Kiến thức, thái độ, thực hành phòng chống COVID-19 của người dân phường Quang Trung, thành phố
Thái Nguyên năm 2021
Cao Bá Khương , Trần Thế Hoàng , Ngô Thị Hồng TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Đại dịch COVID-19 đã và đang bùng phát nhanh chóng trên toàn cầu. Một trong những yếu tố tiên quyết và quan trọng ảnh hưởng đến công tác phòng chống COVID-19 là ý thức của người dân; điều này đòi hỏi người dân phải có kiến thức, thái độ và thực hành tốt trong phòng chống dịch.
Mục tiêu: Đánh giá kiến thức, thái độ, thực hành phòng chống COVID-19 của người dân và xác định yếu tố liên quan.
Phương pháp:Nghiên cứu mô tả cắt ngang thông qua phỏng vấn trực tiếp bằng bộ câu hỏi trên 330 người ≥ 18 tuổi tại phường Quang Trung, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.
Kết quả: Tỷ lệ nam giới chiếm 45,8%, dân tộc Kinh chiếm 81,5%. Tỉ lệ đối tượng nghiên cứu có kiến thức về phòng chống dịch COVID-19 ở mức độ tốt là 55,5%, mức độ trung bình 41,5% và kém 3,0%. Tỉ lệ đối tượng nghiên cứu có thái độ về phòng chống dịch COVID-19 ở mức độ tốt là 77,3%, mức độ trung bình 22,7%. Tỉ lệ đối tượng nghiên cứu có thực hành về phòng chống dịch COVID-19 ở mức độ tốt là 77,9%, mức độ trung bình 15,1% và kém 7,0%. Các yếu tố liên quan đến thực hành phòng chống COVID-19 ở người dân bao gồm dân tộc, trình độ học vấn, bệnh mạn tính, kiến thức, thái độ về phòng chống COVID-19.
Kết luận:Kiến thức, thái độ, thực hành của người dân về phòng chống COVID-19 còn một số hạn chế. Cần tiếp tục truyền thông giáo dục sức khỏe về phòng chống COVID-19 cho người dân trong tình hình mới.
Từ khóa:Kiến thức, thái độ, thực hành, phòng chống COVID-19, người dân.
Knowledge, attitude, and practice regarding
COVID-19 prevention among the general population in Quang Trung ward, Thai Nguyen city in 2021
Cao Ba Khuong , Tran The Hoang , Ngo Thi Hong
Background:COVID-19 pandemic has been spreading rapidly worldwide. Non-speci�c preventive measures still play an important role. The COVID-19 prevention campaigns require individuals to have su cient knowledge, good attitude, and complicance with the preventive measures.
Objective:To assess knowledge, attitudes, and practices regarding COVID-19 prevention among the general population and to determine some related factors.
Methods: A cross-sectional descriptive study by face-to-face interview using a structured questionnaire was conducted on 330 people 18 years old and above in Quang Trung ward, Thai Nguyen city, Thai Nguyen province.
Results: Male accounted for 45,8%, Kinh ethnic group accounted for 81,5%. The percentage of participants who have good knowledge about COVID-19 prevention was 55,5%, the average level was 41,5%, and the weak level was 3,0%. The percentage of participants who have a good attitude toward COVID-19 prevention was 77,3%, the average level was 22,7%. The percentage of participants who have good practice regarding COVID-19 prevention was 77,9%, the average level was 15,1%, and the weak level was 7,0%. Factors related to COVID-19 prevention practices include ethnicity, education level, chronic diseases, knowledge, and attitudes about COVID-19 prevention.
Conclusion: Knowledge, attitude, and practice of general population toward COVID-19 prevention still have some limitations. It is necessary to continue health education campaigns about COVID-19 prevention for the general population.
Key words:Knowledge, attitude, practice, COVID-19 prevention, general population.
