Chuyên Đề Chẩn Đoán Hình Ảnh - Y Tế Công Cộng
354MỐI LIÊN QUAN GIỮA TIÊU THỤ THỨC UỐNG CÓ ĐƢỜNG VÀ THỪA CÂN Ở HỌC SINH THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bùi Thị Kiều Anh1, Lý Thành Trung1, Lê Văn Tuân2
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Thừa cân ở trẻ em được quan tâm đặc biệt vì nó dẫn đến thừa cân ở tuổi vị thành niên và tuổi trưởng thành. Thừa cân ở trẻ em tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch, tiểu đường và tử vong sớm ở tuổi trưởng thành; giảm đáng kể chất lượng cuộc sống và nhiều nguy cơ trẻ bị trêu chọc, bắt nạt và cô lập xã hội.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ thừa cân béo phì và mối liên quan với tần suất tiêu thụ thức uống có đường (sugar-sweetened beverage -SSB) ở học sinh lứa tuổi từ 6 đến 17 tuổi tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên 1545 học sinh lứa tuổi từ 6 đến 17 tuổi, đại diện cho các cấp lớp từ lớp 1 đến lớp 12 từ ba vùng: thành thị, bán thành thị và nông thôn tại Thành phố Hồ Chí Minh. Học sinh được khảo sát bằng bộ câu hỏi soạn sẵn, được cân đo cân nặng chiều cao hiện tại.
Kết quả: Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ học sinh từ 6 đến 17 tuổi thừa cân béo phì lần lượt là 22,9% và 17,0%. Trong số các loại thức uống có đường, loại nước giải khát được học sinh tiêu thụ nhiều nhất là nước ép, nước ngọt cola, nước uống không ga và sữa có hương vị/trà sữa. Những học sinh tiêu thụ tần suất cao những loại thức uống có đường bao gồm nước tăng lực, sữa có đường và trà sữa/sữa có vị có cân nặng nhẹ hơn so với học sinh tiêu thụ những thức uống này với tần suất ít thường xuyên hơn.
Kết luận: Chú trọng đưa ra các chiến sách, biện pháp để kiểm soát sự sẵn có của SSB tại trường học, bữa ăn tại trường cung cấp các lựa chọn thực phẩm lành mạnh, căng tin lành mạnh.
Từ khóa: thừa cân, béo phì, thức uống có đường
ABSTRACT
SUGAR-SWEETENED BEVERAGE CONSUMPTION CORRELATES WITH OVERWEIGHT AMONG SCHOOL CHILDREN IN HO CHI MINH CITY
Bui Thi Kieu Anh, Ly Thanh Trung, Le Van Tuan
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 26 - No. 2 - 2022: 354 - 362 Background: Childhood overweight is of special concern because of its lead to overweight in adolescence and adulthood. Overweight in children increased risk of cardiovascular diseases, diabetes and premature mortality in adulthood and are associated with significant reductions in quality of life and a greater risk of teasing, bullying and social isolation.
Objective: To explore the proportions of overweight/obesity and its correlation with sugar-sweetened beverage consumption among school children aged from 6 to 17 years old in Ho Chi Minh city.
Method: The cross-sectional study was implemented on 1545 school children aged from 6 to 17 years old, represented for 1st to 12th grade class from three areas (urban, semi-urban, and rural) in Ho Chi Minh city.
Children were interviewed face to face by questionnaire and were measured about weight, height.
Results: The results showed that among school children aged from 6 to 17 years, the percentage of overweight and obese was 22.9% and 17.0% respectively. Among types of sugar-sweetened beverage, the type of beverage which children consumed most were squash, colas, non-carbonated drink, and flavored milk/milk tea. For those who consumed high regular energy drinks, milk with added sugar and milk tea had less weight than those
1Viện Y tế Công cộng TP. Hồ Chí Minh 2Văn phòng Đại diện phía Nam - Tổ chức Y tế Thế giới Tác giả liên lạc: ThS. Bùi Thị Kiều Anh ĐT: 0906801279 Email:[email protected]
consumed less regular ones.
Conclusion: For control availability of SSB at school, school meal offer healthy food choices, healthy canteen should be considered.
Key words: overweight, obesity, sugar-sweentened beverage
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thừa cân béo phì đã trở thành một vấn đề sức khỏe cộng đồng và là một yếu tố nguy cơ chính của bệnh mãn tính, gánh nặng tàn tật và tử vong(1). Thừa cân ở trẻ em được quan tâm đặc biệt vì nó dẫn đến thừa cân ở tuổi vị thành niên và tuổi trưởng thành. Ước tính một nửa số trẻ em trong độ tuổi đi học bị thừa cân sẽ trở nên thừa cân khi trưởng thành(2). Thừa cân trong giai đoạn đầu đời không chỉ liên quan đến việc gia tăng tỷ lệ mắc các rối loạn liên quan đến thừa cân, mà còn liên quan đến sức khỏe tâm lý. Các nghiên cứu đã cho thấy mối liên quan thuận giữa thừa cân ở trẻ em và tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch, tiểu đường và tử vong sớm ở tuổi trưởng thành(3). Ngoài ra, thừa cân và béo phì ở trẻ em có liên quan đến việc giảm đáng kể chất lượng cuộc sống và nhiều nguy cơ trẻ bị trêu chọc, bắt nạt và cô lập xã hội(4).
Tỷ lệ thừa cân béo phì ở trẻ em về cơ bản tăng trên toàn thế giới trong những năm gần đây. Tỷ lệ béo phì ở độ tuổi 2-19 tuổi là 13,9%
năm 1999-2000, tăng lên 16,9% năm 2009-2010 và tăng lên 18,5% vào năm 2015-2016(5). Nhiều nước
“chuyển đổi dinh dưỡng” ở Đông Nam Á được cho là có tốc độ gia tăng tỷ lệ thừa cân nhanh hơn so với các nước phát triển(6). Sự phát triển kinh tế - xã hội và đô thị hóa nhanh cùng với sự thay đổi trong thói quen ăn uống và gia tăng tình trạng thiếu hoạt động thể lực được coi là một trong những yếu tố môi trường xã hội quan trọng quyết định đến nguy cơ béo phì ở trẻ em ở các nước đang phát triển.
