Khuôn khổ pháp lý về an toàn tài chính của công ty chứng khoán Việt Nam
PGS. TS. NGUYỄN THANH PHƯƠNG - NGUYỄN QUỐC TUẤN
An toàn tài chính của công ty chứng khoán (CTCK) có vai trò quan trọng đối với sự phát triển bền vững của CTCK và của thị trường chứng khoán. Để giúp thị trường và bản thân CTCK đánh giá đúng hơn về an toàn tài chính, việc tạo khuôn khổ pháp lý về an toàn tài chính đóng vai trò quan trọng. Thị trường chứng khoán Việt Nam đã hoạt động được 15 năm nhưng vấn đề an toàn tài chính của các CTCK Việt Nam chỉ mới được đưa thành những quy định riêng, cụ thể và được công bố công khai rộng rãi trong vòng 5 năm trở lại đây. Tuy nhiên, cách tính toán chưa phản ánh đúng mức độ an toàn tài chính của CTCK. Bài viết xin đề cập quy định về an toàn tài chính của CTCK hiện nay, những bất cập và đề xuất nhằm hoàn thiện công tác đánh giá, xếp hạng an toàn tài chính của CTCK.
Từ khóa: an toàn tài chính, công ty chứng khoán
1. Quy định về an toàn tài chính của các công ty chứng khoán Việt Nam
rước năm 2010, các quy định liên quan đến an toàn tài chính của CTCK chưa nhiều, chủ yếu nằm trong quy định pháp lý khác (Quyết định 27/2007/QĐ-BTC):
- Vấn đề về vốn của CTCK được quy định trong Nghị định 14/2007/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn một số điều của Luật Chứng khoán 2006 có quy định về vốn pháp định của CTCK khi thực hiện các nghiệp vụ hoạt động.
- Quy định về kiểm soát nội bộ, các vấn đề rủi ro và hạn chế rủi ro trong từng nghiệp vụ được Quy định trong Quyết định 27/2007/
QĐ-BTC ban hành ngày 24/4/2007 của Bộ Tài chính.
- Các quy định về an toàn tài chính của
CTCK như hạn chế đầu tư, hạn mức vay, tỷ lệ vốn khả dụng cũng được quy định trong Chương IV (từ Điều 24 đến Điều 29) của Quyết định 27/2007. Tỷ lệ vốn khả dụng trong giai đoạn này được tính toán còn tương đối đơn giản, cũng chưa được công bố ra công chúng.
Từ cuối năm 2010, sau khi Luật sửa đổi, bổ sung Luật Chứng khoán 2006 được ban hành, nhiều quy định về an toàn tài chính của CTCK ra đời. Ngày 31/12/2010, Bộ Tài chính ban hành Thông tư 226/2010/TT-BTC quy định về chỉ tiêu an toàn tài chính và biện pháp xử lý đối với các tổ chức kinh doanh chứng khoán không đáp ứng chỉ tiêu an toàn tài chính. Trong Thông tư này, chỉ tiêu vốn khả dụng được quy định lại, với cách thức tính toán mới hơn, quy định về báo cáo mới, cũng như biện pháp xử lý đối với các CTCK không đáp ứng chỉ tiêu này cũng đã được quy định cụ thể. Thông tư 226 được sửa đổi, bổ sung Chính sách & thị trường tài chính - tiền tệ
một lần nữa bởi Thông tư 165/2012/TT-BTC ngày 9/10/2012, trong đó có những điểm sửa đổi quan trọng như sau: Báo cáo tỷ lệ an toàn tài chính không phải chỉ do CTCK tính toán và báo cáo mà còn phải được một tổ chức kiểm toán soát xét theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam, CTCK cũng phải công khai các báo cáo tỷ lệ an toàn tài chính này ra công chúng 6 tháng một lần. Các biện pháp xử lý cụ thể dành cho các CTCK không đáp ứng chỉ tiêu cũng được quy định rõ hơn, nặng nhất có thể yêu cầu các CTCK phải sáp nhập, hợp nhất với các CTCK khác hoặc thực hiện giải thể. Hai thông tư này sau đó được đưa vào thành một văn bản hợp nhất là Văn bản số 09/VBHN-BTC ngày 23/10/2013.
