• Tidak ada hasil yang ditemukan

NỒNG ĐỘ ACID URIC MÁU Ở BỆNH NHÂN BỆNH THẬN MẠN GIAI ĐOẠN CHƯA LỌC MÁU ĐỊNH KÌ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƯƠNG CẦN THƠ

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "NỒNG ĐỘ ACID URIC MÁU Ở BỆNH NHÂN BỆNH THẬN MẠN GIAI ĐOẠN CHƯA LỌC MÁU ĐỊNH KÌ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƯƠNG CẦN THƠ"

Copied!
8
0
0

Teks penuh

(1)

NỒNG ĐỘ ACID URIC MÁU Ở BỆNH NHÂN BỆNH THẬN MẠN GIAI ĐOẠN CHƯA LỌC MÁU ĐỊNH KÌ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG

ƯƠNG CẦN THƠ

Mai Huỳnh Ngọc Tân*, Nguyễn Như Nghĩa Trường Đại học Y Dược Cần Thơ

*Email: [email protected] TÓM TẮT

Đặt vấn đề: tăng acid uric máu chiếm tỷ lệ cao và có liên quan đến quá trình tiến triển bệnh thận mạn. Mục tiêu nghiên cứu: xác định tỷ lệ, mức độ tăng và nồng độ acid uric máu ở bệnh nhân bệnh thận mạn giai đoạn chưa lọc máu định kì và tìm hiểu một số mối liên quan đến tăng acid uric máu. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang 126 bệnh nhân bệnh thận mạn đến khám tại bệnh viện đa khoa Trung ương Cần Thơ từ tháng 5/2018 đến tháng 5/2019. Kết quả: tuổi trung bình 69,1±16,65, nam giới chiếm 61,1%, GFR trung bình là 36,89±16,85ml/phút/1,73m2 da. Tỷ lệ tăng acid uric máu là 77,8%, 65,31% tăng acid uric mức độ nhẹ, 33,67% tăng trung bình, 1,02% tăng mức độ nặng. Nồng độ acid uric máu trung bình là 494,21±131.57µmol/l. Có mối tương quan nghịch giữa GFR và nồng độ acid uric máu (r=-0,25, p=0,005). Có mối liên quan giữa các yếu tố: BMI, thói quen ăn thực phẩm giàu purin, tăng huyết áp, giai đoạn bệnh thận mạn với tăng acid uric máu. Kết luận: tăng acid uric máu chiếm tỷ lệ cao ở bệnh nhân bệnh thận mạn và có liên quan đến nhiều yếu tố nguy cơ khác.

Từ khoá: bệnh thận mạn, tăng acid uric máu, yếu tố nguy cơ, Cần Thơ

ABSTRACT

SERUM URIC ACID LEVEL IN NON-DIALYSIS PATIENTS WITH CHRONIC KIDNEY DISEASE AT CAN THO GENERAL CENTRAL

HOSPITAL

Mai Huynh Ngoc Tan, Nguyen Nhu Nghia Cantho University of Medicine and Phamarcy Background: Hyperuricemia is frequent and related to the progression of chronic kidney disease. Objectives: to determine the rate, level of the hyperuricemia and concentration of serum uric acid in non-dialysis patients with chronic kidney disease and to find out some risk factors related to hyperuricemia. Materials and methods: a cross-sectional descriptive study in 126 patients with chronic kidney disease who visited Cantho General Central hospital from May 2018 to May 2019. Results: the mean age was 69.1±16.65, men 61.1%, mean GFR was 36.89±16,85ml/min/1.73m2. The rate of hyperuricemia was 77.8%; there were 65.31% patients with mild hyperuricemia, 33.67% moderate and 1.02% severe. The mean serum uric acid was 494.21±131.57µmol/l. There was an inverse correlation between GFR and serum uric acid level (r=-0.25, p=0.005). There were associations between factors: BMI, high purine diet, hypertension, stage of chronic kidney disease and hyperuricemia. Conclusions: Hyperuricemia was frequent among patients with chronic kidney disease and was associated with some other risk factors.