Trẻ em ngày càng tiêu thụ nhiều thực phẩm không lành mạnh có nhiều năng lượng, chất béo và đường bổ sung là vấn đề rất đáng quan tâm, vì nó có liên quan đến chất lượng chế độ ăn uống kém, tăng cân quá mức, béo phì và nguy cơ mắc các bệnh không lây nhiễm(7,8). Thức uống
có đường (sugar sweetened beverage - SSB) như một dạng đường bổ sung hàng đầu đang được đặc biệt chú ý. Một số nghiên cứu đã chỉ ra mối liên quan giữa tiêu thụ SSB với việc tăng trọng lượng cơ thể(7,9). Tuy nhiên, những nghiên cứu mối liên quan giữa tiêu thụ SSB và béo phì thường được tiến hành trong chế độ ăn uống của phương Tây. Bằng chứng về mối liên quan giữa việc tiêu thụ SSB và tăng trọng lượng cơ thể trong chế độ ăn uống của phương Đông chưa được báo cáo đầy đủ.
Ở Việt Nam, tỷ lệ thừa cân béo phì tăng nhanh, đặc biệt là ở trẻ em và thanh thiếu niên ở khu vực thành thị. Nhiều nghiên cứu về tình trạng thừa cân và béo phì đã được tiến hành, nhưng ở các nhóm tuổi cụ thể(10-12). Một nghiên cứu xem xét vấn đề này ở trẻ em trong độ tuổi đi học từ 6 đến 17 tuổi là rất quan trọng, cần thiết.
Từ tỷ trọng này, xu hướng tỷ lệ thừa cân giữa các nhóm tuổi sẽ được xem xét.
Thành phố Hồ Chí Minh có sự phát triển kinh tế xã hội và công nghiệp hóa nhanh chóng, cùng với sự phát triển đó, tỷ lệ thừa cân và béo phì ở trẻ em tăng nhanh ở mức báo động chỉ trong vòng chưa đầy một thập kỷ. Tỷ lệ thừa cân và béo phì lần lượt là 5,9% và 0,7% vào năm 2002, tăng gấp ba lần lên 17,8% và 3,2% vào năm 2010(10). Kết quả cho thấy tình trạng thừa cân, béo phì ở thanh thiếu niên thành phố Hồ Chí Minh tăng cao. Việc tiêu thụ SSB có thể là nguyên nhân một phần dẫn đến sự gia tăng này.
Việt Nam đã thiết lập và triển khai các chương trình nâng cao sức khỏe, cụ thể là Chương trình Dinh dưỡng học đường nhằm thúc đẩy hoạt động thể chất và thói quen dinh dưỡng tốt từ năm 2004-2010 với mục đích ngăn ngừa tình trạng thừa cân và béo phì ở trẻ em và thanh thiếu niên(13). Tuy nhiên, giảm thiểu chế độ ăn uống nghèo nàn như tiêu thụ SSB vẫn chưa tập trung vào chương trình quốc gia này. Kết
Chuyên Đề Chẩn Đoán Hình Ảnh - Y Tế Công Cộng
356quả về tỷ lệ thừa cân béo phì và mối liên quan của nó với SSB và các yếu tố kinh tế xã hội khác từ nghiên cứu này có thể góp phần xây dựng chiến lược trong Chương trình Dinh dưỡng học đường nhằm kiểm soát tình trạng thừa cân ở học sinh tại Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và Việt Nam nói chung.
Nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu xác định tỷ lệ thừa cân béo phì và mối liên quan giữa thừa cân béo phì với tần suất tiêu thụ SSB và các yếu tố kinh tế xã hội khác ở học sinh lứa tuổi từ 6 đến 17 tuổi tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.
ĐỐI TƢỢNG - PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tƣợng nghiên cứuTrên 1530 học sinh lứa tuổi từ 6 đến 17 tuổi được chọn ngẫu nhiên, đại diện cho các cấp lớp từ lớp 1 đến lớp 12 từ ba vùng: thành thị, bán thành thị và nông thôn tại Thành phố Hồ Chí Minh (TP. HCM) trong năm 2017.
Tiêu chí chọn vào
Học sinh đang học tại các trường tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông tại thời điểm tiến hành nghiên cứu tháng 10/2017 và đồng ý tham gia nghiên cứu hoặc được sự chấp thuận của cha mẹ/người nuôi dưỡng cho tham gia nghiên cứu.
Tiêu chí loại ra
Học sinh vắng mặt trong cả 2 lần khảo sát.
Phƣơng pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang.
Cỡ mẫu
Tính theo công thức ước lượng một tỷ lệ trong dân số:
Tỷ lệ thừa cân và béo phì ở trẻ 11-14 tuổi tại Thành phố Hồ Chí Minh lần lượt là 17,8% và 3,2% vào năm 2013(10). Áp dụng công thức trên với p=0,21; độ chính xác là d=0,05, với hệ số thiết kế là 2,0. Cỡ mẫu là 510 học sinh cho mỗi vùng,
chúng ta có tổng số mẫu là 1530.
Kỹ thuật chọn mẫu
Nghiên cứu sử dụng chọn mẫu cụm nhiều giai đoạn.
Thành phố Hồ Chí Minh được chia tách hành chính thành 24 quận với: 7 quận nội thành (quận 1,3,4,5,10, Phú Nhuận, Bình Thạnh); 12 quận bán nội thành (quận 2, 6,7,8,9,11,12, Tân Bình, Thủ Đức, Gò Vấp, Bình Tân, Tân Phú) và 5 quận ngoại thành (huyện Củ Chi, Hóc Môn, Bình Chánh, Nhà Bè, Cần Giờ). Nghiên cứu tiến hành trên 3 quận huyện: quận 5, quận Tân Phú và huyện Hóc Môn được chọn ngẫu nhiên đơn làm đại diện tương ứng cho 3 vùng đô thị: vùng thành thị, bán thành thị và nông thôn.