Tác giả:
1 Trường đại học Y – Dược, đại học Thái Nguyên
2 Trung tâm Y tế thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên Email: [email protected]
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đại dịch COVID-19 đã trở thành vấn đề y tế toàn cầu với số ca mắc và tử vong có xu hướng tăng lên tại nhiều quốc gia và khu vực trên thế giới 1,2. COVID-19 gây nhiều biến chứng cho người bệnh, thậm chí tử vong và ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế toàn cầu. Mặc dù đã triển khai các biện pháp chống dịch mạnh mẽ, nhưng hiện nay toàn cầu vẫn chưa thể ngăn chặn được sự lây lan của đại dịch
Vắc xin được coi là công cụ hiệu quả trong phòng chống dịch COVID-19; tuy nhiên việc xuất hiện những biến thể mới của virus đã tạo ra xu hướng lây lan mạnh; chẳng hạn như siêu biến thể Omicron (B.1.1.529) 4. Các biện pháp phòng chống dịch không đặc hiệu (khẩu trang, khử khuẩn, khoảng cách, khai báo y tế…) vẫn đóng vai trò hết sức quan trọng trong phòng chống dịch; đòi hỏi sự tham gia và tuân thủ của người dân trong cộng đồng. Việt Nam và nhiều quốc gia trên thế giới đã và đang chuyển sang giai đoạn thích ứng linh hoạt với COVID-19.
Với chiến lược mới, người dân hoàn toàn đóng vai trò tiên quyết và chủ động trong phòng chống dịch; nhưng thực tế cho thấy, kiến thức, thái độ, thực hành của người dân về phòng chống COVID-19 còn nhiều hạn chế. Nghiên cứu của Habib MA và cs (2021) cho thấy tỉ lệ người dân có kiến thức chưa tốt về COVID-19 là 69,53%; thái độ chưa tốt là 82,2% và thực hành chưa tốt là 74,04% 5. Theo Kakemam Edris và cs (2021), tỉ lệ người dân không rửa tay bằng xà phòng nước sạch là 4,6%; không tránh chỗ đông người là 7,0%; không thường xuyên sát khuẩn tay là 20,0%; không che mũi, miệng khi hắt hơi là 23,9%6
Tại Việt Nam, đã có một số nghiên cứu về kiến thức, thái độ,thực hành phòng chống COVID-19
7,8; tuy nhiên, số lượng nghiên cứu này còn ít và tập trung chủ yếu trên đối tượng là nhân viên y tế và sinh viên. Do đó, nghiên cứu này được tiến hành nhằm đánh giá kiến thức, thái độ, thực hành phòng chống COVID-19 của người dân phường Quang Trung, thành phố Thái Nguyên năm 2021 và xác định một số yếu tố liên quan đến thực hành phòng chống COVID-19 của người dân tại địa bàn nghiên cứu.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện ở người dân ≥ 18 tuổi, có hộ khẩu thường trú và hiện đang sinh sống tại phường Quang Trung, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên, có thể trả lời phiếu phỏng vấn và đồng ý tham gia nghiên cứu.
Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 01/2021 đến tháng 11/2021.
2.2. Thiết kế nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang 2.3. Cỡ mẫuvà chọn mẫu
Cỡ mẫu: theo công thức tính cỡ mẫu trong nghiên cứu mô tả ước lượng tỷ lệ:
n = Z2(1 -α/2) x
( 1
2) d
p p −
Tỉ lệ ước lượng từ nghiên cứu trước p= 0,6953 (tỉ lệ người dân có kiến thức về phòng chống COVID-19 chưa tốt từ nghiên cứu của Habib MA và cs (2021) là 69,53%5). Với mức ý nghĩa thống kê α = 0,05, độ chính xác mong muốn
d = 0,05, tính được cỡ mẫu tối thiểu n = 326 người. Thực tế, nghiên cứu được thực hiện trên 330 người dân.
Sáu tổ dân phố được chọn ngẫu nhiên từ tổng số 18 tổ dân phố của phường Quang Trung. Sau khi lập danh sách người dân ≥ 18 tuổi tại các tổ dân phố được chọn, áp dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nghiên hệ thống để chọn 55 người dân tại mỗi tổ dân phố.
2.4. Phương pháp và công cụ thu thập số liệu Bộ công cụ thu thập số liệu được xây dựng gồm 4 phần chính, bao gồm: đặc điểm chung, kiến thức, thái độ và thực hành về phòng chống COVID-19. Bộ công cụ được gửi góp ý và chỉnh sửa bởi chuyên gia về Y học cộng đồng, truyền thông giáo dục sức khỏe và dịch tễ học. Sau đó, thực hiện điều tra thử 30 người dân để hoàn thiện bộ công cụ và kiểm tra thời gian phỏng vấn. Các câu hỏi trong bộ công cụ được chỉnh sửa đảm bảo tính dễ hiểu, loại bỏ các từ mang tính chuyên môn. Sau khi chỉnh và hoàn thiện bộ công cụ, nhóm nghiên cứu tiến hành thu thập số liệu tại từng hộ gia đình bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp với sự hỗ trợ tiếp cận của nhân viên y tế địa phương. Trong quá trình phỏng vấn, điều tra viên không đọc các đáp án lựa chọn cho đối tượng nghiên cứu.
