• Tidak ada hasil yang ditemukan

Nghiên cứu hành vi sử dụng tiền đền bù giải phóng mặt bằng

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2023

Membagikan "Nghiên cứu hành vi sử dụng tiền đền bù giải phóng mặt bằng"

Copied!
14
0
0

Teks penuh

(1)

mặt bằng của hộ gia đình nông thôn Bắc Bộ

Phạm Mạnh Hùng

Viện Nghiên cứu Khoa học Ngân hàng, Học viện Ngân hàng

Trương Quốc Cường

Viện Nghiên cứu Khoa học Ngân hàng, Học viện Ngân hàng

Nguyễn Nhật Minh

Viện Nghiên cứu Khoa học Ngân hàng, Học viện Ngân hàng

Ngày nhận: 26/04/2021 Ngày nhận bản sửa: 09/05/2021 Ngày duyệt đăng: 19/05/2021

Tóm tắt: Bài báo này nghiên cứu hành vi sử dụng tiền đền bù giải phóng mặt bằng của hộ gia đình nông thôn Bắc Bộ. Dựa trên việc áp dụng mô hình Binary Logistic

Research on the behavior of using compensation money for land clearance of households in the north rural of Vietnam

Abstract: This paper aims to research the behavior of using compensation money for land clearance of households in the north rural of Vietnam. Applying the Binary Logistic model to the primary dataset collected from 139 households whose land is acquired and compensated for land clearance in three areas: Hanoi, Bac Giang and Bac Ninh through in-depth interviews and questionnaires, the empirical findings confirm that the use of land clearance compensation by households to invest in the industry, agriculture, services and savings will increase the probability of increasing household’s income. If households are involved in negotiations when implementing acquisition and compensation for land clearance, it also increases the probability of increasing their income. However, if a household uses compensation money for land clearance to invest in wrong purposes activities, the probability of increasing the household’s income will decrease sharply. Meanwhile, the education of the head of the household, using the compensation for land clearance to invest in education, the area of land acquired and the area of land to be compensated did not affect the probability of increasing the household’s income. The paper also provides recommendations to improve the efficiency of using compensation for land clearance by rural households.

Keywords: behavior, compensation money, land clearance, rural household Hung Manh Pham

Email: [email protected] Cuong Quoc Truong Email: [email protected] Minh Nhat Nguyen

Email: [email protected]

Organization of all: Research Institute for Banking, Banking Academy of Vietnam

(2)

cho bộ dữ liệu sơ cấp được thu thập từ 139 hộ gia đình có đất bị thu hồi và được đền bù giải phóng mặt bằng ở ba địa phương Hà Nội, Bắc Giang và Bắc Ninh thông qua phương pháp phỏng vấn sâu và phiếu khảo sát, kết quả cho thấy rằng việc các hộ gia đình sử dụng tiền đền bù giải phóng mặt bằng để đầu tư vào công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ và gửi tiết kiệm sẽ làm tăng xác suất tăng thu nhập của các hộ gia đình. Việc các hộ gia đình được tham gia đàm phán khi thực hiện thu hồi và đền bù giải phòng mặt bằng cũng làm tăng xác suất tăng thu nhập của hộ. Tuy nhiên, nếu hộ gia đình sử dụng tiền đền bù giải phóng mặt bằng để đầu tư vào các hoạt động không đúng mục đích sẽ khiến xác suất tăng thu nhập của hộ gia đình giảm mạnh.

Trong khi đó, học vấn của chủ hộ, sử dụng tiền đền bù giải phóng mặt bằng đầu tư cho giáo dục, diện tích đất bị thu hồi và diện tích đất được đền bù không tác động đến xác suất tăng thu nhập của hộ gia đình. Bài báo cũng đưa ra một số khuyến nghị chính sách nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tiền đền bù giải phóng mặt bằng của các hộ gia đình nông thôn.