Hơn 90% trẻ em và vị thành niên từ 6-17 tuổi sống tại Thành phố Hồ Chí Minh đăng ký học tại các trường tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông của các quận, huyện trên địa bàn thành phố. Vì vậy, nghiên cứu đã được thực hiện ở các trường giúp cho việc khảo sát trở nên dễ dàng và hiệu quả hơn.
Một trường tiểu học, một trường trung học cơ sở và một trường trung học phổ thông cho mỗi quận, huyện đã được chọn ngẫu nhiên từ danh sách tất cả các trường bao gồm cả trường công lập và trường tư thục do Sở Giáo dục và Đào tạo TP. Hồ Chí Minh cho năm học 2017- 2018. Ở mỗi trường lựa chọn ngẫu nhiên hai lớp theo mỗi cấp học (lớp 1 đến lớp 5 đối với tiểu học và từ lớp 6 đến lớp 9 đối với trung học cơ sở và lớp 10 đến lớp 12 đối với trung học phổ thông) theo danh sách cung cấp bởi Ban Giám Hiệu nhà trường. Dựa trên danh sách chi tiết của học sinh cho từng lớp, mỗi lớp có 17 trẻ, 22 trẻ và 29 trẻ được chọn ngẫu nhiên hệ thống tương ứng ở các trường tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông. Với 72 lớp từ 9 trường ở TP. Hồ Chí Minh, số trẻ dự kiến là 1.530 trẻ, gồm 510 trẻ ở thành thị, 510 trẻ ở bán thành thị và 510 trẻ ở nông thôn.
Biến số nghiên cứu
Biến số kết cục là tình trạng thừa cân, béo phì
ở học sinh thông qua đo về cân nặng, chiều cao.
Dữ kiện về thông tin chung và tiêu thụ SSB được thu thập bằng phỏng vấn trực tiếp học sinh thông qua bảng câu hỏi. Điều tra viên được tập huấn bài bản đã tiến hành cân đo và giải thích mục đích nghiên cứu, phỏng vấn trực tiếp từng học sinh tại 1 phòng riêng được bố trí tại trường.
Bảng câu hỏi dành cho học sinh bao gồm các thông tin chung (tên, tuổi, lớp, giới tính); khẩu phần ăn sử dụng bảng câu hỏi tần suất thực phẩm liên quan đến tiêu thụ SSB trong 12 tháng qua (loại, khẩu phần, tần suất). Danh mục các thức uống có đường được minh họa bằng tranh ảnh có màu cho học sinh nhận diện.
Công cụ đo lường, cách đánh giá phân loại Đánh giá tình trạng thừa cân, béo phì
Đo nhân trắc học về cân nặng, chiều cao:
Cân nặng của học sinh khi mặc quần áo nhẹ không đi giày, chính xác đến 100g bằng cân điện tử Xiaomi Smart Scale. Chiều cao được đo bằng khoảng cách từ đỉnh đầu đến chân dưới của bàn chân không mang giày, chính xác đến 0,1 cm bằng cách sử dụng thước đo băng dính.
Chỉ số khối cơ thể (BMI) được tính bằng cân nặng (kilôgam) chia cho bình phương chiều cao (mét). Chỉ số BMI là một phép đo hợp lý và thích hợp nhất để đánh giá tình trạng dinh dưỡng ở trẻ em và thanh thiếu niên(14). Điểm z-score BMI được tính bằng cách sử dụng tham chiếu của WHO 2007 về BMI theo tuổi ở trẻ em từ 5-19 tuổi(15). Thừa cân được định nghĩa là BMI theo tuổi lớn hơn 1 độ lệch chuẩn (SD) trên mức trung bình tham chiếu tăng trưởng của WHO; và béo phì được định nghĩa là lớn hơn 2 SD; béo phì nặng được định nghĩa là lớn hơn 3 SD so với mức trung bình tham chiếu tăng trưởng của WHO.
Đo lường mức tiêu thụ thức uống có đường:
Nghiên cứu này sử dụng Bảng câu hỏi tần suất thực phẩm bán định lượng của Harvard (Food Frequency Questionnaire - FFQ) phù hợp với trẻ em và thanh thiếu niên, không tốn kém và đơn giản để áp dụng cho dân số lớn(16). FFQ
này đã loại trừ các câu hỏi liên quan đến uống rượu và cà phê vì tần suất uống của chúng thấp trong dân số mục tiêu tại nghiên cứu. FFQ liên quan đến tần suất tiêu thụ các loại thức uống cụ thể trong 12 tháng qua, bao gồm nước ngọt (không có ga, năng lượng thông thường, đồ uống thể thao, cola, đá bào); nước ép, sinh tố, sữa (sữa có đường, trà sữa/sữa có vị và sữa lắc).
Bảng câu hỏi SSB sử dụng khẩu phần phụ thuộc vào từng loại đồ uống cụ thể là chai, lon, thủy tinh. Kích thước khẩu phần thông thường được ghi lại theo thể tích của từng loại đồ uống (khoảng 250-700 ml phù hợp với đồ uống cụ thể) và số lượng khẩu phần mỗi lần: ít hơn ½ khẩu phần mỗi lần, ½-3/4 khẩu phần mỗi lần, 1 khẩu phần mỗi lần và 2 phần ăn mỗi lần(17). Đối với mỗi loại SSB, phân bố tần suất được chia thành 9 nhóm bao gồm dưới một lần mỗi tháng, 1-3 lần mỗi tháng, 1 lần mỗi tuần, 2-4 lần mỗi tuần, 5-6 lần mỗi tuần, 1 lần mỗi ngày, 2-3 lần mỗi ngày, 4-5 lần mỗi ngày, hơn 6 lần mỗi ngày(18).