2.5. Phân tích và xử lý số liệu
Kiến thức, thái độ, thực hành của đối tượng nghiên cứu về phòng chống COVID-19 được đánh giá dựa theo tổng điểm của các ý trả lời đúng. Mỗi ý trả lời đúng được tính một điểm.
Kiến thức, thái độ, thực hành của đối tượng nghiên cứu được phân loại theo thang điểm đánh giá của Bloom, thang điểm này vẫn được áp dụng trong nhiều nghiên cứu gần đây 9-11
Tổng điểm cho mỗi phần tương ứng với kiến thức, thái độ và thực hành được sử dụng để xếp loại theo các mức: Tốt (tổng số điểm từ 80% trở lên), trung bình (tổng điểm trên 60% và dưới 80%), kém (tổng điểm từ 60% trở xuống).
Số liệu được làm sạch, mã hóa, nhập liệu bằng phần mềm Epidata 3.1. Phân tích số liệu sử dụng phần mềm SPSS 20.0. Phân tích mô tả đối với các biến định tính sử dụng tần số và tỷ lệ phần trăm. Mối liên quan giữa các biến độc lập với thực hành phòng chống COVID-19 của người dân được kiểm định bằng Chi-square test. Mức ý nghĩa thống kê α=0,05.
2.6. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành sau khi được sự đồng ý của Hội đồng Y đức của trường đại học Y – Dược, đại học Thái Nguyên và sự chấp thuận của Sở Y tế Thái Nguyên; Trung tâm Y tế thành phố Thái Nguyên (Số 557/ĐHYD- HĐĐĐ).
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong tổng số 330 đối tượng tham gia nghiên cứu, tỷ lệ nam giới chiếm 45,8%, dân tộc Kinh chiếm 81,5%. Độ tuổi ≤ 29 tuổi chiếm 14,5%;
50-59 tuổi chiếm 20,0%; 60-69 tuổi chiếm 22,7% và ≥ 70 tuổi chiếm 5,5%. Tỉ lệ đối tượng có trình độ học vấn trung học phổ thông (29,7%), trung cấp (10,3%), cao đẳng (9,1%), đại học và sau đại học (33,0%). Kinh doanh, tự do chiếm là nghề nghiệp phổ biến của đối tượng nghiên cứu (73,6%).
Bảng 1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Biến số %
Nhóm tuổi
≤ 29 48 14,5
30 - 39 64 19,4
40 - 49 59 17,9
50 - 59 66 20,0
60 - 69 75 22,7
≥ 70 18 5,5
Giới tính
Nữ 179 54,2
Nam 151 45,8
Dân tộc
Kinh 269 81,5
Khác 61 18,5
Trình độ học vấn
≤ Tiểu học 4 1,2
THCS 55 16,7
THPT 98 29,7
Trung cấp 34 10,3
Cao đẳng 30 9,1
Đại học, sau đại học 109 33,0
Nghề nghiệp
Kinh doanh, tự do... 243 73,6
Cán bộ 45 13,6
Sinh viên 20 6,1
Công nhân 16 4,8
Nông dân 6 1,8
Tỉ lệ đối tượng biết tác nhân gây bệnh COVID-19 là virus SARS – CoV-2 chiếm 88,5%; biết lây truyền do tiếp xúc trực tiếp là 69,4% và giọt bắn là 84,5%. Tỉ lệ biết dấu hiệu chính của người nhiễm COVID-19 là sốt 99,1%; khó thở là 99,1%; ho là 80,0%. Tỉ lệ
biết cần xét nghiệm RT-PCR để chẩn đoán xác định nhiễm COVID-19 là 90,6%. Tỉ lệ đối tượng có kiến thức chung về phòng chống dịch COVID-19 ở mức độ tốt là 55,5% (183/330), mức độ trung bình 41,5% (137/330) và kém là 3,0% (10/330).
