 15 km.
Thời gian người đó đi quãng đường CD là:
15 : 30 = 0,5 (giờ).
Vậy thời gian người đó đi quãng đường AB nhiều hơn thời gian người đó đi trên quãng đường BC là 0,5 giờ. (Đến đây ta giải tiếp như bài toán 6)
Nếu người thứ hai đi thêm 20 phút nữa thì quãng đường tăng thêm là 10 km. Ta có bài toán khó hơn như sau:
Bài toán 12. Một người đi từ A đến B với vận tốc 25 km/giờ, rồi đi tiếp từ B đến D với vận tốc 30 km/giờ. Quãng đường BD dài hơn quãng đường AB là 10 km.
Thời gian đi AB nhiều hơn thời gian đi BD là 10 phút. Tính quãng đường AB.
Từ cách giải thứ 3 của bài toán gốc, ta thấy nếu người thứ nhất cùng khởi hành và đi với thời gian bằng thời gian của người thứ hai thì khi đó người thứ hai đến B rồi người thứ nhất còn cách B một đoạn đường dài là: 0,5 x 25 = 12,5 (km). Khai thác điều này ta có thêm bài toán sau:
Bài toán 13. Một người đi từ A đến B với vận tốc 30 km/giờ, rồi đi tiếp từ B đến C với vận tốc 25 km/giờ. Quãng đường AB dài hơn quãng đường BC là 12,5 km.
Thời gian đi AB bằng thời gian đi BC. Tính quãng đường AB.
Hướng khai thác thứ tư: Diễn đạt điều kiện tỉ số thời gian thông qua tỉ số vận tốc dưới dạng khác, ta có các bài toán mới khó hơn như sau:
Bài toán 14. Một người đi từ A đến B, sau khi đã đi được một nửa quãng đường AB, người đó đã tăng vận tốc thêm 0,2 vận tốc cũ nên đã đến B sớm hơn thời gian dự định là 0,5 giờ. Tính thời gian người đó đi quãng đường AB.
Bài toán 15. Hai người cùng đi từ A về một phía, người thứ nhất khởi hành lúc 7 giờ, người thứ hai khởi hành lúc 7 giờ 30 phút. Hỏi hai người gặp nhau lúc mấy giờ, biết rằng quãng đường người thứ nhất đi trong 30 phút bằng quãng đường người thứ hai đi trong 25 phút?
Hướng khai thác thứ năm:
Ở bài toán gốc, từ tỉ số vận tốc ta suy ra được tỉ số thời gian; ngược lại nếu cho biết tỉ số thời gian ta suy ra được tỉ số vận tốc. Suy nghĩ đó giúp ta có thêm bài toán sau:
Bài toán 16. Một người dự định đi từ A đến B hết 3 giờ. Nếu người đó tăng vận tốc thêm 5 km/giờ thì đi từ A đến B chỉ mất 2,5 giờ. Tính quãng đường AB.
Cùng đi một thời gian (thời gian không đổi) thì vận tốc và quãng đường đi được là hai đại lượng tỉ lệ thuận với nhau. Khai thác tính chất này ta có bài toán sau:
Bài toán 17. Hai người cùng khởi hành một lúc, người thứ nhất đi từ A đến B hết 3 giờ, người thứ hai đi từ B về A hết 2,5 giờ. Đến nơi gặp nhau, quãng đường
người thứ hai đã đi dài hơn quãng đường người thứ nhất đã đi là 10 km. Tính quãng đường mỗi người đã đi từ lúc khởi hành đến lúc gặp nhau.
Hướng khai thác thứ sáu:
Chúng ta biết rằng trong chương trình toán tiểu học có nhiều bài toán tương tự toán chuyển động đều. Chẳng hạn như bài toán về công việc liên quan tới ba đại lượng: năng suất (số sản phẩm làm được trong một đơn vị thời gian), thời gian và số sản phẩm làm được. Trong đó đại lượng “năng suất” tương tự đại lượng “vận tốc”, đại lượng “số sản phẩm làm được” tương tự đại lượng “độ dài quãng đường đi được”.
Khai thác điều này, ta có thêm các bài toán khác như sau:
Bài toán 18. Người thợ thứ nhất sơn mỗi giờ được 25 cửa sổ, người thợ thứ hai sơn mỗi giờ được 30 cửa sổ. Người thợ thứ hai nghỉ ốm 3 ngày đầu. Hỏi từ khi đi làm trở lại thì sau bao nhiêu ngày lao động số cửa được sơn của hai người là như nhau?
Biết mỗi ngày làm việc 10 giờ.