Keywords: chronic kidney disease, hyperuricemia, risk factors, Cantho.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Bệnh thận mạn là gánh nặng y tế tại Việt Nam cũng như trên toàn thế giới với tỷ lệ hiện mắc ngày càng tăng. Có nhiều yếu tố thúc đẩy tình trạng tổn thương thận tiến triển như:

tăng huyết áp, đái tháo đường, rối loạn lipid máu, chế độ ăn nhiều đạm, sỏi thận… Trong thời gian gần đây, nhiều nghiên cứu cho thấy tăng acid uric máu thúc đẩy quá trình tiến triển bệnh thận mạn, việc điều trị tình trạng tăng acid uric máu ở bệnh nhân bệnh thận mạn có thể làm

(2)

chậm tiến triển của bệnh [11], [13]. Hiện nay ở Việt Nam, đặc biệt tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long chưa có nhiều nghiên cứu về vấn đề tăng acid uric máu ở bệnh nhân bệnh thận mạn. Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này với những mục tiêu sau:

1. Xác định tỷ lệ, mức độ tăng, nồng độ acid uric máu ở bệnh nhân bệnh thận mạn giai đoạn chưa lọc máu định kì tại bệnh viện đa khoa Trung ương Cần Thơ

2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến tăng acid uric máu ở bệnh nhân bệnh thận mạn giai đoạn chưa lọc máu định kì tại bệnh viện đa khoa Trung ương Cần Thơ

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu: bệnh nhân bệnh thận mạn đến khám tại bệnh viện đa khoa Trung ương Cần Thơ.

Tiêu chuẩn chọn mẫu: bệnh nhân >18 tuổi mắc bệnh thận mạn giai đoạn chưa lọc máu định kì đồng ý tham gia nghiên cứu.

Tiêu chuẩn loại trừ: bệnh nhân đang sử dụng các loại thuốc ảnh hưởng đến sự sản xuất và bài xuất acid uric như: allopurinol, febuxostat, probenecid, sulfinpyrazol, salicilat, ethambutol, pyrazynamid,... Bệnh nhân bị đợt gút cấp. Bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối hoặc đợt cấp suy thận mạn. Bệnh nhân không giao tiếp được hoặc mắc các bệnh lý rối loạn tâm thần.

Địa điểm, thời gian nghiên cứu: tại bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ từ tháng 5/2018 đến tháng 5/2019.

2.2. Phương pháp nghiên cứu:

Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang Cỡ mẫu: tính theo công thức 𝑛 =(𝑍1−⍺/2)

2𝑥 𝑝(1−𝑝) 𝑑2

Trong đó n là cỡ mẫu, α: mức ý nghĩa thống kê, chọn α = 0,05 vậy

p là tỷ lệ tăng acid uric máu ở bệnh nhân bệnh thận mạn theo nghiên cứu trước đây [6], chọn p=0,8125. d là sai số cho phép, chọn d=0,07. Thế vào công thức, tính được n=120.

Thực tế, chúng tôi chọn được 126 mẫu.

Phương pháp chọn mẫu: chọn mẫu thuận tiện

Nội dung nghiên cứu: các đặc điểm chung như: giới (nam, nữ), tuổi (<60, ≥60), BMI (gầy, bình thường, thừa cân) [15], uống rượu bia (có, không), hút thuốc lá (có, không), thói quen ăn thực phẩm giàu purin (thường xuyên, không thường xuyên), đái tháo đường (có, không) [8], tăng huyết áp (có, không) [9], gút (có, không) [1], giai đoạn bệnh thận mạn (1, 2, 3, 4) [10]. Tăng acid uric máu khi nồng độ acid uric máu >420μmol/l ở nam và

>360μmol/l ở nữ [1]. Tìm hiểu một số mối liên quan giữa tăng acid uric máu với: tuổi, giới, BMI, thói quen uống rượu bia, hút thuốc lá, ăn thực phẩm giàu purin, tăng huyết áp, đái tháo đường, gút, giai đoạn bệnh thận mạn.

Phương pháp xử lý số liệu: bằng phần mềm SPSS 18.0; với p<0,05 sự khác biệt được xem là có ý nghĩa thống kê.

III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu

Nam giới chiếm đa số với 61,1%. Tuổi trung bình là 69,1±16,65 tuổi, trong đó đa số trên 60 tuổi, chiếm 74,6%. Có 50% bệnh nhân BMI bình thường, 38,1% thừa cân/béo phì. Có 46,8% bệnh nhân uống rượu bia, 27,8% hút thuốc lá, 47,6% thường xuyên ăn thực

(3)

phẩm giàu purin. Đa số bệnh nhân có tăng huyết áp chiếm 87,3%, tỷ lệ đái tháo đường và gút là 26,2% và 7,1%. Bệnh nhân bệnh thận mạn giai đoạn 3, 4 chiếm đa số với tỷ lệ lần lượt là 46% và 42,1%. GFR trung bình là 36,89±16,85ml/phút/1,73m2 da.