Bảng 2. Kiến thức phòng chống dịch COVID-19 của đối tượng nghiên cứu
Kiến thức %
Biết tác nhân gây bệnh COVID-19 là virus SARS-CoV-2 292 88,5 Biết virus gây bệnh COVID-19 có thể bị tiêu diệt 213 64,5 Biết yếu tố lây truyền COVID-19
Giọt bắn 279 84,5
Tiếp xúc trực tiếp 229 69,4
Không khí 94 28,5
Biết dấu hiệu chính của người bị nhiễm COVID-19
Sốt 327 99,1
Khó thở 327 99,1
Ho khan 264 80,0
Mệt mỏi, đau người, đau cơ 240 72,7
Đau họng 197 59,7
Mất ngửi 188 57,0
Xét nghiệm RT-PCR để chẩn đoán nhiễm COVID-19 299 90,6
Chưa có thuốc đặc hiệu điều trị COVID-19 267 80,9
Người cao tuổi, bệnh mạn tính hay béo phì khi nhiễm COVID-19 thì có khả
năng phát bệnh nặng hơn 288 87,3
Người dân có thể đeo khẩu trang thông thường để phòng bệnh COVID-19 284 86,1
Biết khái niệm 5K 330 100,0
Tiêm vắc xin là biện pháp tối ưu trong phòng bệnh COVID-19 328 99,4 Người tiếp xúc gần với bệnh nhân COVID-19 phải được cách ly ngay 330 100 Hầu hết đối tượng đều có thái độ ở mức độ rất
đồng ý và đồng ý đối với các hoạt động phòng chống dịch COVID-19. Tỉ lệ đối tượng có thái
độ chung về phòng chống dịch COVID-19 ở mức độ tốt là 77,3% (255/330) và mức độ trung bình 22,7% (75/330).
Bảng 3. Thái độ phòng chống dịch COVID-19 của đối tượng nghiên cứu
Nội dung 1
N (%)
2 N (%)
3 N (%)
4 N (%)
5 N (%) COVID-19 là bệnh nguy hiểm, cần hết sức
cảnh giác, chung tay phòng chống
252 (76,4)
78 (23,6)
0 (0,0)
0 (0,0)
0 (0,0) Đeo khẩu trang đúng cách là cần thiết trong
phòng chống dịch bệnh
252 (76,4)
78 (23,6)
0 (0,0)
0 (0,0)
0 (0,0) Rửa tay đúng cách là cần thiết trong phòng
chống dịch bệnh COVID-19
245 (74,2)
85 (25,8)
0 (0,0)
0 (0,0)
0 (0,0)
Khai báo y tế là cần thiết trong phòng chống dịch bệnh COVID-19
241 (73,0)
89 (27,0)
0 (0,0)
0 (0,0)
0 (0,0) Tự cách ly ở nhà khi dịch diễn biến phức
tạp là cần thiết
240 (72,7)
90 (27,3)
0 (0,0)
0 (0,0)
0 (0,0) Giám sát, truy vết, điều tra dịch tễ, lấy mẫu
xét nghiệm tất cả các trường hợp bệnh nghi ngờ là cần thiết
283 (85,8)
47 (14,2)
0 (0,0)
0 (0,0)
0 (0,0) Đối với người nhiễm COVID-19 cần cách
ly nghiêm ngặt và điều trị tránh tử vong và lây lan ra cộng đồng
242 (73,3)
88 (26,7)
0 (0,0)
0 (0,0)
0 (0,0) Tránh tiếp xúc với người có biểu hiện bệnh
và tránh tụ tập ở nơi đông người
239 (72,4)
91 (27,6)
0 (0,0)
0 (0,0)
0 (0,0) Dịch bệnh COVID-19 ở Việt Nam sẽ sớm
được kiểm soát thành công
207 (62,7)
115 (34,8)
8 (2,4)
0 (0,0)
0 (0,0) Vắc xin phòng COVID-19 là biện pháp
quan trọng để hạn chế lây nhiễm và đẩy lùi dịch bệnh
237 (71,8)
93 (28,2)
0 (0,0)
0 (0,0)
0 (0,0) 1. Rất đồng ý 2. Đồng ý 3. Không rõ 4. Không đồng ý 5. Hoàn toàn không đồng ý Tỉ lệ người dân không bao giờ đến nơi đông
người chiếm 36,7%; thường xuyên đeo khẩu trang khi ra khỏi nhà 99,4%; thường xuyên sát khuẩn tay/rửa tay bằng xà phòng 94,5%;
thường xuyên giữ khoảng cách với người khác
77,3% và cài đặt phần mềm “PC-Covid” trên điện thoại 77,0%.Tỉ lệ đối tượng có thực hành chung về phòng chống dịch COVID-19 ở mức độ tốt là 77,9% (257/330), mức độ trung bình 15,1% (50/330) và kém 7,0% (23/330).