Quy định an toàn tài chính của CTCK hiện nay thông qua tỷ lệ vốn khả dụng như sau:
Tỷ lệ vốn khả dụng = Vốn khả dụng ÷ Tổng giá trị rủi ro
Vốn khả dụng bao gồm (i) Vốn cơ bản; cộng thêm (ii) phần giá trị gia tăng (hoặc giảm đi) do đánh giá lại tài sản và trong hoạt động đầu tư hàng ngày;
cộng thêm (iii) nguồn vốn gia tăng, bổ sung từ ngoài (các nguồn vốn có thể chuyển đổi thành Vốn chủ sở hữu như trái phiếu chuyển đổi, nợ thứ cấp). Vốn khả dụng tương ứng với Vốn tự có (bao gồm Vốn tự có cấp 1 và Vốn tự có cấp 2) tại Quyết định 457 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Tổng giá trị rủi ro được xác định bằng tổng giá trị rủi ro thị trường, giá trị rủi ro thanh toán (hay rủi ro tín dụng) và giá trị rủi ro hoạt động.
Theo quy định, các CTCK đạt tỷ lệ an toàn tài chính từ 180% trở lên được coi là có tình hình tài chính lành mạnh; từ 150%- 180% thì được coi là bình thường; từ 120%- 150% CTCK bị đưa vào diện kiểm soát và dưới 120% thì bị đưa vào diện kiểm soát đặc biệt. Biện pháp xử lý đối với các CTCK thuộc diện bị kiểm soát và kiểm soát đặc biệt cũng khá rõ ràng. Ngoài cơ chế báo cáo thường xuyên hơn (các công ty lành mạnh chỉ cần báo cáo 6 tháng một lần, các công ty yếu kém báo cáo mỗi tuần một lần), thì công ty phải thực hiện nhiều biện pháp khắc phục, nặng nhất có thể bị đình chỉ hoạt động.
Năm 2013, một số văn bản pháp luật quan trọng khác liên quan đến vấn đề an toàn tài chính của các CTCK cũng đã được các cơ quan chức năng ban hành. Ngày 26/2/2013, Ủy ban Chứng khoán Nhà
nước (UBCKNN) ban hành Quyết định số 105/QĐ- UBCK về quy chế hướng dẫn thiết lập và vận hành hệ thống quản trị rủi ro cho CTCK. Trong đó, rủi ro của CTCK được phân chia thành những loại cơ bản sau: Rủi ro thị trường, rủi ro thanh toán, rủi ro thanh khoản, rủi ro hoạt động và rủi ro pháp lý. Tất cả những loại rủi ro này đều tác động đến tình trạng an toàn tài chính của các CTCK và đều cần được chú trọng phòng ngừa. Quy chế cũng đưa ra hướng dẫn cụ thể từ nguyên tắc quản trị rủi ro đến cơ cấu của hệ thống quản trị rủi ro, cũng như quy trình, chính sách để quản lý rủi ro. Một hệ thống quản lý rủi ro tại CTCK là điều bắt buộc phải thiết lập. Hiện nay, hầu hết các CTCK đã tuân thủ theo quy định của UBCKNN và thiết lập cho mình một hệ thống quản trị rủi ro.
Cũng trong năm 2013, UBCKNN ban hành Quyết định số 617/QĐ-UBCK ngày 10/9/2013 ban hành Quy chế hướng dẫn xếp loại CTCK theo Bộ chỉ tiêu CAMEL. Từ đó, UBCKNN, các cơ quan chức năng có liên quan và công chúng đầu tư có được một công cụ để đánh giá tình trạng an toàn tài chính thực tế tại các CTCK. CAMEL có thể được sử dụng để đánh giá tổng thể cũng như từng bộ phận, từng khía cạnh an toàn tài chính của các CTCK. Qua đó, cảnh báo sớm cho các cơ quan chức năng về tình trạng mất an toàn tài chính tại CTCK và có biện pháp can thiệp, xử lý sớm, nhằm đảm bảo an toàn cho các CTCK nói riêng và cho toàn bộ hệ thống nói chung.
Tuy nhiên, bộ chỉ tiêu CAMEL được sử dụng trong đánh giá tình hình hoạt động của các CTCK không có ý nghĩa bắt buộc các CTCK phải tuân thủ nhằm đảm bảo an toàn tài chính cho CTCK. Quy định về an toàn tài chính của CTCK có hiệu lực vẫn là Thông tư 165/2012/TT-BTC ngày 9/10/2012 và văn bản hợp nhất là Văn bản số 09/VBHN-BTC ngày 23/10/2013.
2. Thực trạng và bất cập trong quy định về an toàn tài chính của công ty chứng khoán
Thực tiễn áp dụng quy định trên về an toàn tài chính của các CTCK, trong vòng 3 năm trở lại đây, đánh giá theo chỉ tiêu tỷ lệ an toàn tài chính, tình hình tài chính của các CTCK có nhiều biến chuyển tích cực (Đồ thị 1).