Từ khóa: hành vi sử dụng, tiền đền bù, giải phóng mặt bằng hộ gia đình nông thôn

1. Giới thiệu

Đô thị hóa là hệ quả trực tiếp của quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa, chuyển nền kinh tế từ sản xuất nông nghiệp truyền thống sang phương thức sản xuất công nghiệp, dịch vụ. Trong quá trình đô thị hóa, tiến trình phát triển xã hội có sự thay đổi cơ bản, đó là phát triển đô thị kèm theo sự thu hẹp xã hội nông thôn, là sự hình thành các khu đô thị (KĐT), khu công nghiệp (KCN) thay thế cho đất canh tác nông nghiệp thông qua công tác đền bù và giải phóng mặt bằng (GPMB). Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách và đã được các địa phương vận dụng để giải quyết vấn đề bồi thường, tái định cư, bảo đảm việc làm, thu nhập và đời sống của người dân có đất bị thu hồi. Song tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp, không chuyển đổi được nghề nghiệp, khó khăn trong cuộc sống sinh hoạt ở nơi ở mới, đặc biệt đối với người nông dân bị thu hồi đất đã và đang diễn ra tại nhiều địa phương. Nguyên nhân này một phần quan trọng xuất phát từ việc tiền đền bù GPMB đã không được các hộ gia đình sử dụng một cách hợp lý để chuyển đổi

sản xuất. Theo điều tra của Tổng cục Thống kê thì phần lớn số tiền đền bù đất, người nông dân đều dùng vào việc mua sắm, xây dựng nhà cửa, hoặc nếu tiết kiệm thì sau gần chục năm sẽ tiêu hết số tiền đó (Hội Nông Dân Việt Nam, 2010). Từ thực tế trên, một số vấn đề lớn đặt ra là số tiền đền bù cho hộ nông dân để giúp họ ổn định cuộc sống và chuyển nghề mới được sử dụng như thế nào, sử dụng vào những việc gì, và có những yếu tố nào tác động tới sử dụng tiền đền bù của nông hộ?... Trả lời được những câu hỏi trên sẽ góp phần đáng kể vào việc giải quyết vấn đề lao động, việc làm và ổn định cuộc sống của những hộ mất đất nông nghiệp.

Vì vậy, bài báo này nghiên cứu hành vi sử dụng tiền đền bù giải phóng mặt bằng của hộ gia đình nông thôn Bắc Bộ thông qua phương pháp phỏng vấn sâu và khảo sát 139 hộ gia đình có đất bị thu hồi và được đền bù giải phóng mặt bằng ở ba địa phương Hà Nội, Bắc Giang và Bắc Ninh; sử dụng mô hình hồi quy Binary Logistic nghiên cứu về các hành vi ảnh hưởng đến xác suất cải thiện thu nhập của hộ gia đình nông dân sau khi bị thu hồi đất; từ đó, đề xuất một số khuyến

(3)

nghị chính sách nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tiền đền bù giải phóng mặt bằng của các hộ gia đình nông thôn.

2. Cơ sở lý thuyết và tổng quan nghiên cứu

Theo Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), những người ảnh hưởng bởi thu hồi đất nên được hỗ trợ để họ cải thiện mức sống, hoặc ít nhất là phục hồi cuộc sống của họ, bằng cuộc sống cũ hoặc cao hơn trước khi họ bị thu hồi đất và di chuyển (ADB, 1995).

Theo Ngân hàng Thế giới (WB, 2004), phục hồi thu nhập là một phần quan trọng của chính sách thu hồi đất khi những người bị ảnh hưởng mất đi cơ sở sản xuất, kinh doanh, việc làm hoặc các nguồn thu nhập khác. Hiểu theo nghĩa rộng hơn, những chính sách này không chỉ đơn thuần đảm bảo thu nhập sau khi bị thu hồi đất, mà còn là đảm bảo sinh kế bền vững cho những đối tượng bị tổn thương. Sinh kế bao gồm các khả năng, tài sản (bao gồm cả các nguồn lực vật chất và xã hội) và các hoạt động cần thiết để kiếm sống (Cục phát triển Quốc tế DFID, 1999).

