• Tidak ada hasil yang ditemukan

NÂNG CAO HI

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "NÂNG CAO HI"

Copied!
9
0
0

Teks penuh

(1)

ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY

Số 76 (04/2021) No. 76 (04/2021)

Email: [email protected] ; Website: http://sj.sgu.edu.vn/

NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH ONLINE

Improving the efficiency of implementing the law on tax administration for online business activities

ThS. Lê Đình Quang Phúc

Trường Đại học Kinh tế – ĐH Đà Nẵng

TÓM TẮT

Kinh doanh online là một trong những hình thức kinh doanh phổ biến hiện nay. Đặc biệt, trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 đang phức tạp, kinh doanh online trở thành phương thức kinh doanh hiệu quả, giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn. Để đảm bảo sự công bằng, minh bạch cho nền kinh tế, vấn đề nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh online cần được đặt ra và giải quyết.

Từ khóa: kinh doanh online, quản lý thuế, thực hiện pháp luật ABSTRACT

Today, online business is one of the popular forms of business. Especially, in the complicated situation of COVID-19 pandemic, online business has become an effective business method, helping enterprises overcome difficulties. To ensure fairness and transparency for the economy, the issue of improving the efficiency of implementation of the law on tax administration for online business activities should be addressed and resolved.

Keywords: online business, tax administration, implementation of the law

1. Đặt vấn đề

Ngày nay, cuộc cách mạng công nghệ 4.0 mang lại cơ hội cho các nước đang phát triển rút ngắn quá trình công nghiệp hoá bằng cách đi tắt đón đầu, phát triển nhảy vọt lên công nghệ cao hơn. Mạng internet cùng hàng loạt thiết bị hỗ trợ giao dịch điện tử mang lại cho người dùng nhiều tính năng vượt trội, đáp ứng nhu cầu giao tiếp, chia sẻ thông tin với lưu lượng lớn. Đặc biệt, các công cụ trực tuyến này được xem là kênh kinh doanh có hiệu quả cao và hiệu ứng lan tỏa mạnh. Kinh doanh online có nhiều ưu điểm so với hình thức kinh doanh

truyền thống, nó không những giải phóng sự giới hạn về mặt không gian, tiết kiệm thời gian mà còn thu hút một lượng lớn khách hàng. Từ đó mang đến một nguồn thu nhập đáng kể cho các cá nhân, tổ chức thực hiện kinh doanh.

Pháp luật Việt Nam hiện hành quy định nộp thuế là nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức phát sinh thu nhập chịu thuế và được xác lập dựa trên nền tảng kinh tế của người nộp thuế. Do đó, mọi chủ thể thực hiện hoạt động kinh doanh đều phải thực hiện nghĩa vụ đóng thuế, đặc biệt là khi hình thức kinh doanh online ngày càng phổ biến và mang

Email: [email protected]

(2)

lại mức thu nhập cao thì vấn đề thực hiện nghĩa vụ về thuế đối với các chủ thể nói trên ngày càng được quan tâm hơn. Trong bối cảnh đó, chống thất thu thuế từ hoạt động kinh doanh online là hết sức cần thiết.

Từ những nhận định đó, trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung làm rõ một số vấn đề lý luận và thực trạng thực hiện pháp luật về quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh online. Từ đó đề xuất một số kiến nghị nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh online tại Việt Nam.

2. Khái quát pháp luật về quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh online

2.1. Khái quát pháp luật về quản lý thuế Quản lý thuế là quá trình nhà nước tác động lên đối tượng và chủ thể nộp thuế, bằng phương pháp, công cụ nhất định nhằm đạt được mục đích một cách nhanh chóng, hiệu quả thông qua việc tổ chức thực hiện các quy định pháp luật về thuế.

Quản lý thuế bao gồm hoạt động xây dựng chính sách, ban hành văn bản pháp luật điều chỉnh thuế và luật thuế, tổ chức bộ máy ngành thuế và tác động đến nghĩa vụ của người nộp thuế.

Dưới góc độ pháp luật, nội dung quản lý thuế được quy định tại Điều 4, Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 (sau đây gọi là Luật Quản lý thuế 2019). Theo đó, nội dung quản lý thuế bao gồm các hoạt động sau: i) Đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, ấn định thuế; ii) Hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế, không thu thuế; iii) Khoanh tiền thuế nợ; xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt; miễn tiền chậm nộp, tiền phạt; không tính tiền chậm nộp; gia hạn nộp thuế; nộp dần tiền thuế nợ; iv) Quản lý thông tin người nộp thuế; v) Quản lý hóa đơn, chứng từ; vi) Kiểm tra thuế, thanh tra thuế và thực hiện biện pháp

phòng, chống, ngăn chặn vi phạm pháp luật về thuế; vii) Cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế; viii) Xử phạt vi phạm hành chính về quản lý thuế; ix) Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế; x) Hợp tác quốc tế về thuế; xi) Tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế. Ngoài ra, pháp luật hình sự Việt Nam cũng quy định các tội phạm về thuế như tội trốn thuế và các tội phạm liên quan đến hành vi chiếm đoạt tiền ngân sách nhà nước thông qua hoàn thuế, chuyển giá.