Tần suất tiêu thụ thấp thức uống có đường được định nghĩa khi tiêu thụ thức uống có đường với tần suất ít hơn 2 đến 4 lần trong tuần (từ phân loại mức 1 đến mức 4 trong Bảng câu hỏi tần suất thực phẩm bán định lượng của Harvard). Tần suất tiêu thụ cao thức uống có đường được định nghĩa khi tiêu thụ thức uống có đường với tần suất trên 5-6 lần trong tuần (từ phân loại mức 5 đến mức 9 trong Bảng câu hỏi tần suất thực phẩm bán định lượng của Harvard).
Xử lý và phân tích số liệu
Dữ kiện được nhập bằng phần mềm EpiData 3.1, xử lý và phân tích dữ kiện bằng phần mềm thống kê STATA 14.0. Để ước tính tỷ lệ thừa cân ở trẻ em, chỉ số BMI được tính bằng cách sử dụng tài liệu tham khảo của WHO 2007 về BMI theo tuổi ở trẻ em từ 5-19 tuổi(14). Kiểm định chi bình phương và kiểm định chính xác Fisher được sử dụng để đánh giá mức độ ý nghĩa của sự khác biệt trong phân bố các đặc điểm của học sinh được chọn (giới tính, lớp học, vị trí trường học); với tỷ lệ thừa cân và tiêu thụ SSB. Kiểm
Chuyên Đề Chẩn Đoán Hình Ảnh - Y Tế Công Cộng
358định t-test không bắt cặp được sử dụng để so sánh hai nhóm độc lập. Giá trị p <0,05 được coi là có ý nghĩa thống kê.
Y đức
Nghiên cứu được thông qua Hội đồng y đức của Tổ chức y tế thế giới số 65696/WPVNM1611355; được sự cho phép của Sở Y tế TP. HCM và Sở Giáo dục và Đào tạo TP.
Hồ Chí Minh.
KẾT QUẢ
Có 1545 học sinh được phỏng vấn, với tỷ lệ phản hồi đạt được là 101%, toàn bộ phiếu khảo sát đều được trả lời đầy đủ các thông tin.
Đặc tính mẫu nghiên cứu
Trong số 1545 học sinh, số học sinh nữ và nam gần tương đương nhau. Nhóm tuổi 15 – 17 tuổi tương ứng học khối lớp 10, lớp 11, lớp 12 chiếm tỷ lệ cao nhất dao động 10,7% - 11,4%;
nhóm tuổi 6 – 10 tuổi tương ứng học khối lớp 1 đến khối lớp 5 chiếm tỷ lệ thấp nhất, dao động khoảng 6,5% mỗi khối lớp. Tỷ lệ học sinh từ các trường trong vùng thành thị, bán thành thị và nông thôn gần tương đương nhau (Bảng 1).
Bảng 1: Đặc tính dân số xã hội học sinh (n=1545)
Thông tin Tần số (n) Tỷ lệ (%)
Giới tính Nam 778 50,4
Nữ 767 49,6
Thông tin Tần số (n) Tỷ lệ (%)
Nhóm tuổi
6 tuổi 101 6,5
7 tuổi 102 6,6
8 tuổi 102 6,6
9 tuổi 102 6,6
10 tuổi 100 6,5
11 tuổi 123 8,0
12 tuổi 139 9,0
13 tuổi 135 8,7
14 tuổi 131 8,5
15 tuổi 165 10,7
16 tuổi 169 10,9
17 tuổi 176 11,4
Cấp học
Tiểu học 507 32,8
Trung học cơ sở 528 34,2 Trung học phổ thông 510 33,0 Vị trí trường
Thành thị 510 33,0
Bán thành thị 525 34,0
Nông thôn 510 33,0
Tỷ lệ thừa cân béo phì học sinh 6-17 tuổi
Bảng 2 cho thấy, tỷ lệ học sinh từ 6 đến 17 tuổi thừa cân béo phì lần lượt là 22,9% và 17,0%.
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ thừa cân, béo phì và béo phì nặng giữa giới tính, cấp học và vị trí trường học với p <0,05. Tỷ lệ thừa cân, béo phì và béo phì nặng chiếm tỷ lệ cao nhất ở học sinh tiểu học (chiếm gần 58%), ở thành thị và bán thành thị (49,1% với 37,1%) cao hơn ở nông thôn (33,7%) và ở nam sinh cao gấp đôi so với nữ sinh (52,7% với 26,9%).