Bài toán 19. Một bể có hai vòi nước chảy vào: Vòi thứ nhất mỗi phút chảy được 25 lít, vòi thứ hai mỗi phút chảy được 30 lít. Lúc đầu, người ta mở vòi thứ nhất cho chảy vào bể đến khi bể chứa được một nửa thì khoá vòi thứ nhất và mở vòi thứ hai cho chảy đến khi bể đầy. Biết thời gian vòi thứ nhất chảy nhiều hơn vòi thứ hai là 30 phút. Hỏi khi bể đầy thì có bao nhiêu lít nước?
Bài toán 20. Bác An mua hai loại vở: Loại I giá 3000 đồng/quyển, loại II giá 2500 đồng/quyển. Biết số vở loại I ít hơn số vở loại II là 30 quyển và số tiền mua mỗi loại vở bằng nhau. Tính số tiền bác An đã mua vở.
2.3. Khai thác bài toán trên cơ sở phân bậc bài toán
Để học sinh tiếp cận phương pháp giải toán tỉ số kép, giáo viên có thể thiết kế các bài toán bằng cách phân bậc từ dễ đến khó, đưa lạ về quen, trong đó bài toán 4 dưới đây là bài toán khó đối với học sinh. Việc phân bậc bài toán 4 dựa vào tri thức phương pháp, học sinh tự giải được bài toán 1 sẽ tự giải được các bài toán còn lại.
Bài toán 1. Một xã nông thôn cần sửa một đoạn đường, 5 công nhân đắp hết 21 ngày. Hỏi 7 công nhân thì đắp xong con đường hết bao nhiêu ngày? (biết rằng năng suất lao động của mỗi người là như nhau).
Bài toán 2. Một đội công nhân có 30 người được giao nhiệm vụ đắp một đoạn đường trong 12 ngày và mỗi ngày làm việc 8 giờ. Hỏi 40 người, mỗi ngày làm việc 8 giờ thì đắp xong con đường đó trong bao nhiêu ngày? (biết năng suất làm việc trong 1 giờ của mọi người là như nhau).
Bài toán 3. Một đội công nhân có 40 người được giao nhiệm vụ đắp một đoạn đường trong 9 ngày và mỗi ngày làm việc 8 giờ. Hỏi 40 người, mỗi ngày làm việc 9
giờ thì đắp xong con đường đó trong bao nhiêu ngày? (biết năng suất làm việc trong 1 giờ của mọi người là như nhau).
Bài toán 4. Một đội công nhân có 30 người được giao nhiệm vụ đắp một đoạn đường trong 17 ngày và mỗi ngày làm việc 8 giờ. Sau khi làm việc được 5 ngày thì tổ bổ sung thêm 10 người và ban chỉ huy quyết định tăng thời gian làm việc lên 9 giờ một ngày. Hỏi đội công nhân đó đắp xong con đường đó trong bao nhiêu ngày? (biết năng suất làm việc trong 1 giờ của mọi người là như nhau).
3. Kết luận
Môn Toán góp phần rất quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, giải quyết vấn đề, góp phần phát triển trí thông minh. Những thao tác tư duy có thể rèn luyện cho học sinh qua môn Toán bao gồm phân tích tổng hợp, so sánh, tương tự, khái quát hóa, trình tự hóa, cụ thể hóa, đặc biệt hóa. Giáo viên cho học sinh thực hiện tập luyện những bài toán theo các phương pháp giải Toán Tiểu học khác nhau và có thể khai thác thiết kế các bài toán từ dễ đến khó, đưa lạ về quen để rèn luyện năng lực tư duy sáng tạo cho học sinh nhằm gợi cho học sinh chiếm lĩnh tri thức, lòng ham thích môn Toán; rèn các phẩm chất trí tuệ bao gồm tính độc lập, tính linh hoạt, tính nhuần nhuyễn; rèn cho học sinh các kĩ năng giải quyết bài toán, cho học sinh thói quen làm việc có kế hoạch nghiêm túc khoa học, giải quyết một bài toán từ hệ thống các câu hỏi gợi ý hay từ các bài toán gốc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đinh Quang Báo (chủ biên) (2016), Chương trình đào tạo giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
2. Huỳnh Bảo Châu (1995), 117 bài toán chọn lọc, NXB Giáo dục, Hà Nội.
3. Vũ Quốc Chung (2000), Phương pháp dạy học Toán Tiểu học, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
4. Trần Diên Hiển, Bùi Huy Hiền (2007), Giáo trình Các tập hợp số, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
5. Trần Diên Hiển, Nguyễn Tiến Tài, Nguyễn Văn Ngọc (2008), Lý thuyết số, NXB Giáo dục, Hà Nội.
6. Nguyễn Văn Khôi (2010), Phát triển chương trình giáo dục NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
7. Web https://www.moet.gov.vn/; http://www.hcmup.edu.vn/; http://hnue.edu.vn/.