2.2. Khái quát về kinh doanh online Kinh doanh online ngày nay có thể được hiểu là hoạt động thương mại điện tử.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại số 36/2005/QH11 (sau đây gọi là Luật Thương mại 2005) và khoản 1 Điều 3 Nghị định số 52/2013/NĐ-CP về Thương mại điện tử (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 08/2018/NĐ-CP), có thể hiểu hoạt động thương mại điện tử là việc thực hiện hoạt động mua bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ trên các hệ thống điện tử như internet, mạng máy tính hoặc các mạng mở khác. Theo đó, hoạt động thương mại điện tử chủ yếu tập trung vào hai lĩnh vực nói trên, không bao hàm các hoạt động đầu tư trong sản xuất.

Tuy nhiên, khoản 16 Điều 4 Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 (sau đây gọi là Luật Doanh nghiệp 2014) và khoản 21 Điều 4 Luật Doanh nghiệp số 59/2020/QH14 (sau đây gọi là Luật Doanh nghiệp 2020) sẽ có hiệu lực từ ngày 01/01/2021 lại đưa ra khái niệm kinh doanh bao gồm các hoạt động đầu tư, sản xuất hay cung ứng dịch vụ nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Câu hỏi đặt ra là liệu đầu tư online có được xem là hoạt động kinh doanh online không? Theo nghĩa rộng, đối tượng của hoạt động kinh doanh online có thể là hoạt động đầu tư, sản xuất, tiêu thụ

(3)

sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ.

Kinh doanh online là việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động kinh doanh nhằm mục đích sinh lợi, vì vậy nó mang một số đặc điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, chủ thể trong kinh doanh online ngoài các bên trong giao dịch mua bán hàng hóa, còn có bên thứ ba là bên cung cấp dịch vụ mạng - người tạo môi trường cho giao dịch online diễn ra và có trách nhiệm lưu giữ thông tin giao dịch bằng các dữ liệu điện tử, tăng cường độ tin cậy cho giao dịch online.

Thứ hai, hình thức của hoạt động kinh doanh online được thực hiện thông qua các phương tiện điện tử kết nối toàn cầu mà chủ yếu là mạng internet. Các bên tham gia giao dịch có thể giao kết hợp đồng bằng các thao tác online mà không cần phải tổ chức các cuộc hẹn ký kết hợp đồng tại một địa điểm cụ thể.

Thứ ba, vấn đề nộp thuế đối với hoạt động kinh doanh online được xác định theo cơ chế tự kê khai, tự nộp của chủ thể phát sinh thu nhập chịu thuế. Ngoài ra, đối với các website thương mại điện tử phải đăng ký nhập mã số thuế và tuân thủ nghĩa vụ về thuế đối với cá nhân và doanh nghiệp.

Theo đó, các hình thức bán hàng tương tự như sàn giao dịch thương mại điện tử phải đăng ký với Bộ Công thương và thực hiện nghĩa vụ về thuế. Kinh doanh online là hoạt động phi biên giới nên vấn đề quản lý thuế đối với dòng luân chuyển hàng hóa, tiền tệ phát sinh từ hoạt động này sẽ gây nhiều thách thức cho cơ quan quản lý thuế Việt Nam.

3. Thực trạng thực hiện pháp luật về quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh online

Từ năm 1997 tại Việt Nam, với khả năng kết nối trên diện rộng, internet được ứng dụng trong nhiều lĩnh lực khác nhau

như văn hóa, giáo dục, chính trị, v.v. Đặc biệt, sự xuất hiện của internet trong thương mại đã mở ra một lĩnh vực kinh doanh mới trên thế giới: kinh doanh online. Những website nhỏ lẻ bắt đầu ra đời trên nền tảng sự phát triển của hệ thống internet trong nước chủ yếu thực hiện hoạt động buôn bán hàng hóa và tạo nên thói quen mua hàng online của người Việt. Giữa bối cảnh đó, hàng loạt các website thực hiện hoạt động kinh doanh online hình thành như:

Chợ điện tử, muaban.net, vatgia.net, v.v.