3.2. Tỷ lệ và mức độ tặng acid uric máu

Bảng 1. Tỷ lệ, mức độ tăng và nồng độ trung bình acid uric máu

Đặc điểm n %

Acid uric máu Không tăng 28 22,2

Tăng 98 77,8

Mức độ tăng acid uric

Nhẹ 64 65,31

Trung bình 33 33,67

Nặng 1 1,02

Nồng độ trung bình (𝑿̅ ± SD) 494,21 ± 131,57µmol/l

Nhận xét: có 77,8% bệnh nhân tăng acid uric máu. Nồng độ acid uric máu trung bình là 494,21±131,57µmol/l. Đa số bệnh nhân tăng acid uric mức độ nhẹ và trung bình, chiếm tỷ lệ lần lượt là 65,31% và 33,67%.

3.3. Một số yếu tố liên quan đến tăng acid uric máu

Bảng 2. Liên quan giữa giới, tuổi, BMI, một số thói quen sinh hoạt với tăng acid uric máu Đặc điểm

Acid uric Tăng p

n (%)

Không tăng n (%) Giới

Nam (n = 77)

56 (72,7%)

21 (27,3%)

0,087 Nữ

(n = 49)

42 (85,7%)

7 (14,3%) Tuổi

<60 26

(81,3%)

6 (18,8%)

0,58

≥60 72

(76,6%)

22 (23,4%)

BMI

Gầy 8

(53,3%)

7 (46,7%)

0,02

Bình thường 48

(76,2%)

15 (23,8%)

Thừa cân/béo phì 42

(87,5%)

6 (12,5%) Ăn thực phẩm

giàu purin

Thường xuyên 58

(96,7%)

2 (3,3%)

0,001 OR = 18,85 (CI 95% 4,23-

83,94)

Không thường xuyên 40

(60,6%)

26 (39,4%) Uống rượu bia

41

(80,4%)

10 (19,6%)

0,56

Không 57

(76%)

18 (24%) Hút thuốc lá

31

(75,6%)

10 (24,4%)

0,68

Không 67

(78,8%)

18 (21,2%)

(4)

Nhận xét: có mối liên quan giữa BMI, thói quen ăn thực phẩm giàu purin và tăng acid uric máu, p<0,05, không ghi nhận mối liên quan giữa giới, tuổi, thói quen uống rượu bia, hút thuốc lá với tăng acid uric máu, p>0,05.

Bảng 3. Liên quan giữa một số bệnh lý đi kèm và tăng acid uric máu

Đặc điểm Acid uric

Tăng p n (%)

Không tăng n (%)

Đái tháo đường 28 (84,8%) 5 (15,2%)

0,255 Không 70 (75,3%) 23 (24,7%)

Gút

9 (100%) 0 (0%)

0,2 Không 88 (76,1%) 25 (23,9%)

Tăng huyết áp 91 (82,7%) 19 (17,3%) 0,002

OR=6,16 (CI 95% 2,04-18,58)

Không 7 (43,8%) 9 (56,3%)

Nhận xét: không ghi nhận mối liên quan giữa đái tháo đường, gút với tăng acid uric máu, p>0,05. Bệnh nhân tăng huyết áp có tỷ lệ tăng acid uric máu cao hơn nhóm không tăng huyết áp (82,7% so với 43,8%, p=0,002, OR=6,16).

Biểu đồ 1. Tương quan giữa GFR và acid uric máu

Nhận xét: có mối tương quan nghịch mức độ yếu giữa GFR và nồng độ acid uric máu, r=-0,25, p=0,005.

Bảng 4. Liên quan giữa bệnh thận mạn và tăng acid uric máu

Đặc điểm Acid uric

p Nồng độ acid uric máu (𝑋̅ ± SD) p Tăng Không tăng n

y = 566,04 – 1,95x r = -0,25, p = 0,005

(5)

n (%) (%) Bệnh

thận mạn

GĐ 1, 2 8 (53,3%) 7 (46,7%)

0,047

412,87±80,37µmol/l

0,032

GĐ 3 46 (79,3%) 12

(20,7%) 496,66±121,87µmol/l

GĐ 4 44 (83%) 9 (17%) 512,36±146,03µmol/l

Nhận xét: có mối liên quan giữa giai đoạn bệnh thận mạn với tỷ lệ tăng và nồng độ acid uric máu, p<0,05.