Số lượng các CTCK thuộc diện bị kiểm soát và
kiểm soát đặc biệt có xu hướng giảm đi (thậm chí cuối năm 2014, theo báo cáo từ các CTCK, chỉ còn CTCK Á Âu có tỷ lệ ATTC đạt 45% thuộc diện kiểm soát đặc biệt). Số lượng các CTCK được đánh giá là lành mạnh cũng có xu hướng gia tăng, đặc biệt là có 35 CTCK có tỷ lệ an toàn tài chính cao (trên 300%).
Về giá trị, tỷ lệ an toàn tài chính của các CTCK tại Việt Nam cũng có xu
hướng tăng lên qua các năm.
Đặc biệt, có nhiều CTCK có tỷ lệ an toàn tài chính rất cao (Bảng 1).
Tuy nhiên, nhiều CTCK có tỷ lệ an toàn tài chính cao nhưng kết quả kinh doanh thấp, tiềm ẩn rủi ro như: NSC 6 tháng đầu năm 2013 lỗ 115 triệu đồng (tài sản bất ngờ tăng gấp 10 lần đầu năm, từ 27 tỷ đồng lên 222 tỷ đồng chủ yếu do khoản phải thu ngắn hạn); NVS (lỗ 5 năm liên tiếp, 6 tháng đầu năm lỗ 1,4 tỷ đồng); SBBS (lỗ hơn 2 tỷ đồng 6 tháng đầu năm 2013); Việt Tín (quý 2 lỗ 885 triệu đồng).
Xét riêng kết quả năm 2014, trong 10 CTCK có tỷ lệ an toàn tài chính cao nhất (Đồ thị 3), chỉ có có 4 CTCK (HCM, KLS, NSI, ACBS) là có tình hình tài chính lành mạnh xét trên các tiêu chí đủ vốn, chất lượng tài sản, khả năng sinh lời… trong khi đó CTCK MBKE, KIS khả năng sinh lời thấp, ảnh hưởng không nhỏ đến tính bền vững trong an toàn tài chính của CTCK đó.
Điều này cho thấy, quy định hiện tại vẫn chưa phản ánh đúng khả năng an toàn tài chính của CTCK.
3. Đề xuất bộ tiêu chí CAEL trong đánh giá an toàn tài chính của công ty chứng khoán
Bộ chỉ tiêu CAMEL được UBCKNN Đồ thị 1. Tỷ lệ an toàn tài chính của các CTCK 2012- 2014
Nguồn: Báo cáo tỷ lệ an toàn tài chính kiểm toán cuối năm của các CTCK 2012- 2014 Bảng 1. Các CTCK có tỷ lệ ATTC cao nhất (2012- 2014)
hạngXếp 2012 2013 2014
Công ty Tỷ lệ (%) Công ty Tỷ lệ (%) Công ty Tỷ lệ (%) 1 FPTS 853,44 NSI 1.787,89 NSI 2.072,54 2 KLS 820,48 NVS 1.262,64 NVS 1.463,76 3 HSC 764,00 FPTS 1.058,12 ACBS 1.430,00 4 NVS 704,38 HSC 950,00 FPTS 1.370,90
5 VSC 539,27 KLS 856,01 KLS 904,61
Nguồn: Báo cáo an toàn tài chính CTCK (2012- 2014) Đồ thị 2. Các CTCK có tỷ lệ an toàn tài chính cao nhất
(tính đến 30/6/2013)
Nguồn: cafef.vn Đồ thị 3. Danh sách 10 CTCK có tỷ lệ an toàn tài chính cao
nhất năm 2014
Nguồn: Báo cáo tỷ lệ vốn khả dụng các CTCK 2012-2014
ban hành kèm Quyết định 617-QĐ-UBCK là một bộ chỉ tiêu tốt để đánh giá toàn diện các mảng hoạt động của CTCK. Tuy nhiên, việc xếp hạng năng lực hoạt động của CTCK theo tiêu chí trên chỉ mang tính cung cấp thông tin và cảnh báo, không mang tính bắt buộc phải tuân thủ. Hơn nữa, yếu tố M (chất lượng quản trị) là một trong những yếu tố có nhiều tiêu chí định tính, có phần chủ quan và đòi hỏi thông tin nội bộ của CTCK (chẳng hạn chỉ tiêu 8:
đánh giá năng lực hoạt động của bộ phận kiểm tra, kiểm soát nội bộ trong công ty). Để đảm bảo nghiên cứu khách quan tình trạng an toàn tài chính của CTCK, nhóm tác giả đề xuất sử dụng các yếu tố tài chính trong Bộ chỉ tiêu CAMEL và bổ sung chỉ tiêu S (độ nhạy cảm với rủi ro thị trường) lập thành Bộ chỉ tiêu CAELS.