Có thể thấy, sau hơn 20 năm phát triển thì hoạt động kinh doanh online đã xóa bỏ đi thế độc quyền của hình thức kinh doanh truyền thống.

Ngày nay, kinh doanh online có thể xem như một phần của nền kinh tế nhiều thành phần. Để điều chỉnh các vấn đề của hoạt động kinh doanh online, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 52/2013/NĐ-CP về Thương mại điện tử và sau đó là Nghị định số 08/2018/NĐ-CP sửa đổi một số Nghị định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc quản lý của Bộ Công thương.

Bên cạnh những ưu điểm vượt trội của quy định pháp luật về kinh doanh online như các chính sách phát triển bền vững, minh bạch hoạt động thương mại điện tử thông qua các chương trình phát triển thương mại điện tử quốc gia thì vẫn tồn tại không ít hạn chế, đặc biệt vấn đề quản lý thuế đối với hình thức kinh doanh online còn khá nhiều bất cấp, chưa có những phân công cụ thể về vấn đề quản lý việc nộp thuế của các cá nhân, tổ chức kinh doanh online. Đây cũng là một phần của lỗ hổng về mặt pháp luật thương mại điện tử.

Ngoài ra, hoạt động kinh doanh online còn được điều chỉnh bởi Luật Thương mại 2005 và các văn bản hướng dẫn Luật Thương mại. Đối với việc quản lý thuế của hoạt động kinh doanh online, pháp luật

(4)

nước ta quy định trong các đạo luật thuế và quản lý thuế. Sự điều chỉnh của nhiều văn bản pháp luật đối với thuế phát sinh từ hoạt động kinh doanh online tất yếu đòi hỏi nâng cao tính chất pháp lý của hệ thống thuế đi đôi với đổi mới tổ chức ngành thuế, đảm bảo thi hành nghiêm chỉnh các quy định pháp luật về thuế từ phía người nộp thuế và người thu thuế.

Tuy nhiên, quản lý thuế hiện nay còn nhiều vấn đề khá bất cập trong hoạt động kinh doanh online, cụ thể:

Thứ nhất, hệ thống pháp luật nước ta chưa bao quát toàn bộ vấn đề kiểm soát việc đăng ký kinh doanh bằng hình thức online. Ngày nay, sự phát triển vượt bậc công nghệ thông tin làm cho vấn đề quản lý trên mạng internet gặp phải nhiều khó khăn. Chính sách quản lý hoạt động kinh doanh online chủ yếu xác lập trên cơ sở sự tự giác đăng ký kinh doanh của chủ thể thực hiện hoạt động kinh doanh. Mặc dù đã có các quy định về thu thuế đối với người kinh doanh online nhưng thực tế cho thấy rất khó để thu thuế từ đối tượng này, từ đó tạo ra sự bất bình đẳng giữa các chủ thể kinh doanh (Lý Vương Khanh & Vũ Đình Năm, 2021).

Thứ hai, chủ thể thực hiện hoạt động kinh doanh online không tự giác đăng ký kê khai nộp thuế. Phần lớn các chủ thể kinh doanh chưa có ý thức tự giác đăng ký kinh doanh online dẫn tới việc kinh doanh online mà không kê khai thuế thu nhập online. Mặc dù Thông tư số 166/2013/TT- BTC quy định chi tiết về xử phạt vi phạm hành chính về thuế đã có những quy định xử lý hành vi này, tuy nhiên chế tài của Nhà nước ta vẫn chưa đủ tính răn đe. Do vậy, tất yếu cần hình thành khung pháp lý hợp lý về xử phạt hành chính đối với các hành vi không kê khai thuế, phát huy vai trò của cơ quan nhà nước đồng thời nâng

cao quyền chủ động của cơ quan hành pháp, nâng cao ý thức người nộp thuế.

Thứ ba, hệ thống quy phạm pháp luật về thuế và quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh online bộc lộ nhiều mặt hạn chế trước sự phát triển của khoa học công nghệ. Hệ thống các quy định của nước ta về vấn đề này còn mang tính chắp vá, thiếu đồng bộ, thiếu tính chất linh hoạt trong vận dụng và thực hiện trên thực tế. Hiện nay vẫn chưa có các văn bản chuyên biệt điều chỉnh dẫn đến những khe hở pháp lý để cho việc trốn thuế kinh doanh để các đối tượng trốn thuế gây thất thu cho ngân sách nhà nước.