Bảng 5. Hồi quy logistic nhị phân của một số yếu tố liên quan với tăng acid uric máu

Yếu tố Hệ số hồi quy p OR (CI 95%)

BMI 0,065 0,519

Thói quen ăn thực phẩm

giàu purin 3,659 0,001 38,84 (5,922 – 254,74)

Tăng huyết áp 1,842 0,018 6,309 (1,371 – 29,039)

GFR -0,05 0,004 0,951 (0,92 – 0,984)

Nhận xét: thói quen ăn thực phẩm giàu purin, tăng huyết áp và GFR có liên quan độc lập với tăng acid uric máu, p<0,05.

IV. BÀN LUẬN

4.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu

Trong nghiên cứu của chúng tôi, nam chiếm đa số với 61,1%, nữ chiếm 38,9%.

Tuổi trung bình của bệnh nhân là 69,1±16,65 tuổi, trong đó 75,8% bệnh nhân ≥60 tuổi.

Tuổi là yếu tố nguy cơ quan trọng trong bệnh thận mạn, đặc biệt là tăng acid uric máu.

Tuổi trung bình trong nghiên cứu của Nguyễn Thị Hoa (2014) là 49,7±16,9 tuổi [2];

Nguyễn Hoàng Thanh Vân (2015) là 54,74±18,60 tuổi [7]. Nhận thấy độ tuổi trung bình tăng dần theo thời gian, do tuổi thọ của người Việt tăng dần, điều kiện y tế ngày càng phát triển, bệnh nhân bệnh thận mạn ngày càng được chăm sóc, điều trị tốt hơn. Đa số bệnh nhân có mức BMI bình thường và thừa cân, 46,8% uống rượu bia, 47,6% thường xuyên ăn thực phẩm giàu purin. Thói quen uống rượu bia nhiều, ăn nhiều đạm ảnh hưởng đến trọng lượng cơ thể, đồng thời là yếu tố nguy cơ đối với tăng acid uric máu. Tỷ lệ tăng huyết áp là 87,3%, đây là triệu chứng rất thường gặp trong bệnh thận mạn, giai đoạn bệnh càng nặng thì tỷ lệ tăng huyết áp càng cao; vì thế kiểm soát huyết áp là một trong những biện pháp điều trị quan trọng ở bệnh nhân bệnh thận mạn. Đa số bệnh nhân trong nghiên cứu có bệnh thận mạn giai đoạn 3, 4 với tỷ lệ lần lượt là 46% và 42,1%. GFR trung bình là 36,89±16,85ml/phút/1,73m2 da. Đỗ Gia Tuyển ghi nhận có 90,625% bệnh thận mạn giai đoạn 5 có tăng acid uric máu [6]. Do chúng tôi chỉ nghiên cứu những bệnh nhân bệnh thận mạn giai đoạn chưa lọc máu nên không ghi nhận tỷ lệ bệnh thận mạn giai đoạn 5.

4.2. Tỷ lệ và mức độ tăng acid uric máu

Tỷ lệ tăng acid uric máu trong nghiên cứu của chúng tôi là 77,8%. Nồng độ acid uric máu trung bình là 494,21±131,57µmol/l. Đa số bệnh nhân tăng acid uric mức độ nhẹ và trung bình, chiếm tỷ lệ lần lượt là 65,31% và 33,67%. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương tự như của một số tác giả khác. Đỗ Gia Tuyển ghi nhận 81,25% bệnh nhân bệnh thận mạn tăng acid uric máu [6]. Nồng độ acid uric trung bình trong nghiên cứu của Wan Chun Liu là 7,9±2mg/dl (469,93±118,97µmol/l) [12], của Bo-Lin Pan là 8,0±1,33mg/dl (475,88±79,11µmol/l) [14]. Từ kết quả trên cho thấy bệnh nhân bệnh thận mạn có tỷ lệ tăng acid uric máu khá cao, vấn đề này cần được lưu ý trong việc điều trị bệnh thận mạn.