Bộ chỉ tiêu CAELS bao gồm các yếu tố: C: mức độ đủ vốn; A: chất lượng tài sản; E: khả năng sinh lời;
L: khả năng thanh khoản; S: độ nhạy cảm với rủi ro thị trường để đánh giá. Dựa trên CAELS, một CTCK có an toàn tài chính cao có nghĩa là CTCK có trạng thái tài chính bền vững, chất lượng tài sản và nguồn vốn được ổn định, đáp ứng tốt các nghĩa vụ nợ và rủi ro, kể cả khi CTCK chịu ảnh hưởng của một cú sốc xuất phát từ nội tại công ty thì nó cũng không thể gây ra cuộc khủng hoảng lan truyền trong hệ thống các CTCK và không gây ra sự bất ổn cho thị trường chứng khoán.
Chỉ tiêu, yếu tố, cách thức tính toán và đánh giá điểm đối với CAELS về cơ bản dựa trên bộ chỉ tiêu CAMEL của UBCKNN. Đối với đánh giá tổng thể, một mức điểm CAELS chung được đưa ra để đánh giá tình hình an toàn tài chính chung của mỗi CTCK theo thang điểm từ A đến E trong đó A là tốt nhất và E là kém nhất. Đối với đánh giá bộ phận, lần lượt từng yếu tố trong bộ CAELS của từng CTCK cũng được cho điểm riêng và xếp loại theo thang điểm từ A đến E để xem xét tình trạng an toàn tài chính của CTCK bị yếu kém tại mặt nào, và vấn đề của mặt đó là gì.
Việc đánh giá an toàn tài chính của CTCK sẽ được thực hiện dựa trên hai hướng, bộ phận và tổng thể trên cơ sở bộ chỉ tiêu CAELS bao gồm: (1) Mức độ đủ vốn (C); (2) Chất lượng tài sản (A); (3) Khả năng sinh lời (E); (4) Chất lượng thanh khoản (L); (5) Độ nhạy cảm với rủi ro thị trường (S). Điểm chỉ tiêu của mỗi yếu tố thể hiện mức độ an toàn của chỉ tiêu đó và được tính theo thang điểm 100, điểm càng cao thì chỉ tiêu càng an toàn. Các chỉ tiêu ở mức an toàn nhất thường có mức điểm từ 65 đến 100, các chỉ tiêu ở mức điểm 40-50 có mức an toàn trung bình và từ 0 đến dưới 40 điểm bị coi là mất an toàn.
3.1. Mức độ đủ vốn (C)
Trong nhóm các yếu tố tài chính, yếu tố mức độ đủ vốn (C) thường được quan tâm nhất vì vốn là nền
tảng để các định chế tài chính thực hiện hoạt động cung ứng dịch vụ tài chính, đầu tư và phòng ngừa rủi ro.
Trong hệ thống CAELS, yếu tố vốn khá quan trọng nên chiếm tỷ trọng khá cao (25%) bao gồm 3 chỉ tiêu đáng chú ý.(1) C1- Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản, trong đó giá trị tổng tài sản không bao gồm tiền gửi giao dịch của nhà đầu tư. Điều này để đảm bảo tiền gửi của nhà đầu tư được tách bạch khỏi tài sản của CTCK, tránh xung đột lợi ích và việc tính toán chỉ tiêu này cho thấy được mức vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản mà CTCK thực sự được phép sử dụng.
(2) C2- Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên vốn Bảng 2. Yếu tố về vốn trong bộ chỉ tiêu CAELS
STT Tên chỉ
tiêu Giá trị Điểm
chỉ tiêu Trọng số 1 C1- Vốn
chủ sở hữu/
tổng tài sản
Từ 0% đến dưới 51% 20
8,00%*
Từ 51% đến dưới 75% 80
Từ 75% trở lên 100
2
C2- Vốn chủ sở hữu/
Vốn pháp định
Dưới 60% 0
7,00%*
Từ 60% đến dưới 100% 30 Từ 100% đến dưới 150% 60 Từ 150% đến dưới 200% 80 Từ 200% trở lên 100 3 C3- Tỷ lệ
vốn khả dụng
Dưới 120% 0
10,00%
Từ 120% đến dưới 150% 20 Từ 150% đến dưới 180% 40 Từ 180% đến dưới 300% 80 Từ 300% trở lên 100
Nguồn: Quy chế hướng dẫn xếp loại CTCK theo Quyết định 617/QĐ- UBCK; phần có dấu * là đề xuất của nhóm tác giả.
pháp định. Vốn pháp định là mức vốn theo quy định của Nhà nước mà CTCK phải đảm bảo được nếu muốn thực hiện được một hoặc một số nghiệp vụ nhất định như đã đề cập trong phần khung pháp lý.