Bảng 4. Thực hành phòng chống dịch COVID-19 của đối tượng nghiên cứu
Thực hành %
Đến nơi tập trung đông người
Thường xuyên 64 19,4 Thỉnh thoảng 76 23,0 Hiếm khi 69 20,9 Không bao giờ 121 36,7 Đeo khẩu trang khi ra khỏi nhà
Thực hành %
Thường xuyên 328 99,4 Thỉnh thoảng 2 0,6
Hiếm khi 0 0,0
Không bao giờ 0 0,0 Sát khuẩn tay/rửa tay bằng xà
phòng
Thường xuyên 312 94,5 Thỉnh thoảng 18 5,5
Hiếm khi 0 0,0
Không bao giờ 0 0,0 Giữ khoảng cách với người
khác
Thực hành % Thường xuyên 255 77,3
Thỉnh thoảng 72 21,8
Hiếm khi 0,9
Không bao giờ 0 0,0 Đã thực hiện khai báo y tế điện
tử 314 95,2
Cài đặt phần mềm “PC-Covid”
trên điện thoại 254 77,0 Tiêm vắc xin COVID-19 270 81,8 Người dân tộc Kinh tham gia nghiên cứu thực hành phòng chống COVID-19 chưa tốt (26,4%) cao hơn so với dân tộc thiểu số khác (3,3%) (p<0,001). Người có trình độ học vấn
từ cao đẳng trở xuống thực hành phòng chống COVID-19 chưa tốt (25,3%) cao hơn so với trình độ đại học/sau đại học (15,6%) (p=0,045).
Người có bệnh mạn tính kèm theo (THA, ĐTĐ) thực hành phòng chống COVID-19 chưa tốt (8,9%) thấp hơn so với người không có bệnh mạn tính kèm theo (24,2%) (p=0,021). Người có kiến thức chưa tốt thì thực hành phòng chống COVID-19 chưa tốt (27,2%) cao hơn so với người có kiến thức tốt (18,0%) (p=0,045).
Người có thái độ chưa tốt thì thực hành phòng chống COVID-19 chưa tốt (33,3%) cao hơn so với người có kiến thức tốt (18,8%) (p=0,007).
Bảng 5. Một số yếu tố liên quan với thực hành phòng chống dịch COVID-19 của đối tượng nghiên cứu
Biến số Chưa tốt (Trung bình/Kém) N (%)
Tốt
N (%) p
Tuổi
< 60 47 (19,8) 190 (80,2) 0,11
≥ 60 26 (28,0) 67 (72,0)
Giới tính
Nam 27 (17,9) 124 (82,1) 0,088
Nữ 46 (25,7) 133 (74,3)
Dân tộc
Kinh 71 (26,4) 198 (73,6) <0,001
DTTS 2 (3,3) 59 (96,7)
Trình độ học vấn
Dưới đại học 56 (25,3) 165 (74,7) 0,045
Đại học, sau đại học 17 (15,6) 92 (84,4)
Nghề nghiệp
Kinh doanh, tự do, nông dân 58 (23,3) 191 (76,7) 0,368
Cán bộ, công nhân, sinh viên 15 (18,5) 66 (81,5)
Bệnh mạn tính
Có (THA, ĐTĐ) 4 (8,9) 41 (91,1)
0,021
Không 69 (24,2) 216 (75,8)
Kiến thức
Chưa tốt (Trung bình +Kém) 40 (27,2) 107 (72,8)
0,045
Tốt 33 (18,0) 150 (82,0)
Thái độ
25 (33,3) 50 (66,7) 0,007
48 (18,8) 207 (81,2)
4. BÀN LUẬN
Hiện nay, Việt Nam đã chuyển sang giai đoạn thích ứng linh hoạt với COVID-19 cùng với độ bao phủ vắc xin khá cao tại nhiều tỉnh thành trên cả nước. Tuy nhiên, có nhiều vấn đề đang đặt ra như sự xuất hiện của nhiều biến chủng mới của SARS-CoV-2, sự giảm sút của hiệu giá kháng thể theo thời gian, sự chậm lại của các chiến dịch tiêm các mũi vắc xin nhắc lại đối với COVID-19, do đó các biện pháp chống dịch không đặc hiệu vẫn đóng vai trò quan trọng.