Thứ tư, sự phối hợp liên ngành chưa thật sự chặt chẽ, tổ chức bộ máy thu thuế cồng kềnh, trình độ và kinh nghiệm quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh online của cán bộ ngành thuế còn hạn chế. Như đã trình bày, việc quản lý thuế trong kinh doanh online chỉ thực sự hiệu quả khi có sự phối hợp của nhiều cơ quan chức năng như Cục Thuế, Bộ Công thương, v.v. Tính hệ thống của các quy định pháp lý tất yếu cần sự kết hợp đồng bộ các cơ quan trong thực thi pháp luật đồng thời không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn về lĩnh vực quản lý thuế nói trên.

Tại Hà Nội, qua việc rà soát đã phát hiện ra tổng giao dịch, tính đến cuối tháng 6 năm 2020, từ hoạt động kinh doanh online lên đến 14.290 tỷ đồng. Trong tổng số 13.422 chủ tài khoản facebook có hoạt động kinh doanh online, chỉ khoảng 2.000 cá nhân đã thực hiện việc đăng ký và được cấp mã số thuế (Huyền Thu, 2020). Còn tại Thành phố Hồ Chí Minh, gần đây, Cục Thuế Thành phố đã phát hiện một số cá nhân có thu nhập từ kinh doanh online nhưng không thực hiện việc kê khai và nộp thuế. Qua đó, có trường hợp cá nhân bị truy thu và xử phạt 4,1 tỷ đồng (Bùi Dương, 2020).

(5)

4. Kinh nghiệm một số quốc gia trong khu vực về quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh online

4.1. Kinh nghiệm của Hàn Quốc Hiện nay, Hàn Quốc là một trong những quốc gia có chính sách quản lý thuế đối với thương mại điện tử hiệu quả. Hàn Quốc là một trong những quốc gia đầu tiên xây dựng bộ máy chuyên trách quản lý thuế đối với thương mại điện tử trong cơ cấu tổ chức của Tổng cục thuế. Chính sách thuế của Hàn Quốc đang dần hướng tới tạo sự bình đẳng về nghĩa vụ thuế giữa mọi chủ thể chịu thuế tiến hành hoạt động kinh doanh online trong và ngoài nước, cụ thể:

Một là, đơn giản hóa thủ tục hành chính. Cơ chế điều chỉnh vấn đề đăng ký kinh doanh đối với hoạt động thương mại điện tử tại Hàn Quốc cho phép giảm thiểu thủ tục hành chính và cụ thể hóa các yêu cầu, các biểu mẫu đăng ký kinh doanh tại cổng thông tin điện tử của cơ quan thuế.

Theo đó, hoạt động đăng ký kinh doanh của chủ thể nói trên có thể thực hiện bằng công cụ trực tuyến kết nối mạng internet như email theo luật định.

Hai là, áp dụng biện pháp xử lý hành chính đối với hành vi vi phạm nghĩa vụ về thuế giá trị gia tăng (GTGT). Trường hợp doanh nghiệp đã nộp tờ khai thuế GTGT nhưng chưa thực hiện nghĩa vụ thuế GTGT thì bị phạt áp dụng hình thức xử phạt tương ứng là 3% số thuế phải nộp, đồng thời với mức phạt bổ sung là 1,2% mỗi tháng kể từ ngày hết hạn (Phạm Thái Hà, 2017).

Ba là, thành lập hội đồng chuyên trách về thương mại điện tử, đẩy mạnh thu thập thông tin, phân tích dữ liệu thuế nhằm phát hiện các nghi vấn trốn thuế của các chủ thể thực hiện hoạt động thương mại điện tử (Phạm Thái Hà, 2017). Bên cạnh đó, cơ quan thuế Hàn Quốc còn phối hợp với Tổng cục Thống kê để thu thập dữ liệu

thống kê về thương mại điện tử và các gian hàng trực tuyến nhằm kiểm tra khối lượng gian hàng điện tử, chợ ảo, các kênh mua bán mặt hàng trong game online, v.v.

Bốn là, trang bị phương tiện thông tin hiện đại cho ngành thuế, thành lập Trung tâm chống trốn thuế công nghệ cao. Việc xây dựng hệ thống quản lý thuế ứng dụng công nghệ thông tin, thu thập dữ liệu, điều tra kỹ thuật số tạo nên nền tảng thực thi chính sách thuế công bằng, hiệu quả góp phần phòng ngừa trốn thuế, giảm chi phí và thuận tiện cho công tác thi hành pháp luật và quản lý nhà nước về thuế đặc biệt là đối với thuế phát sinh từ hoạt động kinh doanh online (Nguyễn Thị Thùy Dương, 2010).

4.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc Trung Quốc là quốc gia hoạt động thương mại điện tử phát triển và nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường bởi các giao dịch mua bán online. Chính phủ Trung Quốc, Bộ Tài chính cùng các cơ quan thuế đã ban hành nhiều văn bản quy phạm quản lý các khoản thuế phát sinh từ hoạt động thương mại điện tử, xuất nhập khẩu hàng hóa online.