Một sinh kế bền vững khi có khả năng ứng phó và phục hồi nếu bị tác động hay có thể thúc đẩy các khả năng và tài sản ở cả thời điểm hiện tại và trong tương lai trong khi không làm xói mòn nền tảng nguồn lực tự nhiên (Hanstad và cộng sự, 2004). Theo mô hình sinh kế bền vững cho thấy một chính sách về bồi thường, hỗ trợ cho người dân bị thu hồi đất tạo được sinh kế bền vững khi nó tác động các tài sản sinh kế của người dân (con người, nhân lực, vật chất, tài chính và nguồn lực tự nhiên) và kết hợp với thay đổi phương thức sinh kế (nông nghiệp và phi nông nghiệp) đảm bảo tăng thu nhập cho người dân sau thu hồi đất.

Kết quả nghiên cứu trước đây đã chỉ ra những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của việc sử dụng tiền bồi thường thu hồi đất tới sinh kế, đời sống của hộ dân như sau:

- Ảnh hưởng tích cực:

Nghiên cứu của Nguyễn Thị Diễn và cộng sự (2007) đã phân tích các tác động của việc thu hồi đất nông nghiệp để phát triển các khu, cụm công nghiệp đến sinh kế của các hộ nông dân trên địa bàn tỉnh Hưng Yên. Kết quả nghiên cứu cho thấy sau khi thu hồi đất nông nghiệp, ngân sách của địa Hình 1. Khung sinh kế bền vững

Nguồn: Cục phát triển Quốc tế DFID, 1999

(4)

phương (xã) tăng lên từ 2 đến 3 lần, cơ sở hạ tầng nông thôn được cải thiện, thu nhập bình quân đầu người của địa phương tăng lên hàng năm, tỉ lệ hộ nghèo giảm đi đáng kể. Việc mất đất nông nghiệp cùng với việc bồi thường, không phải lúc nào cũng có tác động tiêu cực đến kết quả sinh kế của hộ dân vì họ sử dụng phần tiền bồi thường của họ cho tiêu dùng thuận tiện (smoothing consumption). Tiêu dùng thuận tiện (smoothing consumption) là một thuật ngữ kinh tế chỉ sự cân bằng giữa chi tiêu và tiết kiệm trong các giai đoạn khác nhau của cuộc sống để đạt được mức sống tổng thể cao hơn. Theo nghiên cứu của Morduch (1995), các hộ gia đình có thể làm thuận tiện sự tiêu dùng của mình bằng cách đa dạng hóa các hoạt động kinh tế, tiết kiệm, tích lũy tài sản phi tài chính và sử dụng các hợp đồng bảo hiểm. Bằng cách này, các hộ gia đình có thể bảo vệ mình khỏi những cú sốc bất lợi về thu nhập cũng như giúp cách ly các mô hình tiêu dùng khỏi sự thay đổi thu nhập. Ngoài ra, thu nhập kiếm được từ việc làm khác ngoài nông nghiệp có thể bù đắp hoặc thậm chí vượt quá sự mất mát từ thu nhập nông nghiệp. Điều này cho thấy rằng mất đất nông nghiệp có thể gián tiếp ảnh hưởng tích cực đến kết quả sinh kế. Thu nhập bình quân đầu người tăng, tạo thêm nhiều việc làm mới, thu hút lao động vào làm việc tại các khu, cụm công nghiệp, đời sống văn hóa tinh thần của họ cũng tăng lên so với trước kia (Nguyễn Thị Hồng Hạnh và cộng sự, 2013). Với việc thu nhập của người dân trong vùng dự án được nâng lên và từng bước ổn định, các điều kiện sinh hoạt văn hóa, học tập, y tế của người dân cũng được cải thiện. Theo Nguyễn Đình Hà (2012), các hành vi sử dụng tiền đền bù đúng mục đích bao gồm đầu tư cho học nghề, đầu tư cho mở mang ngành nghề và dịch vụ, mua sắm phương tiện, tài sản cho hoạt động sản xuất kinh

doanh, mua đất nông nghiệp để tiếp tục sản xuất và gửi tiết kiệm hoặc cho vay lấy lãi.