Bảng 2: Tỷ lệ thừa cân béo phì ở học sinh 6-17 tuổi phân theo giới, cấp học và vị trí trường (n=1545)
Đặc tính Thừa cân Béo phì và béo phì nặng Thừa cân, béo phì và béo phì nặng
n % n % n %
Giới tính
Nam 206 26,5** 204 26,2** 410 52,7**
Nữ 148 19,3 59 7,7 207 26,9
Cấp học
Tiểu học 136 26,7** 159 31,2** 295 57,9**
Trung học cơ sở 133 25,4 75 14,3 208 39,7
Trung học phổ thông 85 16,6 29 5,7 114 22,3
Vị trí trường
Thành thị 139 27,2* 112 21,9* 251 49,1**
Bán thành thị 116 22,4 76 14,7 192 37,1
Nông thôn 99 19,2 75 14,5 174 33,7
Tổng 354 22,9 263 17,0 617 39,9
*p <0,05 (chi -square test) ** p <0,001 (chi- square test)
Bảng 3: Tỷ lệ tiêu thụ thức uống có đường (SSB) ở học sinh 6-17 tuổi (n=1545)
Tần suất tiêu thụ
Loại SSB (n, %)
Nước ngọt Nước ép
tươi/đóng hộp
Sữa Không có
ga
Năng lượng
Đồ uống
thể thao Colas Sinh tố đá bào
Sữa có đường
Trà sữa/sữa
có vị Sữa lắc Không uống 399(25,8) 583(37,7) 889(57,5) 341(22,1) 1218(78,8) 284(18,4) 480(31,1) 451(29,2) 1229(79,6)
Có uống 1146(74,2) 962(62,3) 656(42,5) 1204(77,9) 327(21,2) 1261(81,6) 1065(68,9) 1094(70,8) 316(20,4)
< 1 mỗi tháng 129 (11,3) 120(12,5) 70(10,7) 167(13,9) 62(18,9) 86(6,8) 20(1,9) 95(8,7) 54(17,1) 1-3 mỗi tháng 247 (21,6) 227(23,6) 117(17,8) 282(23,4) 61(18,7) 269(21,3) 46(4,3) 206(18,8) 86(27,2) 1 lần mỗi tuần 389 (33,9) 321(33,4) 244(37,2) 383(31,8) 146(44,7) 421(33,4) 72(6,8) 370(33,8) 114(36,1)
2-4 mỗi tuần 293 (25,6) 232(24,1) 170(25,9) 295(24,5) 36(11,0) 360(28,6) 169(15,9) 290(26,5) 44(13,9) 5-6 mỗi tuần 27 (2,4) 8(0,8) 16(2,4) 19(1,6) 5(1,5) 29(2,3) 66(6,2) 26(2,4) 4(1,3)
1 lần mỗi
ngày 52 (4,5) 47(4,9) 35(5,3) 52(4,3) 17(5,2) 95(7,5) 430(40,4) 87(7,9) 13(4,1) 2-3 mỗi ngày 9 (0,8) 7 (0,7) 4(0,6) 6(0.5) 0 (0) 1(0,08) 241(22,6) 19(1,7) 1(0,3) 4-5 mỗi ngày 0 (0) 0 (0) 0 (0) 0 (0) 0 (0) 0 (0) 20 (1,9) 1 (0,1) 0 (0)
6+ mỗi ngày 0 (0) 0 (0) 0 (0) 0 (0) 0 (0) 0 (0) 1 (0.1) 0 (0) 0 (0)
Kết quả Bảng 3 cho thấy tỷ lệ từng loại thức uống được tiêu thụ ở trẻ em và thanh thiếu niên 6- 17 tuổi. Trong số các loại thức uống có đường, loại nước giải khát được trẻ em tiêu thụ nhiều nhất là nước ép, nước ngọt cola, nước uống không ga và sữa có hương vị/trà sữa; lần lượt chiếm 82%, 78%, 74%, 71%. Hầu hết trẻ uống nước ngọt với tần suất lớn nhất là 1 lần / tuần là 34% (không có ga), 33% (năng lượng) và 37%
(nước thể thao). Hơn 60% trẻ em cho biết chúng tiêu thụ cola với tần suất từ 1 lần/tuần trở lên. Đa số trẻ chọn sữa có đường là thức uống hàng ngày. Gần 72% số trẻ tham gia nghiên cứu uống sữa hoặc trà sữa có hương vị, trong đó 1/5 số chúng uống đôi khi với tần suất ít hơn 1-3 lần mỗi tháng và số còn lại uống hàng tuần. Sữa lắc là thức uống mới xuất hiện vài năm trở lại đây tại TP.HCM, tuy nhiên có 20% trẻ uống ít nhất 1 lần / tháng, trong đó 50% trẻ uống hàng tuần.
Mối liên quan thừa cân béo phì với tiêu thụ thức uống có đƣờng ở học sinh 6-17 tuổi
Bảng 4 chỉ ra rằng có ý nghĩa thống kê trong mối liên quan giữa cân nặng và việc tiêu thụ tần suất cao nước có năng lượng, sữa có đường và trà sữa/sữa có vị. Ở tất cả học sinh được chọn, đối với những trẻ uống nhiều nước có năng lượng thường xuyên gần như mỗi ngày có cân nặng nhẹ hơn những trẻ ít uống hơn, chiếm trung bình lần lượt là 39 kg và 46 kg (p <0,001).
Tương tự, kết quả giống nhau đối với sữa có đường và trà sữa/sữa có vị. Trẻ uống sữa có pha thêm đường hàng ngày có cân nặng nhẹ hơn so với trẻ uống sữa ít thường xuyên hơn (trung bình 42,6 kg so với trung bình 49,5 kg); và những trẻ tiêu thụ nhiều trà sữa/sữa có vị thường xuyên (trung bình 42 kg) nhẹ cân hơn những trẻ tiêu thụ ít thường xuyên hơn (trung bình 47 kg) với cả hai p <0,001.