Pháp luật Trung Quốc quy định, các doanh nghiệp bán lẻ thương mại điện tử nếu đủ các điều kiện nhất định có thể hoàn thuế hoặc miễn thuế, đặc biệt là thuế giá trị gia tăng. Tuy nhiên, khi người nộp thuế nợ thuế, cơ quan thuế đã có văn bản nhắc nộp thuế nhưng vẫn không nộp hoặc người nộp thuế có dấu hiệu phát tán tài sản thì cơ quan có thẩm quyền có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt hành chính về thuế phát sinh từ hoạt động kinh doanh online (Phạm Thái Hà, 2017).

Tại Trung Quốc, cùng với việc nâng cao hiệu quả quản lý thuế, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã điện tử hóa con dấu, chữ ký và hóa đơn nhằm đảm bảo tính

(6)

nhanh gọn, chính xác, tiết kiệm thời gian so với phương thức quản lý truyền thống.

Theo đó, tất cả các doanh nghiệp đều áp dụng hóa đơn điện tử, từ đó nhà nước quản lý dòng luân chuyển hàng hóa online của doanh nghiệp và có chính sách giám sát, thu thuế phù hợp.

5. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh online

5.1. Hoàn thiện các quy định về quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh online Hiện nay, thương mại điện tử và quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử được quy định rải rác nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau như Luật Quản lý thuế, Luật Giao dịch điện tử, Luật Công nghệ thông tin và các văn bản hướng dẫn thi hành để giải quyết vấn đề thất thu thuế từ hoạt động kinh doanh online. Các quy định nói trên vẫn mang tính chất chung chung, chưa đồng bộ và thống nhất. Nhận rõ tính tất yếu của việc phòng chống thất thu thuế từ hoạt động kinh doanh đối với sự phát triển của nước ta, nhóm nghiên cứu xin đề ra một số giải pháp hoàn thiện việc xây dựng các quy định về thuế và quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh online như sau:

Thứ nhất, ban hành văn bản hợp nhất các quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh online và thuế thu nhập kinh doanh online. Việc thực hiện pháp luật về thuế và quản lý thuế bản chất là việc giải quyết mối quan hệ giữa người nộp thuế và nhà nước.

Nhà nước luôn có xu hướng huy động tối đa nguồn lực vật chất từ thuế nhưng người nộp thuế lại có xu hướng nộp càng ít thuế càng lợi nên vấn đề trốn thuế có nhiều mầm mống để xảy ra. Để giải quyết mâu thuẫn nói trên, tất yếu phải có sự hướng dẫn của các văn bản chuyên biệt về thuế

đối với thu nhập phát sinh từ hoạt động kinh doanh online và quản lý dòng thuế từ hoạt động này dựa trên nền tảng của hiến pháp, tạo nên trách nhiệm chính trị của các chủ thể trong quan hệ nói trên.

Thứ hai, ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết quản lý thuế thu nhập kinh doanh online trên nền tảng kết hợp Luật An ninh mạng và dự thảo Luật Quản lý thuế nhằm tạo cơ sở dữ liệu thông tin người nộp thuế thu nhập kinh doanh online đồng thời vẫn đảm bảo tính công khai, minh bạch, tôn trọng quyền lợi của chủ thể nộp thuế được hoạt động trên không gian mạng lành mạnh và tạo dựng niềm tin từ người nộp thuế.

Ngoài ra, sự phối hợp giữa các quy định pháp lý trên tạo nền tảng giúp cơ quan thuế thực hiện hoạt động quản lý đối tượng nộp thuế thu nhập online một cách thường xuyên thông qua hệ thống dữ liệu mạng và các thông tin chi tiết giao dịch trên các thị trường mở để kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý hành vi trốn thuế.

Công bằng” được xem là một tiêu chuẩn quan trọng phản ánh mặt tiến bộ của các chính sách thuế nhưng pháp luật nước ta vẫn chưa có quy định giải thích rõ sự định lượng về công bằng dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau về “công bằng” theo chiều dọc và chiều ngang. Xét về “công bằng

theo chiều ngang là sự đối xử về thuế như nhau đối với mọi chủ thể. Xét theo chiều dọc, chủ thể nào có thu nhập chịu thuế cao hơn thì phải nộp thuế nhiều hơn.

Cả hai cách hiểu này đều dựa trên khả năng của người nộp thuế. Vấn đề đặt ra là tiêu chuẩn định lượng khả năng của người nộp thuế được xác định theo phương thức nào sẽ đảm bảo tính công bằng triệt để?