Đây là các hoạt động có thể giúp tăng thu nhập hoặc góp phần nâng cao năng suất lao động, từ đó có thể cải thiện thu nhập của hộ gia đình ở hiện tại và trong tương lai. Kết quả nghiên cứu của Đinh Phi Hổ và Huỳnh Sơn Vũ (2011) về thay đổi thu nhập và các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của người dân bị thu hồi đất dựa vào khung lý thuyết sinh kế bền vững cho thấy việc sử dụng tiền hợp lý như đầu tư vào sản xuất kinh doanh sẽ có tác dụng rất lớn trong việc cải thiện thu nhập của hộ gia đình mất đất.

- Ảnh hưởng tiêu cực:

Về mặt tiêu cực, thì việc thu hồi đất không chỉ làm các hộ nông dân mất đi tài sản sinh kế đặc biệt là đất đai, mà còn làm mất đi địa vị, các cơ hội, các nguồn thực phẩm, thu nhập của hộ gia đình và cộng đồng, gây ra sự xáo trộn xã hội và hộ dân phải đối mặt với việc tìm kiếm kế mưu sinh mới với những khó khăn đầy rủi ro (Đỗ Thị Nâng và Nguyễn Văn Ga, 2008). Sau khi bị thu hồi đất, thu nhập hộ dân cao hơn trước, nguồn vốn về vật chất của họ được cải thiện đáng kể, nhưng do việc làm không ổn định, nguồn thu nhập bấp bênh, cuộc sống xáo trộn và ô nhiễm môi trường làm nhiều người dân lo lắng về sinh kế lâu dài của họ.

Khi nhận được tiền đền bù bằng tiền mặt, nguồn vốn từ việc bồi thường, hỗ trợ sau khi bị thu hồi đất không được người dân sử dụng vào mục đích đầu tư sản xuất, học nghề để chuyển đổi nghề nghiệp nên dẫn đến khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm (Huỳnh Văn Chương, 2010).

Theo Nguyễn Đình Hà (2012), các hành vi sử dụng tiền đền bù không đúng mục đích bao gồm mua và xây dựng nhà ở, mua đồ dùng sinh hoạt gia đình, trả nợ, chia cho con cháu hoặc chữa bệnh, lô đề, cờ bạc. Đây là những hoạt động không giúp tăng thu nhập hoặc không góp phần nâng cao năng suất

(5)

lao động của hộ gia đình, dẫn đến lãng phí cũng như không tối ưu hóa được số tiền đền bù. Nghiên cứu của Nguyễn Bình Giang (2012) đánh giá tác động xã hội vùng của các KCN Việt Nam cho thấy việc sử dụng tiền đền bù và hỗ trợ cho các hộ dân có đất bị thu hồi làm KCN có thể có tác động tiêu cực. Do đối tượng bị thu hồi đất hạn chế về trình độ văn hóa, nhiều hộ dân sử dụng tiền đền bù và hỗ trợ mua sắm tivi, xây nhà...

nên số tiền nhận bồi hoàn nhanh chóng cạn kiệt, nhiều hộ dân chưa quan tâm đến các nguồn hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp. Do đó, nhiều hộ rơi vào hoàn cảnh khó khăn, thậm chí trở thành nghèo đói sau thời gian mất đất, khi tiêu hết tiền đền bù. Cuộc sống gia đình trở nên xáo trộn, ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường sống, an ninh trật tự ở nông thôn vốn bình yên và nề nếp.