(3) C3- Tỷ lệ vốn khả dụng. Đây còn được gọi là tỷ lệ an toàn tài chính, là một chỉ tiêu do Bộ Tài chính xây dựng và ban hành theo Thông tư 226/2010/TT-BTC ngày 31/12/2010 và sau đó sửa đổi bổ sung trong Thông tư 165/2012/TT-BTC ngày 9/10/2012. Đây là chỉ tiêu khá quan trọng nên tỷ trọng của chỉ tiêu là khá cao (10%).
3.2. Chất lượng tài sản (A) Yếu tố chất lượng tài sản (A) được đánh giá dựa trên 3 chỉ tiêu cơ bản như sau: A1 là chỉ tiêu tỷ lệ giá trị tài sản điều chỉnh rủi ro trên tổng tài sản (không bao gồm tài sản cố định); A2 là chỉ tiêu Tỷ lệ các khoản dự phòng/(đầu tư ngắn hạn+ đầu tư dài hạn+ các khoản phải thu) và A3 là chỉ tiêu
tỷ lệ các khoản phải thu trên tổng tài sản. Theo đó, lần đầu tiên các CTCK sẽ bị đánh giá về các khoản phải thu. CTCK nào có tỷ lệ các khoản phải thu/tổng tài sản dưới 25% mới được 100 điểm, từ 25% đến 50% được 80 điểm, từ 50%- 75% được 50 điểm, từ 75%- 90% được 20 điểm và từ 90%
trở lên 0 điểm.
3.3. Khả năng sinh lời (E) Bảng 3. Yếu tố Chất lượng tài sản
STT Tên chỉ tiêu Giá trị Giá trị Điểm
chỉ tiêu Trọng số 4
A1- Tỷ lệ giá trị tổng tài sản sau khi điều chỉnh rủi ro/Tổng tài sản (Không bao gồm tài sản cố định).
Dưới 50% 0
5%
Từ 50% Đến dưới 65% 20 Từ 65% Đến dưới 80% 50 Từ 80% Đến dưới 90% 80
Từ 90% trở lên 100
5
A2- Tỷ lệ dự phòng/
(Đầu tư ngắn hạn + Đầu tư dài hạn + Phải thu).
Từ 10% trở lên 0
10%
Từ 8% Đến dưới 10% 20
Từ 5% Đến dưới 8% 50
Trên 0% Đến dưới 5% 80
Là 0% 100
6 A3- Tỷ lệ các khoản phải thu/Tổng tài sản
Từ 90% trở lên 0
10%
Từ 75% Đến 90% 20
Từ 50% Đến 75% 50
Từ 25% Đến 50% 80
Dưới 25% 100
Nguồn: Quy chế hướng dẫn xếp loại CTCK theo Quyết định 617/QĐ-UBCK Bảng 4. Yếu tố khả năng sinh lời
STT Tên chỉ tiêu Giá trị Giá trị Điểm
chỉ tiêu Trọng số 7
E1- Lợi nhuận sau thuế/tổng doanh thu
Nhỏ hơn -10% 0
10%
Từ -10% Đến dưới 0% 20
Từ 0% Đến dưới 5% 50
Từ 5% Đến dưới 20% 70
Từ 20% trở lên 100
8
E2- Lợi nhuận thuần sau thuế/Vốn chủ sở hữu bình quân
Nhỏ hơn -5% 0
10%
Từ -5% Đến dưới 0% 20
Từ 0% Đến dưới 5% 50
Từ 5% Đến dưới 25% 70
Từ 25% trở lên 100
Nguồn: Quy chế hướng dẫn xếp loại CTCK theo Quyết định 617/QĐ-UBCK Bảng 5. Yếu tố khả năng thanh khoản
STT Tên chỉ tiêu Giá trị Giá trị Điểm
chỉ tiêu Trọng số 9
L1- Tỷ lệ tài sản ngắn hạn/Nợ ngắn hạn
Dưới 100% 0
Từ 100% Đến dưới 120% 40 10%*
Từ 120% Đến dưới 150% 80
Từ 150% trở lên 100
10
L2- Tỷ lệ tiền và tương đương tiền/
Nợ ngắn hạn
Dưới 10% 0
10%
Từ 10% Đến dưới 15% 20
Từ 15% Đến dưới 20% 60
Từ 20% Đến dưới 30% 80
Từ 30% trở lên 100
Nguồn: Quy chế hướng dẫn xếp loại CTCK theo Quyết định 617/QĐ-UBCK và phần đề xuất của nhóm tác giả(* )
Yếu tố khả năng sinh lời (E) bao gồm 2 chỉ tiêu là ROS và ROE, thể hiện ở Bảng 4.