Giả sử trường hợp công dân A và B cùng kinh doanh mỹ phẩm thông qua webisite thương mại điện tử đảm bảo đầy đủ các điều kiện về đăng ký kinh doanh; A làm

(7)

mỗi tuần làm việc 40 giờ, công dân B mỗi tuần làm việc 56 giờ. Giả sử số tiền tính cho một giờ lao động của A và B như nhau do đó B sẽ có thu nhập cao hơn A. Nếu xét theo chiều dọc thì B sẽ phải nộp thuế cao hơn A. Liệu rằng yếu tố công bằng tính đến như vậy có hợp lý và đảm bảo quyền của chủ thể nộp thuế hay chưa? Hơn nữa, thực tiễn phân tích tiêu chuẩn công bằng khác nhau là một trong những nguyên nhân khiến người nộp thuế có động cơ trốn lậu thuế thông qua các thủ đoạn thiếu trung thực trong vấn đề kê khai thông tin thuế, sử dụng hóa đơn, chứng từ, v.v. Theo đó, nếu coi việc đánh thuế dựa trên công bằng xã hội tất yếu cần có quy định giải thích chi tiết về nguyên tắc công bằng trong vấn đề thu thuế thu nhập online nhằm đảm bảo quyền của mọi chủ thể kinh doanh và hạn chế tối đa hậu quả xấu đến nguy cơ nảy sinh hành vi trốn thuế.

5.2. Nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh online

Nhà nước ta xây dựng và ban hành pháp luật về thuế và quản lý thuế nhằm điều chỉnh mối quan hệ giữa người nộp thuế và nhà nước khi phát sinh thu nhập chịu thuế. Tuy nhiên, để phát huy hiệu quả các quy định pháp luật nhằm phòng chống thất thu thuế cần thiết phải làm cho các chủ thể áp dụng nắm bắt và thực hiện các nguyên tắc, quy định của pháp luật một cách kịp thời, đầy đủ, triệt để.

Trong bối cảnh nước ta hiện nay, một lần nữa khẳng định sự có mặt của thuế thu nhập kinh doanh online và phòng chống thất thu thuế từ kinh doanh online là cần thiết. Thực hiện mục tiêu phòng chống thất thu thuế nói trên, tác giả đề xuất một số giải pháp cụ thể như sau:

Thứ nhất, xây dựng bộ máy quản lý thuế riêng biệt để quản lý hoạt động

thương mại điện tử nói chung. Mục đích của đề xuất này chủ yếu là nhằm kiến nghị về việc thành lập cơ quan đủ chuyên môn, có tính dự báo để có thể kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý hành vi trốn thuế thu nhập kinh doanh online - một trong những nguồn thu thuế tiềm năng của nước ta hiện nay và trong tương lai. Tác giả đưa ra đề xuất trên xuất phát từ những lý do sau đây:

- Như đã trình bày, thuế thu nhập online là một phạm trù riêng biệt đòi hỏi sự kết hợp giữa yếu tố quản lý về thuế và yếu tố thương mại điện tử. Trong thực tế, công tác quản lý, thanh tra thuế thu nhập online, kiểm tra hoạt động thương mại điện tử đặt ra nhiều yêu cầu khác biệt so với hình thức thu thuế truyền thống. Hoạt động này đòi hỏi các cán bộ ngành thuế phải có nghiệp vụ về thuế, kinh tế, năng lực ngoại ngữ cao, đồng thời biết sử dụng thông thạo các ứng dụng nhằm kết xuất dữ liệu, thông tin giao dịch nhằm tìm ra các dấu hiệu trốn thuế của người nộp thuế. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đó, cần xây dựng bộ máy quản lý chuyên biệt tuyển dụng hệ thống cán bộ có trình độ cao, phát triển theo hướng tăng cường ứng dụng chuyên sâu công nghệ thông tin và nâng cao các phẩm chất, tư cách đạo đức của mỗi cá nhân thực hiện nghiệp vụ về thuế và quản lý thuế.

- Để tạo sự chi phối toàn diện đến công tác quản lý thuế, không chỉ dựa trên sự quản lý chung của cơ quan thuế trung ương mà còn có sự phối hợp với các bộ, các ngành có liên quan. Thông qua sự hỗ trợ của các cơ quan nói trên, cơ quan quản lý thuế riêng biệt có thể thu thập được các thông tin mang tính chất đa chiều, dễ dàng nắm các thông tin về kê khai tài sản ngân hàng, số lượng giao dịch hàng hóa, thanh toán online... từ đó đưa ra định hướng phát hiện và dự báo đối với các chủ thể có khả năng trốn thuế để kịp thời ngăn chặn.