Bảng 4: Mối liên quan giữa cân nặng với tiêu thụ thức uống có đường ở học sinh 6-17 tuổi (n=1545)
Đặc tính
Tần suất tiêu thụ các loại thức uống có đường (TB±ĐLC)
Không có ga Năng lượng Đồ uống thể thao Colas Sữa có đường Trà sữa/sữa có vị Tần suất
thấp a
Tần suất cao b
Tần suất thấpa
Tần suất cao b
Tần suất thấp a
Tần suất cao b
Tần suất thấp a
Tần suất cao b
Tần suất thấp a
Tần suất cao b
Tần suất thấp a
Tần suất cao b Giới tính
Nam 48,7±17, 0
47,7
±19,9
49,4±17, 0
39,7±12,9
* 51,3±17,
3 51,3±18,3 48,8±17,
0 45,4±16,7 51.8±16, 3
46,2±15,6
* 49,7±16, 3
41,3±15,9
**
Nữ 43,4±12, 3
37,1±13,8
* 42,4±11,
9 38,3±10,3 45,7±12, 5
39,0±11,1
* 43,3±12,
1 39,3±9,9 47,2±12, 8
38,8±11,3
** 44,9±12,
3 42,7±11,6 Cấp học
Tiểu
học 33,3±9,9 29,0±8,3* 32,8±9,6 31,3±7,2 34,5±10,
31,9±9,3 33,1±10,
32,8±8,0 33,3±9,9 31,3±8,5 33,3±9,9 31,3±8,5
Chuyên Đề Chẩn Đoán Hình Ảnh - Y Tế Công Cộng
360Đặc tính
Tần suất tiêu thụ các loại thức uống có đường (TB±ĐLC)
Không có ga Năng lượng Đồ uống thể thao Colas Sữa có đường Trà sữa/sữa có vị Tần suất
thấp a
Tần suất cao b
Tần suất thấpa
Tần suất cao b
Tần suất thấp a
Tần suất cao b
Tần suất thấp a
Tần suất cao b
Tần suất thấp a
Tần suất cao b
Tần suất thấp a
Tần suất cao b THC
S
48,7±11,
0 51,7±17,8 49,1±11,
9 45,3±11,4 50,3±11,
5 52,0±14,1 49,2±11,
6 48,0±12,4 48,4±10,
3 46,5±10,8 48,4±10,
3 46,5±10,8 THPT 57,3±12,
9 59,2±10,7 58,0±12,
4 48,3±8,3* 59,3±13,
2 59,1±16,2 57,2±12,
4 60,5±10,9 58,4±12, 6
55,5±11,4
* 58,4±12, 6
55,5±11,4
*
Vị trí trường Thàn
h thị
48,1±16,
3 49±17,2 48,4±16,
1 41,6±13,5 51,0±16,
2 50,6±20,1 48,3±16,
2 50,8±14,1 51,4±16, 2
44,9±15,8
* 51,4±16, 2
44,9±15,8
*
Bán thành
thị
45,1±14,
0 41,0±17,6 45,7±14,
8 37,7±9,8* 49,3±15,
7 49,1±16,3 45,4±14, 3
39,2±12,5
* 47,4±15, 6
41,6±13,0
* 47,4±15, 6
41,6±13,0
*
Nông thôn
44,5±14,
2 39,5±19,0 44,1±14,
4 38,6±12,4 46,1±14,
6 41,5±14,1 45,0±14,
4 40,1±15,5 50,2±12, 3
41,6±13,6
** 50,2±12, 3
41,6±13,6
**
Tổng 45,9±15,
0 43,3±18,3 46,0±15, 2
39,1±11,8
** 48,9±15,
6 47,1±17,1 46,2±15,
1 43,2±14,8 49,5±14, 8
42,6±14,2
** 47,2±14, 5
42,1±13,7
**
a Tần suất tiêu thụ thấp thức uống có đường được định nghĩa khi tiêu thụ thức uống có đường với tần suất ít hơn 2 đến 4 lần trong tuần (từ phân loại mức 1 đến mức 4 trong Bảng câu hỏi tần suất thực phẩm bán định lượng của Harvard (Food Frequency Questionnaire – FFQ)
b Tần suất tiêu thụ cao thức uống có đường được định nghĩa khi tiêu thụ thức uống có đường với tần suất trên 5-6 lần trong tuần (từ phân loại mức 5 đến mức 9 trong Bảng câu hỏi tần suất thực phẩm bán định lượng của Harvard (Food Frequency Questionnaire – FFQ)
* t- test với p<0,05 **t-test với p<0,001
BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu này, tỷ lệ thừa cân và béo phì ở trẻ em và thanh thiếu niên từ 6 đến 17 tuổi lần lượt là 22,9% và 17,0%. Kết quả này cho thấy xu hướng thừa cân và béo phì trong hơn một thập kỷ đã tăng lên lần lượt hai lần và tám lần: tỷ lệ thừa cân và béo phì của nghiên cứu trước đó tại TP. Hồ Chí Minh năm 2004 (lần lượt là 11,7%
và 2,1%) và năm 2013 (lần lượt 17,8% và 3,2%).
Có sự khác biệt về tỷ lệ thừa cân giữa các điểm trường ở thành thị, bán thành thị và nông thôn.
Sự sẵn có ngày càng nhiều của các loại thực phẩm và đồ uống giàu năng lượng đang đóng một vai trò trong việc gia tăng tỷ lệ béo phì được báo cáo ở các khu vực thành thị của các nước đang phát triển.
Hơn 50% trẻ em và thanh thiếu niên từ 6-17 tuổi TP. Hồ Chí Minh trong nghiên cứu tiêu thụ lượng đường bổ sung từ thức uống có đường.
Nước ép tươi/đóng hộp là một loại thức uống có đường mà học sinh tiêu thụ lớn nhất và đá bào được báo cáo là chiếm tỷ lệ thấp nhất. Sữa có đường được tiêu thụ khoảng 70%. Khoảng một
phần ba trẻ em và thanh thiếu niên uống một khẩu phần tất cả các loại SSB mỗi tuần. Nhìn chung khoảng 30% học sinh thường xuyên tiêu thụ nước ngọt, nước ép trái cây và cola với tần suất hơn 2-4 lần mỗi tuần. Tỷ lệ tiêu thụ SSB với tần suất ít hơn một lần mỗi tháng ở tất cả các loại SSB gần như tương đương nhau ở trẻ em và thanh thiếu niên từ 6 đến 17 tuổi. Do đó, phân bố mức tiêu thụ SSB tần suất cao được xác định là sử dụng SSB với tần suất từ 5 đến 6 lần mỗi tuần trở lên (5 - 6 lần/tuần hoặc 1 lần/ngày, 2 - 3 lần/ngày, 4 - 5 lần/ngày, hơn 6 lần/ngày) để phân tích cho mối liên quan với tình trạng thừa cân béo phì.