3.4. Khả năng thanh khoản (L)
Khả năng thanh khoản (L) bao gồm 2 chỉ tiêu là L1- tỷ lệ tài sản ngắn hạn (không kể tiền gửi giao dịch của nhà đầu tư) trên nợ ngắn hạn và L2- tỷ lệ tiền và tương đương tiền (không kể tiền gửi giao dịch của nhà đầu tư) trên nợ ngắn hạn.
3.5. Độ nhạy cảm với rủi ro thị trường
S: Sensitivity to market risk- độ nhạy cảm với rủi ro thị trường, là chỉ tiêu phổ biến để đánh giá tình trạng an toàn tài chính của một tổ chức tài chính.
Yếu tố này xuất hiện trong nhiều bộ chỉ tiêu đánh giá an toàn tài chính như Bộ chỉ tiêu của IMF hay CAMELS. Trong lĩnh vực ngân hàng, S được đo lường theo các chỉ tiêu thành phần như: Độ nhạy cảm với rủi ro tỷ giá, rủi ro lãi suất hay là hoạt động đầu tư trên thị trường. Đối với các công ty chứng khoán, chủ yếu hoạt động của các công ty này liên quan đến đầu tư và giao dịch trên
TTCK. Do đó, yếu tố S sẽ liên quan đến mức độ nhạy cảm với rủi ro TTCK.
Yếu tố S cũng quan trọng đối với các CTCK Việt Nam. Có rất nhiều CTCK tham gia các hoạt động đầu tư trên TTCK. Biến động của TTCK sẽ có ảnh hưởng không nhỏ đối với tình hình tài chính và hoạt động chung của các CTCK. Theo thống kê của nhóm tác giả, đến năm 2014, có
khoảng 71 CTCK (chiếm khoảng 83,5% trên tổng số 85 CTCK còn hoạt động bình thường) có hoạt động giao dịch và chịu rủi ro thị trường. Do đó, bổ sung yếu tố S cho bộ chỉ tiêu đánh giá an toàn tài chính như CAEL hay CAMEL có ý nghĩa lớn đối với việc hoàn thiện các bộ chỉ tiêu này.Dựa trên tình hình hoạt động đầu tư của các CTCK Việt Nam hiện nay, nhóm tác giả đề xuất hai chỉ tiêu thành phần của yếu tố S bao gồm: (1) Tổng giá trị chứng khoán đầu tư (sau khi trừ đi dự phòng giảm giá chứng khoán đầu tư) trên tổng tài sản (tính toán từ các BCTC của công ty); và (2) Tổng giá trị rủi ro thị trường trên tổng giá trị rủi ro (lấy từ báo cáo tỷ lệ an toàn tài chính của các CTCK). Về cơ bản, giá trị của hai chỉ tiêu này đối với các CTCK Việt Nam trong giai đoạn vừa qua tương đối ổn định.
Với quy định hiện nay, tỷ trọng các yếu tố C, A, E, L trong nhóm các yếu tố tài chính thuộc bộ chỉ tiêu CAMEL lần lượt là C (30%), A (25%), E(20%) và L (25%). Nhóm tác giả khuyến nghị khi bổ sung yếu tố S có thể phân định lại tỷ trọng của các nhóm yếu tố còn lại, chẳng hạn như đề xuất ở trên: C (25%), A (25%), E (20%), L (20%) và S (10%) để yếu tố S góp phần đánh giá được tình trạng an toàn tài chính của CTCK một cách hợp lý.
Tổng trọng số chỉ tiêu thuộc các yếu tố lần lượt là:
yếu tố C (25%), yếu tố A (25%), yếu tố E (20%), yếu tố L (20%), yếu tố S (10%). Tổng trọng số của Bảng 6. Khuyến nghị thang điểm và trọng số dành cho yếu tố S
STT Tên chỉ tiêu Giá trị Giá trị Điểm
chỉ tiêu Trọng số 11
S1-Tỷ lệ giá trị rủi ro thị trường/Tổng giá trị rủi ro
Từ 80% trở lên 0
5%
Từ 60% Đến dưới 80% 30 Từ 40% Đến dưới 60% 50 Từ 10% Đến dưới 40% 70
Dưới 10% 100
12
S2- Tỷ lệ tổng giá trị chứng khoán đầu tư/Tổng tài sản*
Từ 80% trở lên 0
5%
Từ 60% Đến dưới 80% 20 Từ 30% Đến dưới 60% 50 Từ 10% Đến dưới 30% 70
Dưới 10% 100
Nguồn: Đề xuất của nhóm tác giả.
*Tổng giá trị CK đầu tư sau khi trừ đi dự phòng giảm giá CK đầu tư.
Điểm của từng yếu tố được tính theo cách thức như sau:
tất cả các chỉ tiêu là 100%. Các điểm yếu tố này, sau đó được đánh giá theo thang điểm (Bảng 6).