(6)

4.3. Một số yếu tố liên quan đến tăng acid uric máu

Chúng tôi ghi nhận tỷ lệ tăng acid uric ở nữ cao hơn nam nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (85,7% so với 72,7%, p=0,087). Nhiều nghiên cứu ghi nhận tình trạng tăng acid uric máu có liên quan đến giới tính, trong đó, nam giới thường có tỷ lệ tăng acid uric máu cao hơn nữ [3], [4], [11]. Cơ chế tăng acid uric ở nam thường liên quan đến ăn nhiều đạm, lạm dụng rượu. Trong nghiên cứu của chúng tôi đa số bệnh nhân là nam giới lớn tuổi, tỷ lệ uống rượu bia không cao. Ở nhóm bệnh nhân nữ, phần lớn trên 60 tuổi, đây là độ tuổi mãn kinh có tình trạng rối loạn nội tiết tố, giảm estrogen. Estrogen có tác dụng làm tăng bài tiết acid uric qua đường tiết niệu, do đó, giảm estrogen ở phụ nữ sau mãn kinh làm giảm thải acid uric, gây tăng acid uric trong máu. Chúng tôi không ghi nhận mối liên quan giữa nhóm tuổi với tăng acid uric máu, p=0,58, có thể do cỡ mẫu chưa đủ lớn, phân bố bệnh nhân giữa 2 nhóm trên và dưới 60 tuổi không đều nên không có sự khác biệt. Nhóm bệnh nhân thừa cân/béo phì có tỷ lệ tăng acid uric máu cao hơn bệnh nhân có BMI bình thường hoặc gầy (87,5% so với 76,2% và 53,3%, p=0,02). Kết quả của chúng tôi tương tự như nghiên cứu của Phạm Ngọc Kiếu [3], Phạm Thị Ngọc Thuý [4].

Tìm hiểu mối liên quan giữa thói quen sinh hoạt với tăng acid uric máu, ở bệnh nhân có thói quen thường xuyên dùng nhóm thực phẩm giàu purin có nguy cơ tăng acid uric gấp 18,85 lần so với bệnh nhân dùng không thường xuyên (OR=18,85; p=0,001). Mối liên quan giữa tăng acid uric và chế độ ăn từ lâu đã được công nhận, bệnh nhân ăn nhiều nội tạng, thịt đỏ… sẽ làm tăng nguồn purin ngoại sinh, gây tăng thoái biến purin, cuối cùng tăng tạo acid uric máu. Ngược lại, chế độ ăn giàu chất xơ sẽ làm giảm nguy cơ tăng acid uric máu. Nhóm bệnh nhân uống rượu bia có tỷ lệ tăng acid uric máu cao hơn so với nhóm không uống rượu bia (80,4% so với 76%, p=0,56). Tác giả Trịnh Kiến Trung ghi nhận tỷ lệ tăng acid uric máu nhóm uống rượu cao hơn nhóm không uống (19,8% so với 9,6%, p<0,001) [5]. Có thể do trong nghiên cứu của chúng tôi bệnh nhân lớn tuổi chiếm tỷ lệ đa số, việc sử dụng rượu bia ở đối tượng này hạn chế nên chưa ghi nhận mối liên quan giữa sử dụng rượu bia và tăng acid uric máu. Tỷ lệ tăng acid uric máu ở nhóm có hút thuốc và không hút thuốc trong nghiên cứu của chúng tôi gần tương đương nhau (75,6%

và 78,8%, p=0,68). Tác giả Phạm Thị Ngọc Thuý cũng không ghi nhận mối liên quan giữa acid uric máu và hút thuốc lá, với p=0,39 [4].

Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ tăng acid uric máu ở bệnh nhân đái tháo đường cao hơn nhóm không đái tháo đường (84,8% so với 75,3%, p=0,255), tăng acid uric máu ở nhóm bệnh gút cao hơn nhóm không bệnh, p=0,2. Tuy nhiên, chúng tôi chưa ghi nhận mối liên quan giữa đái tháo đường, bệnh gút với tăng acid uric máu, có thể do tần suất bệnh nhân bệnh đái tháo đường và gút trong nghiên cứu thấp. Chúng tôi ghi nhận có mối liên quan giữa tăng huyết áp và tăng acid uric máu, p=0,002, OR=6,16. Trịnh Kiến Trung cũng ghi nhận đối tượng tăng huyết áp có tỷ lệ tăng acid uric cao hơn đối tượng không tăng huyết áp (16,9% so với 10,5%, p<0,05) [5]. Bệnh nhân tăng huyết áp có sự giảm dòng máu thận làm tăng hấp thu urat, ngoài ra tăng huyết áp gây ra bệnh vi mạch làm thiếu máu mô tại chỗ gây tăng tổng hợp acid uric. Chúng tôi nhận thấy có mối tương quan nghịch giữa GFR và nồng độ acid uric máu trong nghiên cứu, r=-0,25, p=0,005. Như vậy, bệnh nhân có GFR càng thấp thì nồng độ acid uric máu càng cao. Đồng thời, có mối liên quan giữa giai đoạn bệnh thận mạn với tỷ lệ tăng và nồng độ acid uric máu, p<0,05.