Phân tích mức tiêu thụ SSB tần suất cao được xác định là sử dụng SSB với tần suất 5-6 lần mỗi tuần trở lên, kết quả cho thấy, trẻ em trai thường uống SSB cao hơn trẻ em gái đối với đồ uống không có ga, nước tăng lực, nước uống thể thao, cola; và ngược lại các bé gái uống nước ép, trà sữa và sữa lắc nhiều hơn các bé trai. Học sinh tiểu học thường tiêu thụ sữa có đường, nước trái cây và sinh tố nhiều hơn hai nhóm khác. Học
sinh trung học cơ sở tiêu thụ SSB loại không có ga, nước tăng lực, thức uống thể thao và cola (đồ uống không tốt cho sức khỏe) với tần suất thường xuyên hơn so với hai nhóm cấp học khác. Trà sữa là một loại SSB mà học sinh trung học phổ thông tiêu thụ thường xuyên hơn. Khi so sánh giữa các vùng dân cư, tỷ lệ tiêu thụ SSB thường xuyên gần như tương tự ở trẻ em và thanh thiếu niên tại các trường học ở thành thị, bán thành thị và nông thôn.
Thức uống có đường SSB có thể khuyến khích nạp thêm năng lượng vì chúng có chỉ số đường huyết cao(19,20). Do đó, việc tiêu thụ SSB khuyến khích tổng năng lượng được hấp thụ cao hơn, thúc đẩy tăng cân. Nghiên cứu hiện tại đã xem xét các mối liên quan cắt ngang giữa thừa cân và tiêu thụ SSB. Để xem xét liệu SSB có góp phần làm tăng cân ở trẻ em và thanh thiếu niên từ 6-17 tuổi hay không, nghiên cứu hiện tại đã đề cập đến mối quan hệ giữa cân nặng và một số loại năng lượng cao của SSB bao gồm thức uống không có ga, nước tăng lực, đồ uống thể thao, cola, sữa có bổ sung đường và trà sữa đối với trẻ em từ 6 đến 17 tuổi tại TP. Hồ Chí Minh.
Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa cân nặng của học sinh và tiêu thụ nước tăng lực, sữa có đường và trà sữa. Ở tất cả học sinh được chọn, đối với những trẻ uống nhiều nước tăng lực với tần suất cao gần như mỗi ngày có cân nặng nhẹ hơn những trẻ ít uống hơn, chiếm trung bình lần lượt là 39 kg và 46 kg (p <0,001).
Hình ảnh tương tự đã được báo cáo giống nhau đối với sữa có thêm đường và trà sữa. Trẻ uống sữa có đường hàng ngày có cân nặng (trung bình 43 kg) nhẹ hơn so với trẻ uống sữa ít thường xuyên (trung bình 49 kg); và những trẻ tiêu thụ nhiều trà sữa thường xuyên có trọng lượng (trung bình 42 kg) ít hơn những người tiêu thụ ít thường xuyên hơn (trung bình 47 kg) với cả hai p <0,001.
Phát hiện của chúng tôi rằng việc uống SSB thường xuyên có liên quan đến tăng cân hơi bất ngờ. Một số nhà nghiên cứu đã gợi ý mối liên quan thuận giữa việc tiêu thụ SSB và tỷ lệ thừa
cân cao ở thanh niên(7,9,21,22).
Một nghiên cứu thuần tập được thực hiện trên 10.000 thanh thiếu niên Hoa Kỳ từ 9-14 tuổi để đánh giá mối quan hệ giữa sự thay đổi chỉ số BMI và lượng đồ uống có thêm đường đã báo cáo rằng các bé trai và bé gái tăng lượng thức uống có đường với 1 khẩu phần mỗi ngày đã tăng cân hơn những loại có lượng ăn vào không thay đổi (+0,10 kg/m2 và +0,065 tương ứng)(23). Từ kết quả của các nghiên cứu tiền cứu trước đó báo cáo rằng 1 khẩu phần SSB mỗi ngày có thể dẫn đến tăng cân từ 0,7 - 6,8 kg trong 1 năm hoặc trong các nghiên cứu cắt ngang báo cáo rằng nguy cơ thừa cân cao hơn 46% ở nhóm trẻ em tiêu thụ ≥3 khẩu phần SSB mỗi ngày(9). Ngoài sự khác biệt về số đo, sai số đo lường và khoảng thời gian tiến hành nghiên cứu có thể chiếm phần lớn sự khác biệt này.
Nghiên cứu hiện tại không phù hợp với các nghiên cứu trước đây có thể được giải thích một phần do sự thiên lệch về việc tự báo cáo giữa những học sinh tham gia và thiếu phân tích lượng calo trong thực phẩm điển hình cụ thể thường được tiêu thụ cùng với SSB để có thể tính toán tổng năng lượng ăn vào của đối tượng.
Trẻ em thừa cân thường uống SSB trong quá khứ; tuy nhiên có khả năng chúng uống ít SSB hơn trong khoảng thời gian phỏng vấn vì cha mẹ cấm uống SSB. Trẻ em cân nặng bình thường có thể uống bất kỳ loại SSB nào mà không bị cha mẹ cấm. Hơn nữa, nghiên cứu này không phân tích lượng calo trong SSB và lượng calo trong thực phẩm thường được tiêu thụ cùng với SSB.
Đối với những trẻ uống SSB thường xuyên có thể có xu hướng ăn ít thức ăn hơn và giảm cân so với những người uống SSB không thường xuyên. Hàm lượng chất dinh dưỡng thấp của đồ uống giàu năng lượng như không có ga, nước tăng lực, cola có thể không đủ để duy trì sự phát triển bình thường ở trẻ em vì nó đòi hỏi nhiều chất dinh dưỡng hơn. Ngay cả khi sữa và nước ép trái cây cũng góp phần làm tăng cân, chúng có lợi ích bổ dưỡng, trong khi cola hoặc nước ngọt chỉ cung cấp calo.