Việc đánh giá kiến thức, thái độ và thực hành của người dân trong phòng chống COVID-19 nhằm cung cấp bằng chứng khoa học cho công tác phòng chống dịch COVID-19 là rất cần thiết.
Kết quả nghiên cứu cho thấy hầu hết đối tượng nghiên cứu có kiến thức về phòng chống COVID-19 ở mức độ trung bình trở lên (97,0%), trong đó tỷ lệ có kiến thức tốt chiếm 55,5%. Tỷ lệ này thấp hơn một chút so với nghiên cứu của Nguyễn Huỳnh Bảo Ân và cs được tiến hành tại Thành phố Hồ Chí Minh với tỷ lệ người dân có kiến thức đúng về COVID-19 trên 80,0%8 Tỷ lệ này cao hơn nhiều so với nghiên cứu của Maryam và cs tiến hành tại Nigeria với 20,5%
người dân có kiến thức tốt 5. Sự khác biệt này có thể xuất phát từ sự chênh lệch giữa điều kiện phát triển, kinh tế xã hội giữa các địa bàn nghiên cứu. Ngoài ra, nghiên cứu này được thực hiện tại một phường trung tâm của một thành phố và có tới 52,4% đối tượng có trình độ từ trung cấp
trở lên và phần lớn là người kinh doanh, tự do (73,6%). Hơn nữa, khả năng tiếp cận thông tin về COVID-19 ở khu vực trung tâm thành phố cũng nhiều hơn và từ nhiều nguồn đa dạng hơn.
Về những kiến thức cụ thể về phòng chống COVID-19, đối tượng nghiên cứu biết tác nhân gây bệnh COVID-19 là virus SARS – CoV-2 và lây truyền qua giọt bắn chiếm tỷ lệ khá cao lần lượt là 88,5% và 84,5%. Kiến thức của đối tượng nghiên cứu về các biểu hiện phổ biến của bệnh khá đầy đủ và tỉ lệ biết cần xét nghiệm RT-PCR để xác định nhiễm COVID-19 (90,6%). Tuy nhiên, kiến thức của đối tượng nghiên cứu về một số đặc điểm khác còn hạn chế như tỷ lệ đối tượng biết virus gây bệnh COVID-19 có thể bị tiêu diệt chỉ là 64,5%, biết yếu tố lây truyền quan tiếp xúc trực tiếp là 69,4% và không khí là 28,5%. Như vậy, đây là vấn đề cần quan tâm trong các chiến lược truyền thông về phòng chống COVID-19 nhằm giúp cho người dân hiểu đúng về đường lây, khả năng tồn tại của SARS-CoV-2 từ đó có biện pháp khử khuẩn, vệ sinh phù hợp tại cộng đồng.
Toàn bộ đối tượng nghiên cứu đều biết khái niệm 5K và biết người tiếp xúc gần với bệnh nhân COVID-19 cần phải được cách ly và hầu hết đối tượng nghiên cứu đều biết tiêm vắc xin là biện pháp tối ưu trong phòng bệnh COVID-19 (99,4%). Đây là điểm thuận lợi để địa phương cũng như những khu vực khác đẩy nhanh được độ bao phủ vắc xin trong phòng COVID-19 khi được phân bổ.