(8)

- Đặc điểm của hoạt động kinh doanh online là những giao dịch mang tính quốc tế rộng nhưng lại khó kiểm soát bởi thông tin giao dịch có thể dễ dàng thay đổi hoặc yêu cầu tính bảo mật cao. Sự ra đời của cơ quan quản lý chuyên biệt đối với hoạt động này mang hiệu quả quản lý tốt bởi lẽ tính chuyên biệt của mình giúp cơ quan này thu thập dữ liệu thông tin online của chủ thể kinh doanh nhưng vẫn đảm bảo tính bảo mật và độ tin cậy cao. Do đó, sự ra đời của cơ quan nói trên không chỉ thực hiện mục tiêu quản lý, phòng chống thất thu thuế thu nhập online mà còn góp phần bảo vệ quyền lợi của người nộp thuế.

- Với tốc độ phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin sẽ kéo theo sự đa dạng và phức tạp hóa các hoạt động kinh doanh online. Thực tiễn đặt ra yêu cầu phải có cơ quan thuế chuyên biệt về thương mại điện tử với hệ thống cán bộ được đào tạo chuyên sâu mới có thể nắm bắt kịp thời xu hướng phát triển trên đồng thời khắc phục tình trạng mất bình đẳng trong môi trường kinh doanh làm cho mất nguồn dư địa thuế dồi dào từ thu nhập online.

Thứ hai, hiệu quả của công tác phòng chống thất thu thuế đối với hoạt động kinh doanh online mang tính chất đa chiều, nó không chỉ phụ thuộc vào công tác quản lý của cơ quan quản lý thuế mà còn phụ thuộc vào chính bản thân người nộp thuế.

Vì vậy, nhóm nghiên cứu đề xuất tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, hướng dẫn doanh nghiệp và các cá nhân, tổ chức thực hiện hoạt động kinh doanh online nhận thức đầy đủ về thuế thu nhập online và nghĩa vụ nộp thuế thu nhập online. Theo đó, công tác tuyên truyền cần có sự kết hợp yếu tố công nghệ thông tin, kết hợp đưa tin cùng các phương tiện đại chúng nhằm quản lý trên diện rộng, tận dụng sức mạnh cộng đồng giáo dục, hạn

chế hành vi trốn thuế từ kinh doanh online.

Đặc biệt, trong xu hướng giáo dục phối hợp với năng lực ngoại ngữ và kỹ năng công nghệ thông tin thì việc tăng cường giáo dục thế hệ học sinh, sinh viên thông qua các hội thảo phòng chống thất thu thuế thu nhập online giúp tạo nền tảng hiểu biết cho một thế hệ mới hiểu biết đầy đủ về thuế, góp phần phòng chống thất thu thuế trong tương lai.

Thứ ba, tăng cường hợp tác quốc tế về quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh online. Hiện nay, hình thức kinh doanh online dần trở nên đa dạng và phức tạp, các doanh nghiệp, cá nhân hoạt động online không bị giới hạn về mặt lãnh thổ quốc gia.

Hơn nữa, nhà nước ta luôn thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài nên các cá nhân, tổ chức thực hiện hoạt động kinh doanh online có yếu tố nước ngoài có cơ hội trốn lậu thuế quốc tế. Do đó, nhóm nghiên cứu đề xuất giải pháp này nhằm phối hợp với các quốc gia liên quan phòng chống hành vi trốn thuế, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, đặc biệt nước ta nên tăng cường ký các hiệp định chống đánh thuế trùng với các nước nhằm tránh các xung đột quốc tế về thuế và quản lý thuế từ thu nhập online có yếu tố nước ngoài.

6. Kết luận

Kinh doanh online là lĩnh vực hoạt động tương đối đa dạng và phức tạp. Vấn đề quản lý và phòng chống trốn thu thuế từ thu nhập kinh doanh online đặt ra nhiều trở ngại đối với công tác quản lý thuế nước ta và đồng thời tạo nên thách thức lớn đối với hoạt động kinh doanh online xuyên biên giới. Vì vậy, cần phải tiếp tục nghiên cứu nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh online để đảm bảo sự công bằng và phát triển bền vững của xã hội.

(9)

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Bộ Tài chính (2013). Thông tư số 116/2013/TT-BTC quy định chi tiết về xử phạt vi phạm hành chính về thuế, ban hành ngày 15 tháng 11 năm 2013.

Chính phủ (2013). Nghị định số 52/2013/NĐ-CP về Thương mại điện tử, ban hành ngày 16 tháng 5 năm 2013.