Chuyên Đề Chẩn Đoán Hình Ảnh - Y Tế Công Cộng
362KẾT LUẬN
Thay đổi thói quen tiêu thụ thức uống có đường sẽ có khả năng góp phần giảm tình trạng thừa cân béo phì ở học sinh. Hành vi là một chức năng trong một bộ phận của môi trường vật chất, môi trường xã hội và các đặc điểm cá nhân và di truyền. Do đó, các yếu tố này càng ổn định theo thời gian, thì việc thay đổi hành vi sẽ thành công nhất. Tuy nhiên, trong bối cảnh của nghiên cứu này tập trung vào sự thay đổi của các đặc điểm cá nhân. Đối tượng mục tiêu là trẻ em và thanh thiếu niên được xác định có thể thiết lập sự ổn định của hành vi cá nhân bằng cách kiểm soát sự sẵn có của SSB tại nhà và trường học;
bằng cách vâng lời cha mẹ của chúng về các quy tắc tiêu thụ SSB và bằng cách tăng giờ hoạt động thể chất ở trường cũng như ngoài trường.
Nghiên cứu can thiệp sâu hơn với các yếu tố can thiệp này nên được xem xét để có được hiệu quả lâu dài trong việc giảm béo phì ở trẻ em. Chú trọng đưa ra các chiến sách, biện pháp để kiểm soát sự sẵn có của SSB tại trường học, bữa ăn tại trường cung cấp các lựa chọn thực phẩm lành mạnh, căng tin lành mạnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Biro FM, Wien M (2010). Childhood obesity and adult morbidities. American Journal of Clinical Nutrition, 91(5):1499S-505S.
2. Serdula MK, Coates RJ, Freedman DS, Williamson DF, Byers T (1993). Do obese children become obese adults?A review of the literature. PrevMed, 03(22):167-77.
3. Must A (2003). Does overweight in childhood have an impact on adult health. Nutrition Review, 61:139-42.
4. Morrison KM, Shin S, Tarnopolsky M, Taylor VH (2015).
Association of depression & health related quality of life with body composition in children and youth with obesity. Journal of Affective Disorders, 172:18-23.
5. Ogden CL, Carroll MD, Fryar CD, Flegal KM (2014). Prevalence of Obesity Among Adults and Youth: United States.
6. Popkin BHS, Kim S (2001). The nutrition transition and prevention of diet-related diseases in Asia and the Pacific. Food Nutr Bulletin, 22:11-58.
7. Collison KS, Zaidi MZ, Subhani SN, Al-Rubeaan K, Shoukri M, Al-Mohanna FA (2010). Sugar-sweetened carbonated beverage consumption correlates with BMI, waist circumference, and poor dietary choices in school children. BMC Public Health, 10(1):234.
8. Linardakis M, Sarri K, Pateraki M-S, Sbokos M, Kafatos A (2008). Sugar-added beverages consumption among kindergarten children of Crete: effects on nutritional status and risk of obesity. BMC Public Health, 8(1):279.
9. Pereira M (2006). The possible role of sugar-sweetened beverages in obesity etiology: a review of the evidence.
International Journal of Obesity, 30:S28-S36.
10. Nguyen Ngoc Van Phuong, Tang Kim Hong, Truong Hoang, Robert AR (2013). High prevalence of overweight among adolescents in Ho Chi Minh City, Vietnam. BMC Public Health, 13(1):141.
11. Tang K Hong, Dibley MJ, Sibbritt D, Phan N T Binh, Trang NH, Tran T M Hanh (2007). Overweight and obesity are rapidly emerging among adolescents in Ho Chi Minh City, Vietnam, 2002–2004. International Journal of Pediatric Obesity, 2(4):194-201.
12. Tang K Hong, Dibley MJ, Sibbritt D, Tran HM (2007). Gender and socio-economic differences in BMI of secondary high school students in Ho Chi Minh City. Asia Pacific Journal of Clinical Nutrition, 16(1):74-83.
13. Le T, Do T, Nguyen V, Tran T, Nguyen K, Nguyen T, et al (2010). Effectiveness of nutrition intervention and physical excercise on overeweight/obesity control in primary school children in district 10 of Hociminh city in 2008-2009. Journal of Food Nutrition Science, 6(3):4.
14. Dietz WH, Bellizzi MC (1999). The use of body mass index to assess obesity in children. American Journal Clinical Nutrition, 70:123S–5S.
15. Mercedes DO, Adelheid WO, Elaine B, Amani S, Chizuru N, Jonathan S (2007). Development of a WHO growth reference for school-aged children and adolescents. World Health Organization, 85:660–667.
16. Rockett HRH, Wolf AM, Colditz G (1995). Development and Reproducibility of a Food Frequency Questionnaire to Assess Diets of Older Children and Adolescents. Journal of American Diet Association, 95:336-40.
17. Morgan R, Jain M, Miller A, Choi N, et al (1978). A comparison of dietary methods in epidemiologic studies. American Journal of Epidemiology, (107):488-98.
18. Willett W, Sampson L, Bain C, et al (1981). Vitamin supplement use among registered nurses. American Journal of Clinical Nutrition, 34:1121-5.
19. Baranowski T, Baranowski J, Mendlein J, Ken R, Frank E, &
Cullen KW (2000). Physical Activity and Nutrition in Children and Youth: An Overview of Obesity Prevention. Preventive Medicine, 31(2):S1-S10.
20. Ludwig DS (2002). The glycemic index: Physiological mechanisms relating to obesity, diabetes, and cardiovascular disease. JAMA, 287(18):2414-23.
21. GA Bray SN, BM Popkin (2004). Consumption of high-fructose corn syrup in beverages may play a role in the epidemic of obesity. American Society for Clinical Nutrition, 79(4):537-43.
22. Catherine S. Berkey, Helaine R.H. Rockett, Alison E. Field, Matthew W. Gillman, Colditz GA (2004). Sugar-Added Beverages and Adolescent Weight Change. Obesity Research Journal, 12(5):778-788.
23. Nishida C, Uauy R, et al (2004). The Joint WHO/FAO Expert Consultation on diet, nutrition and the prevention of chronic diseases: process, product and policy implications. Public Health Nutrition, 7(1A):245–250.
Ngày nhận bài báo: 18/08/2021
Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 10/02/2022 Ngày bài báo được đăng: 15/03/2022