Gần như toàn bộ đối tượng nghiên cứu đều có thái độ ở mức độ rất đồng ý và đồng ý đối với các hoạt động phòng chống dịch COVID-19 cho thấy thái độ của người dân là rất tích cực đối với các hoạt động này. Kết quả của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Huỳnh Giao và cs (2020) tại bệnh viện Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy đối tượng nghiên cứu có thái độ tích cực về phòng chống COVID-19 7 Đây là điểm thuận lợi trong triển khai các hoạt động phòng chống dịch tại cộng đồng góp phần nâng cao sự tuân thủ khuyến cáo và hiệu quả phòng chống dịch tại cộng đồng. Ngược lại, nghiên cứu của Habib MA và cs năm 2021 cho thấy tỉ lệ người dân ở Bắc Nigieria có thái độ chưa tốt lên tới 82,2%5
Tỉ lệ người dân không bao giờ đến nơi đông người chiếm 36,7%; thường xuyên đeo khẩu trang khi ra khỏi nhà 99,4%; thường xuyên sát khuẩn tay/rửa tay bằng xà phòng 94,5%;
thường xuyên giữ khoảng cách với người khác 77,3% và cài đặt phần mềm “PC-COVID”
trên điện thoại 77,0%. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi về thực hành các biện pháp phòng chống COVID-19 tốt hơn so với nghiên cứu của Kakemam Edris và cs (2021): tỉ lệ người dân không rửa tay bằng xà phòng nước sạch là 4,6%; không tránh chỗ đông người là 7,0%;
không thường xuyên sát khuẩn tay là 20,0%;
không che mũi, miệng khi hắt hơi là 23,9%6 Kết quả nghiên cứu cho thấy một số yếu tố liên quan đến thực hành phòng chống COVID-19 như trình độ học vấn, dân tộc, bệnh mạn tính, kiến thức và thái độ về phòng chống COVID-19.
Nghiên cứu của Olum Ronald và cs (2020) cũng cho thấy trình độ học vấn liên quan đến thực
hành phòng chống COVID-19, theo đó người có trình độ đại học trở lên thực hành tốt hơn (OR:
18,4; 95% CI: 1,0 – 322,9)12. Bên cạnh đó, theo nghiên cứu tại bệnh viện đại học Y Makerere, Uganda của Olum Ronald và cs (2020) thấy các yếu tố liên quan đến thực hành tốt là tuổi từ 40 trở lên (OR: 48,4; 95% CI: 3,1 – 742,9) 12. Sự khác biệt này có thể do việc thực hiện các biện pháp phòng chống COVID-19 ở Việt Nam được triển khai với việc huy động cộng đồng tham gia rất tích cực nên kết quả không khác nhau nhiều theo nhóm tuổi và giới tính.
Ngoài ra, tỷ lệ tử vong và biến chứng nặng do COVID-19 xảy ra nhiều hơn ở người cao tuổi, người suy giảm miễn dịch và mắc các bệnh mạn tính kèm theo 13. Đây cũng là bức tranh chung với diễn biến dịch tại Việt Nam trong những đợt bùng phát dịch gần đây. Các hoạt động truyền thông có nhiều nội dung và hoạt động nhắm đến nhóm đối tượng này, điều này có thể lý giải vì sao nhóm người/đối tượng có bệnh lý nền lại thực hành phòng chống COVID-19 tốt hơn.
Kết quả nghiên cứu cho thấy kiến thức, thái độ cũng là yếu tố liên quan đến thực hành phòng chống COVID-19 của người dân tại cộng đồng. Kết quả này phù hợp với khoa học về hành vi và giáo dục sức khỏe, kiến thức và thái độ liên quan đến thực hành của người dân/đối tượng nghiên cứu. Đây cũng là bằng chứng cho thấy việc cần thiết và tăng cường truyền thông cho người dân về phòng chống dịch bệnh COVID-19 nhằm nâng cao kiến thức, thái độ, qua đó cải thiện thực hành. Đặc biệt trong giai đoạn có những báo cáo về việc người dân tại một số địa phương có xu hướng/tâm lý chủ quan trong phòng chống dịch bệnh. Tuy nhiên,
do nguồn kinh phí hạn hẹp nên nghiên cứu này được triển khai tại một địa bàn nhỏ ở một thành phố với một cỡ mẫu nhỏ, do đó kết quả từ nghiên cứu này khó có thể đại diện cho người dân nói chung. Những nghiên cứu tiếp theo cần được tiến hành trên nhiều địa điểm và với cỡ mẫu lớn hơn để đảm bảo tính đại diện. Nghiên cứu này đã đánh giá được các thực hành cơ bản của người dân trong phòng chống dịch COVID-19.
Tuy nhiên, một số hành vi như thực hiện 5K, cài đặt phần mềm “PC-COVID”, khai báo y tế điện tử đã được thay đổi để phù hợp hơn với tình hình mới. Do đó, các nghiên cứu tiếp theo cần cập nhật những thay đổi trong chiến lược phòng chống dịch COVID-19.