Chính phủ (2018). Nghị định số 08/2018/NĐ-CP sửa đổi một số Nghị định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Công thương, ban hành ngày 15 tháng 01 năm 2018.

Bùi Dương (2020, ngày 16 tháng 8). Chống thất thu thuế từ hoạt động kinh doanh qua mạng: Cần sự chung tay vào cuộc. Truy xuất từ http://tapchitaichinh.vn/Chuyen- dong-tai-chinh/chong-that-thu-thue-tu-hoat-dong-kinh-doanh-qua-mang-can-su- chung-tay-vao-cuoc-326631.html?fbclid=IwAR3eqZJZPeVeLBvcQbiLzbXh9q- wuNISfBzM2aStsLWEXNvO97Nxn_z3xyA.

Nguyễn Thị Thùy Dương (2010). Kinh nghiệm quản lý thuế của các nước OECD và những gợi ý cho Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Tài chính kế toán, số 12(89)-2010, 49-54.

Phạm Thái Hà (2017, ngày 11 tháng 11). Kinh nghiệm quản lý thuế trong kinh doanh thương mại điện tử tại một số nước. Truy xuất từ https://tapchitaichinh.vn/tai-chinh- kinh-doanh/kinh-nghiem-quan-ly-thue-trong-kinh-doanh-thuong-mai-dien-tu-tai- mot-so-nuoc-131566.html.

Lý Vương Khanh & Vũ Đình Năm (2021, ngày 25 tháng 7). Kinh doanh trực tuyến tại Việt Nam hiện nay. Truy xuất từ https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/kinh-doanh- truc-tuyen-tai-viet-nam-hien-nay.

Quốc hội (2005). Luật Giao dịch điện tử số 51/2005/QH11, ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2005.

Quốc hội (2005). Luật Thương mại số 36/2005/QH11, ban hành ngày 14 tháng 6 năm 2005.

Quốc hội (2006). Luật Công nghệ thông tin số 67/2006/QH11, ban hành ngày 29 tháng 6 năm 2006.

Quốc hội (2014). Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13, ban hành ngày 26 tháng 11 năm 2014.

Quốc hội (2019). Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14, ban hành ngày 13 tháng 6 năm 2019.

Quốc hội (2020). Luật Doanh nghiệp số 59/2020/QH14, ban hành ngày 17 tháng 6 năm 2020.

Huyền Thu (2020, ngày 17 tháng 8). “Đau đầu” bài toán chống thất thu thuế từ hoạt động kinh doanh qua mạng. Truy xuất từ http://tapchitaichinh.vn/Chuyen-dong-tai- chinh/dau-dau-bai-toan-chong-that-thu-thue-tu-hoat-dong-kinh-doanh-qua-mang- 326489.html?fbclid=IwAR3eqZJZPeVeLBvcQbiLzbXh9q-

wuNISfBzM2aStsLWEXNvO97Nxn_z3xyA.

Ngày nhận bài: 14/8/2020 Biên tập xong: 15/4/2021 Duyệt đăng: 20/4/2021

Referensi

Dokumen terkait

Trong thời gian tới, Vietsovpetro có kế hoạch triển khai chương trình nghiên cứu, áp dụng các giải pháp nâng cao hệ số thu hồi dầu cho các đối tượng khai thác chính với sự tư vấn của

Chính những thử thách này đang phá vỡ các giá trị của hôn nhân, gia đình Công giáo, trong đó phải kể đến sự lung lay về tính chung thủy trong quan hệ vợ - chồng; tính bền vững của hôn

Ưu điểm của phương pháp có thể kể đến như: thực hiện việc nâng cao độ chính xác vị trí dự đoán khi không có các mục tiêu bờ, xác định vị trí tàu với một thiên thể sử dụng các tham số

Cũng vì lí do đó, những khóa đào tạo VLVH in-service training ở các nước khác trên thế giới thường có nội dung bám sát những thay đổi trong chính sách quản lí giáo dục đổi mới chương

88 3.2 Một số giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn nhân lực tại Công ty Cổ Phần Đầu tư Thương mại DG Xuất phát từ thực trạng trong công tác quản lý

Các định chế quốc tế đã hình thành các chuẩn mực về minh bạch áp dụng cho các thành viên của mình, đặc biệt là Tổ chức Thương mại Thế giới WTO và một số liên kết kinh tế mà Việt Nam là

Trọng tâm giám sát việc thực hiện các chính sách pháp luật của Nhà nước về xây dựng NTM được quy định tại Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 16/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt

Kết luận Tình hình XK của tỉnh Ninh Thuận trong thời gian qua cho thấy XK chưa có sự đột phá để phát triển nhanh và bền vững; các sản phẩm XK chính như: nhân điều, thủy sản đang gặp