Bảng 6. Mức xếp hạng điểm yếu tố công ty chứng khoán
Điểm yếu tố Mức xếp loại điểm yếu tố
Từ 80 đến 100 điểm A
Từ 65 điểm đến dưới 80 điểm B Từ 50 điểm đến dưới 65 điểm C Từ 35 điểm đến dưới 50 điểm D Từ 0 điểm đến dưới 35 điểm E
Nguồn: Dựa trên mức xếp loại ban đầu theo Quy chế hướng dẫn xếp loại CTCK
Bảng 7. Xếp hạng tổng thể công ty chứng khoán theo CAELS Mức xếp
hạng Điểm tổng thể Điều kiện phụ
A Từ 80 đến 100 điểm Và, không có điểm yếu tố dưới 65 B Từ 65 đến dưới 80 điểm Và, không có điểm yếu tố dưới 50 C Từ 50 đến dưới 65 điểm - Và, không có điểm yếu tố dưới 35
- Hoặc, xếp loại ban đầu là A nhưng có từ 2 điểm yếu tố dưới 65 D Từ 35 đến dưới 50 điểm Hoặc, xếp loại ban đầu là B nhưng có từ 2 điểm yếu tố dưới 50 E Dưới 35 điểm Hoặc, không chấm điểm được do không báo cáo Nguồn: Dựa trên mức xếp loại ban đầu theo Quy chế hướng dẫn xếp loại CTCK
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS. TS. Nguyễn Thanh Phương, Đề tài cấp học viện “An toàn tài chính của các CTCK Việt Nam”, 2015.
2. UBCKNN, “Quy chế hướng dẫn xếp loại CTCK theo Quyết định 617/QĐ-UBCK”.
SUMMARY
Legal framework for financial safety of Vietnamese securities companies
The financial safety of a securities company plays important role to the sustainable development of this company and the stock market. In order to assist the market and securities companies in evaluating financial safety level exactly, building a legal framework for financial safety is essential. Although the Vietnam stock market has operated over 15 years, the financial safety legal framework has been created, concretised, published and popularised in the last five years.
However, how financial safety level to be determined does not reflected the actual situation entirely. This paper analyses the recent regulations, finds out problems and suggests some solutions to improve the evaluating and ranking financial safety level of Vietnamese securities companies activities.
THÔNG TIN TÁC GIẢ
Nguyễn Thanh Phương, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đơn vị công tác: Khoa tài chính, Học viện Ngân hàng Lĩnh vực nghiên cứu chính: Tài chính- Ngân hàng
Tạp chí tiêu biểu đã có bài viết đăng tải: Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, Tạp chí Ngân hàng, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng.
Email: [email protected] Lê Quốc Tuấn, Cử nhân
Đơn vị công tác: Học viện Ngân hàng
Lĩnh vực nghiên cứu chính: Tài chính- Ngân hàng
Tạp chí tiêu biểu đã có bài viết đăng tải: Tạp chí Chứng khoán Việt Nam.
Email: [email protected]
Thang điểm nói trên cho biết mỗi yếu tố an toàn tài chính đang ở trong tình trạng như thế nào. Các yếu tố có điểm xếp hạng A và B cho thấy những mặt đó của CTCK đảm bảo tốt về an toàn tài chính. Chẳng hạn, nếu yếu tố C (mức độ đủ vốn) được xếp loại A, CTCK đảm bảo được an toàn vốn. Nếu có yếu tố xếp loại từ C- E, yếu tố đó gặp vấn đề, qua đó, cần xem xét thêm để biết vấn đề của CTCK dẫn đến mất an toàn ở yếu tố đó nằm ở đâu.
Sau khi kết thúc đánh giá bộ phận, để đánh giá và xếp hạng tổng thể một CTCK, cần đến điểm của tất cả các yếu tố trong bộ chỉ tiêu đánh giá an toàn tài chính CAELS.
Dựa trên cách tính điểm nhóm yếu tố tài chính của CAMEL, điểm tổng thể của một CTCK đối với CAELS được tính theo công thức:
Điểm tổng thể = ∑(Điểm chỉ tiêu của từng yếu tố × trọng số tương ứng)
Điểm tổng thể này được đem so sánh với tiêu chí xếp hạng tổng thể CTCK, qua
xem tiếp trang
60
công cụ phái sinh tín dụng. ■ TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cấn Văn Lực (2013), “Quản trị rủi ro tại NHTM Việt Nam- Thực trạng và giải pháp”, Hội thảo Quản trị rủi ro 2013 do IDG, CICB và BIDV tổ chức, tháng 9/2013.
2. Kiều Hữu Thiện, Phạm Mạnh Hùng (2014), Cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại Việt Nam, Báo cáo bức tranh toàn cảnh ngành ngân hàng 2013, Học viện Ngân hàng.