5. KẾT LUẬN
Tỉ lệ đối tượng nghiên cứu có kiến thức chung về phòng chống dịch COVID-19 mức độ tốt là 55,5%, mức độ trung bình 41,5% và kém 3,0%. Tỉ lệ đối tượng nghiên cứu có thái độ về phòng chống dịch COVID-19 mức độ tốt là 77,3%, mức độ trung bình 22,7%. Tỉ lệ đối tượng nghiên cứu có thực hành chung về phòng chống dịch COVID-19 mức độ tốt là 77,9%, mức độ trung bình 15,2% và kém là 7,0%. Một số yếu tố liên quan đến thực hành phòng chống COVID-19 ở người dân bao gồm dân tộc, trình độ học vấn, bệnh mạn tính, kiến thức, thái độ về phòng chống COVID-19.
Kiến thức, thái độ, thực hành của người dân về phòng chống COVID-19 còn một số hạn chế.
Các hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe cần tập trung nâng cao kiến thức của người dân về một số nội dung như sức đề kháng của các tác nhân gây bệnh và biện pháp khử khuẩn hiệu quả từ đó nâng cao và duy trì thực hành
tốt phòng chống COVID-19 cho người dân.
Cần quan tâm đến một số đặc điểm như dân tộc, trình độ học vấn, bệnh mạn tính khi lập kế hoạch và triển khai các hoạt động phòng chống dịch tại cộng đồng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Morawska L, Cao J. Airborne transmission of SARS-CoV-2: The world should face the reality.Environ Int.2020;139:105730-105730.
2. Gebru AA, Birhanu T, Wendimu E, et al.
Global burden of COVID-19: Situational analyis and review. Hum Antibodies.
2021;29(2):139-148.
3. Palacios Cruz M, Santos E, Velázquez Cervantes MA, León Juárez M. COVID-19, a worldwide public health emergency. Rev Clin Esp (Barc).2021;221(1):55-61.
4. Karim SSA, Karim QA. Omicron SARS- CoV-2 variant: a new chapter in the COVID-19 pandemic. Lancet. 2021;398(10317):2126- 2128.
5. Habib MA, Dayyab FM, Iliyasu G, Habib AG. Knowledge, attitude and practice survey of COVID-19 pandemic in Northern Nigeria.
PLOS ONE.2021;16(1):e0245176.
6. Kakemam E, Ghoddoosi-Nejad D, Chegini Z, et al. Knowledge, Attitudes, and Practices Among the General Population During COVID-19 Outbreak in Iran: A National Cross- Sectional Online Survey. 2020;8(868).
7.Huynh G, Nguyen T,TranV,Vo K, VoV, Pham L. Knowledge and attitude toward COVID-19 among healthcare workers at District 2 Hospital, Ho Chi Minh City. 2020;13(6):260-265.
8. Ân Huỳnh Bảo Nguyễn NTC, Dũng Hoàng Nguyễn, Ngọc Thị Tiểu Nguyễn, Nghĩa Quang Võ, Minh Công Bùi. Knowledge, attitudes, practices and barriers for implementation of preventing measures toward COVID-19 among residents of Tan Phu district, Ho Chi Minh city.
Science & Technology Development Journal - Health Sciences.2021(Vol 2 No 2 (2021)):247- 256.
9. Koo H-C, Poh B, Ruzita A. Assessment of knowledge, attitude and practice towards whole grains among children aged 10 and 11 years in Kuala Lumpur. Int J Food Sci Nutr Diet.2015;4(1):171-177.
10. Yimer M, Abera B, Mulu W, Bezabih B.
Knowledge, attitude and practices of high risk populations on louse-borne relapsing fever in Bahir Dar city, north-west Ethiopia. Science Journal of Public Health.2014;2(1):15-22.
11. Seid MA, Hussen MS. Knowledge and attitude towards antimicrobial resistance among nal year undergraduate paramedical students at University of Gondar, Ethiopia.
BMC infectious diseases.2018;18(1):1-8.
12. Olum R, Chekwech G, Wekha G, Nassozi DR, Bongomin F. Coronavirus Disease-2019:
Knowledge, Attitude, and Practices of Health Care Workers at Makerere University Teaching Hospitals, Uganda. Front Public Health.
2020;8(181).
13. Singhal T. A Review of Coronavirus Disease-2019 (COVID-19). Indian J Pediatr.
2020;87(4):281-286.