Đỗ Gia Tuyển ghi nhận 75,625% bệnh nhân bệnh thận mạn giai đoạn 5 tăng acid uric máu, trong khi tỷ lệ tăng acid uric ở bệnh thận mạn giai đoạn 4, 3, 2 chỉ có 3,125%, 1,875% và

(7)

thận. Khi bệnh nhân bị suy thận nhẹ, hệ thống bài tiết và hấp thu của thận vẫn còn bảo tồn, do đó tình trạng tăng acid uric không cao, nhưng khi suy thận giai đoạn nặng thì khả năng bài tiết và hấp thu không còn ổn định dẫn tới tăng acid uric máu, mức độ tăng acid uric máu nặng dần theo mức độ suy thận.

Tiến hành phân tích hồi quy logistic các yếu tố liên quan với tăng acid uric máu, chúng tôi nhận thấy thói quen ăn thực phẩm giàu purin, tăng huyết áp và GFR có liên quan độc lập với tăng acid uric máu, p<0,05. Tác giả Bo-Lin Pan cũng ghi nhận acid uric máu có liên quan độc lập với bệnh thận mạn [14].

V. KẾT LUẬN

Tỷ lệ tăng acid uric máu ở bệnh nhân bệnh thận mạn là 77,8%, nồng độ acid uric máu trung bình là 494,21±131,57µmol/l. Có 65,31% bệnh nhân tăng acid uric máu mức độ nhẹ, 33,67% bệnh nhân tăng mức độ trung bình, 1,02% tăng mức độ nặng.

Có mối tương quan nghịch giữa GFR và nồng độ acid uric máu. Có mối liên quan giữa các yếu tố: BMI, thói quen ăn thực phẩm giàu purin, tăng huyết áp, giai đoạn bệnh thận mạn với tăng acid uric máu. Không ghi nhận mối liên quan giữa giới tính, tuổi, thói quen uống rượu bia, hút thuốc lá, đái tháo đường, bệnh gút với tăng acid uric máu.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đoàn Văn Đệ (2002), "Bệnh Gút", Bệnh học nội khoa: phần Tim - Thận - Khớp - Nội tiết, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr.380-393.

2. Nguyễn Thị Hoa (2014), "Nồng độ phospho và canxi huyết tương ở bệnh nhân suy thận mạn lọc máu chu kỳ tại bệnh viện đa khoa trung ương Thái Nguyên", tạp chí nghiên cứu y học, 86 (1), tr.8-14.

3. Phạm Ngọc Kiếu (2011), Nghiên cứu nồng độ acid uric huyết thanh ở người tăng huyết áp, mối liên quan với hội chứng chuyển hoá và chức năng thận, Luận án chuyên khoa cấp II, Trường Đại học Y Dược Cần Thơ.

4. Phạm Thị Ngọc Thuý (2018), Nghiên cứu tình hình tăng acid uric huyết thanh và đánh giá kết quả điều trị bằng allopurinol ở người tăng huyết áp nguyên phát tại ban bảo vệ chăm sóc sức khoẻ cán bộ thành uỷ Cần Thơ năm 2017-2018, Luận án chuyên khoa cấp II, Trường Đại học Y Dược Cần Thơ.

5. Trịnh Kiến Trung (2015), Nghiên cứu nồng độ acid uric máu, bệnh gút và hội chứng chuyển hoá ở người từ 40 tuổi trở lên tại thành phố Cần Thơ, Luận án tiến sĩ Y học, Học viện quân y.

6. Đỗ Gia Tuyển (2016), "Tình trạng rối loạn acid uric máu ở bệnh nhân suy thận mạn chưa điều trị thay thế", Tạp chí nghiên cứu y học, 101 (3), tr.143-150.