3. Ahbiman Das & S Ghosh (2007), Determinants of Credit Risk in Indian State-owned Banks: An Empirical Investigation, Eco- nomic Issues Journal Articles, Economic Issues, vol. 12(2), pages 27-46.
4. Ahlem Selma Messai & Fathi Jouini (2013), “Micro and Macro Determinants of Non-performing Loan”, International Journal of Economics and Financial Issues, Econjournals, vol. 3(4), pages 852 - 860.
5. Ahmad, N., Ariff, M. (2007), Multi-country study of bank credit risk determinants, International Journal of Banking and Finance 5 (1), 135–152.
6. Merton Miller & Franco Modigliani (1967), “Estimates of the Cost of Capital Relevant for Investment Decisions Under Uncer- tainty”, NBER Chapters, in: Determinants of Investment Behavior, pages 179-213 National Bureau of Economic Research, Inc.32.
7. Muhammad Farhan, Ammara Sattar, Abrar Hussain Chaudhry, Fareeha Khalil (2012), Economic Determinants of Non-Perform- ing Loans: Perception of Pakistani Bankers, European Journal of Business and Management, vol 4, no.19, 2012.
8. Louzis, D., Vouldis, A., Metaxas, V. (2012), Macroeconomic and bank-specific determinants of nonperforming loans in Greece: a comparative study of mortgage, business andconsumer loan portfolios, Journal of Banking and Finance 36 (4), 1012–1027.
9. Reinhart, C., Rogoff, K. (2009), This Time is Different: Eight Centuries of Financial Folly.Princeton University Press.
SUMMARY
Determinants of credit risk in Vietnamese Commercial Bank
For credit operations, the changes in macroeconomic conditions, such as the economic cycle or the economic stability, directly impact on the repayment capacity of borrowers, thus, affect the level of credit risk of commercial banks. Besides, the individual characteristics in its business of each bank, such as capacity management, operational scale and efficiency will influence on its management efficiency as well as credit risk control. Therefore, to provide an overview of the factors affecting the credit risk, it is essential to consider macroeconomic factors, which represent the impact of the economic environment, as well as microeconomic factors, which represent bank-specific. Basing on these requirements, it is urgent to conduct further studies of factors influencing on the credit risk in the business operations of Vietnam commercial banks.
Those studies will help to find the answers for the questions: “Why has the rate of credit risk of Vietnam commercial banks increased so sharply recently?”, “How have bank-specific factors and macroeconomic factors impacted on credit risk of banks?” From this practice, the article will study the factors affecting the credit risk in the business operations of commercial banks in Vietnam.
THÔNG TIN TÁC GIẢ Nguyễn Thùy Dương, Tiến sĩ
Đơn vị công tác: Khoa Ngân hàng, Học viện Ngân hàng
Lĩnh vực nghiên cứu chính: Quản trị ngân hàng, Tín dụng ngân hàng
Tạp chí tiêu biểu đã có bài viết đăng tải: Ngân hàng, Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Email: [email protected]
đó, tình trạng an toàn tài chính chung của CTCK được thể hiện (Bảng 7).
Trên cơ sở tính điểm theo bộ tiêu chí trên, cơ quan quản lý có thể đánh giá mức an toàn tài chính của CTCK và đưa ra được biện pháp xử lý và can thiệp cụ thể:
Các CTCK có tổng điểm từ 80 trở lên được coi là có tình hình tài chính lành mạnh; từ 65-80 thì được coi là bình thường; từ 50-65 CTCK bị đưa vào diện kiểm soát
tiếp theo trang
47
và dưới 50 điểm thì bị đưa vào diện kiểm soát đặc biệt.Cách đánh giá an toàn tài chính của CTCK theo tiêu chí trên sẽ khắc phục được các bất cập của quy định hiện tại về an toàn tài chính của CTCK, phản ánh được toàn diện tình hình tài chính của CTCK. Việc ứng dụng bộ tiêu chí trên để đánh giá và xếp hạng an toàn tài chính của CTCK Việt Nam tác giả sẽ đề cập ở bài viết khác. ■
thiết như các loại dịch vụ kiểm toán, các dịch vụ kế toán; Đầu tư vào chất lượng sản phẩm dịch vụ thông qua đầu tư nguồn nhân lực ngay từ khâu tuyển dụng thu hút nhân tài, đến đào tạo đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, am hiểu nghiệp vụ, tuân thủ tốt chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, có chính sách khuyến khích nhân viên có chứng chỉ nghề nghiệp quốc tế, không ngừng cải thiện khả năng tổ chức thực hiện dịch vụ ngày càng chuyên nghiệp. ■ tiếp theo trang