7. Nguyễn Hoàng Thanh Vân (2015), Nghiên cứu nồng độ Beta – Crosslaps, hormone tuyến cận giáp huyết thanh ở bệnh nhân bệnh thận mạn giai đoạn cuối, Luận án tiến sĩ y học, Huế.

8. ADA (2017), "Standards of Medical Care in Diabetes 2017", The journal of clinical and applied research and education, 40 (1), pp. 1-142.

9. Chobanian AV, et al. (2004), "The seventh report of the joint national committee on prevention, detection, evaluation, and treatment of high blood pressure", Hypertension, 42, pp.1206-1252

10. KDIGO (2012), "Clinical Practice Guideline for the Evaluation and Management of Chronic Kidney Disease", kidney international, 3 (1), pp.1-150.

11. Gerald D. Levy, et al. (2015), "Effect of urate-lowering therapies on renal disease progression in patients with hyperuricemia", The journal of Rheumatology, 41(5), pp.955-962

(8)

12. Wan-Chun Liu, et al. (2012), "Association of hyperuricemia with renal outcomes, cardiovascular disease, and mortality", Clin J Am Soc Nephrol, 7, pp.541-548.

13. Santhosh Pai B.H, et al. (2013), "Allopurinol for prevention of progression of kidney disease with hyperuricemia", Indian Journal of Nephrology, 23 (4), pp.280-286

14. Bo-Lin Pan and Song-Seng Loke (2018), "Chronic kidney disease associated with decreased bonemineral density, uric acid and metabolic syndrome", PLoS ONE, 13 (1), pp.1-10.

15. Western Pacific Regional Office (2000), The Asia-Pecific perspective: Redefining obesity and its treatment, Australia.

(Ngày nhận bài: 08/07/2019- Ngày duyệt đăng: 28/08/2019)

Referensi

Dokumen terkait

KẾT LUẬN Qua nghiên cứu 407 trẻ mắc hội chứng thận hư tiên phát tại Khoa Thận - Lọc máu Bệnh viện Nhi Trung Ương cho thấy các bệnh răng miệng chủ yếu gặp trên đối tượng bệnh nhân trong

TẠP CHÍ Y DƯỢC HỌC CẦN THƠ – SỐ 36/2021 60 KHẢO SÁT TÌNH HÌNH SỬ DỤNG THUỐC ĐIỀU TRỊ TĂNG HUYẾT ÁP TẠI KHOA NỘI TIM MẠCH BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƯƠNG CẦN THƠ NĂM 2019 Phạm Thái

Tình trạng dinh dưỡng có liên quan chặt chẽ với sự tiến triển của bệnh nhân lọc máu có chu kỳ.5 Theo nghiên cứu của Owen và cộng sự năm 19936 cho thấy có sự liên quan ý nghĩa của các

Thiếu máu trong 3 tháng đầu tiên thường là do tình trạng thiếu máu nặng trong bệnh thận mạn giai đoạn cuối có từ trước, thiếu EPO, mất máu trong và sau phẫu thuật, nhiễm trùng, huyết

KẾT QUẢ ĐIỂU TRỊ TỔN THƯƠNG THẬN CẤP Ở BỆNH NHÂN HỒI SỨC ĐƯỢC LỌC MÁU LIÊN TỤC TẠI KHOA HỒI SỨC TÍCH CỰC BỆNH VIỆN BẠCH MAI Hoàng Tuấn Phong1, Bùi Thị Hương Giang2 TÓM TẮT68 Mục

KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ NHỒI MÁU NÃO CẤP TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƢƠNG CẦN THƠ NĂM 2016-2018 Trần Trọng Anh Tuấn*, Nguyễn Thị Như Trúc, Phạm Văn Năng Trường Đại học Y Dược Cần Thơ *

NGHÊN CỨU NỒNG ĐỘ PROCALCITONIN HUYẾT THANH Ở BỆNH NHÂN NAM ĐỢT CẤP BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH CÓ HÚT THUỐC LÁ Huỳnh Đình Nghĩa*, Trương Dương Phi Bệnh viện lao & Bệnh phổi

Do vậy, nghiên cứu được tiến hành trên cơ sở kết hợp đánh giá creatinine huyết thanh, urê và tỉ số BCR theo các giai đoạn suy thận nhằm xác định nồng độ của các chỉ số này trong theo