Nghiên cứu của Hồ Kiệt và cộng sự (2017) nghiên cứu ảnh hưởng của công tác giải phóng mặt bằng đến sinh kế của người dân bị thu hồi đất tại khu kinh tế Nhơn Hội, tỉnh Bình Định cho thấy sinh kế của người dân sau thu hồi đất thiếu bền vững. Nguồn vốn tài chính thu được từ sản xuất nông nghiệp giảm đi theo sự tăng lên của diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi. Việc sử dụng nguồn vốn tài chính của người dân thiếu sự định hướng. Theo đó, phần lớn dành cho đời sống và sinh hoạt, phần còn lại rất ít dành cho sản xuất. Sau thu hồi đất người dân chưa chú trọng tới việc học nghề. Có sự luân chuyển từ vốn tài chính sang vốn vật chất, nhưng đa số là phương tiện sinh hoạt mà không phải là phương tiện sản xuất.

Tổng kết lại kết quả của các nghiên cứu trên cho thấy tầm quan trọng của việc sử dụng tiền đền bù của các hộ gia đình nông thôn sau khi giải phóng mặt bằng đến thu nhập cũng như đời sống sau này là rất lớn.

Xuất phát từ thực trạng đó bài báo nghiên cứu muốn đi sâu tìm hiểu hành vi và mối quan hệ giữa hành vi sử dụng tiền đền bù

và cải thiện cuộc sống của người dân sau giải phóng mặt bằng.

3. Phương pháp nghiên cứu và dữ liệu 3.1. Dữ liệu nghiên cứu

Nhóm tác giả thu thập dữ liệu sơ cấp từ 139 hộ gia đình có đất bị thu hồi và được đền bù GPMB ở ba địa phương Hà Nội, Bắc Giang và Bắc Ninh thông qua phương pháp phỏng vấn sâu và phiếu khảo sát trong khoảng thời gian từ tháng 01 đến tháng 4/2021. Kết quả thu được cho thấy: Trong tổng số 139 hộ gia đình được khảo sát có 95 hộ trên địa bàn thành phố Hà Nội (chiếm 68,3%), 26 hộ trên địa bàn tỉnh Bắc Giang (chiếm 18,7%) và 18 hộ trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh (chiếm 12,9%) với tổng diện tích thu hồi là 145.989 m2, tổng diện tích đền bù là 145.602 m2. Diện tích đất bị thu hồi ở khu vực Hà Nội chủ yếu phục vụ mục đích xây dựng khu đô thị Ecopark, diện tích đất bị thu hồi ở tỉnh Bắc Ninh phục vụ mục đích xây dựng khu công nghiệp VSIP ở thị xã Từ Sơn, trong khi diện tích đất bị thu hồi ở tỉnh Bắc Giang nhằm đáp ứng mục đích xây dựng KCN Hòa Phú ở huyện Hiệp Hòa.

Theo Green (1991), trong nghiên cứu, cỡ mẫu được xem là phù hợp khi đạt đủ điều kiện: n ≥ 50+8m, trong đó n là kích thước mẫu tối thiểu cần thiết và m là số lượng biến độc lập trong mô hình. Do đó, với 10 biến giải thích trong mô hình, cỡ mẫu phù hợp là 130 khảo sát. Với mẫu nghiên cứu là 139 quan sát, dữ liệu mà nhóm tác giả thu thập được đảm bảo tính đại diện cũng như đạt được độ tin cậy cần thiết.

3.2. Phương pháp nghiên cứu

Qua thực tế hiện nay, việc thực hiện các dự án có liên quan đến thu hồi đất và thực hiện công tác tái định cư, sau một thời gian

(6)

người dân bị thu hồi đất và nhận được tiền đền bù thì có một nhóm hộ gia đình có thu nhập được cải thiện tốt hơn so với trước khi triển khai dự án. Tuy nhiên, cũng có một bộ phận người dân có thu nhập không được cải thiện, thậm chí còn thấp hơn so với trước khi bị thu hồi đất. Trên cơ sở đó, tham khảo mô hình nghiên cứu của Đinh Phi Hổ và Huỳnh Sơn Vũ (2011), nhóm tác giả sử dụng mô hình hồi quy Binary Logistic nghiên cứu về các hành vi ảnh hưởng đến

xác suất cải thiện thu nhập của hộ gia đình nông dân sau khi bị thu hồi đất như sau:

= β0 + β1X1 + β2X2 + β3X3 + … + βiXi

Trong đó:

P (Y=1)= P0: Xác suất hộ gia đình sau thu hồi đất là tăng thu nhập

P (Y=0)= 1 - P0: Xác suất hộ gia đình sau thu hồi đất không tăng thu nhập

Xi: Các biến độc lập Bảng 1. Diễn giải biến và dấu kỳ vọng

Tên biến Ký hiệu Định nghĩa ĐVT Kỳ vọng

Biến phụ thuộc (Y) Biến giả, nhận giá trị 1 khi thu nhập của hộ gia đình tăng lên, và nhận giá trị 0 nếu thu nhập của hộ không tăng

Trình độ học

vấn của chủ hộ EDUC

(X1) Số năm đi học của chủ hộ Năm +

Đàm phán BARGAIN

(X2)

Biến giả, nhận giá trị 1 khi hộ gia đình được tham gia đàm phán khi thực hiện thu hồi và đền bù GPMB, nhận giá trị 0 khi hộ gia đình KHÔNG được tham gia

+ Diện tích đất bị

thu hồi S1

(X3) Diện tích đất bị thu hồi của hộ gia đình m2 - Diện tích đất

được đền bù S2

(X4) Diện tích đất được đền bù của hộ gia đình m2 + Đầu tư vào

nông nghiệp iAGRI (X5)

Biến giả, nhận giá trị 1 khi hộ gia đình sử dụng tiền đền bù đầu tư vào nông nghiệp, nhận giá trị

0 khi hộ gia đình KHÔNG đầu tư. +

Đầu tư vào

công nghiệp iINDUS (X6)

Biến giả, nhận giá trị 1 khi hộ gia đình sử dụng tiền đền bù đầu tư vào công nghiệp, nhận giá trị

0 khi hộ gia đình KHÔNG đầu tư. +

Đầu tư vào dịch

vụ iSERVICES

(X7)

Biến giả, nhận giá trị 1 khi hộ gia đình sử dụng tiền đền bù đầu tư vào dịch vụ, nhận giá trị 0 khi

hộ gia đình KHÔNG đầu tư. +

Đầu tư vào giáo

dục, học nghề iEDUC (X8)

Biến giả, nhận giá trị 1 khi hộ gia đình sử dụng tiền đền bù đầu tư vào hoạt động giáo dục và học nghề, nhận giá trị 0 khi hộ gia đình KHÔNG đầu tư.

+ Đầu tư vào gửi

tiết kiệm và cho vay

iSAVING (X9)

Biến giả, nhận giá trị 1 khi hộ gia đình sử dụng tiền đền bù đầu tư vào hoạt động gửi tiết kiệm và cho vay, nhận giá trị 0 khi hộ gia đình KHÔNG đầu tư.

+ Đầu tư vào các

hoạt động sai mục đích

iOTHER (X10)

Biến giả, nhận giá trị 1 khi hộ gia đình sử dụng tiền đền bù đầu tư vào các hoạt động sai mục đích, nhận giá trị 0 khi hộ gia đình KHÔNG đầu tư.

-

Nguồn: Cục Phát triển Quốc Tế DFID (1995)

(7)

Đặt = Odds, ta có phương trình sau:Ln(Odds) = β0 + β1X1 + β2X2 + β3X3 + … + βiXi

Hoặc: Odds = e β0 + β1X1 + β2X2 + β3X3 + … + βiXi

tTrên cơ sở kế thừa từ phân tích khung sinh kế kết hợp với việc nghiên cứu hành vi sử dụng tiền đền bù giải phóng mặt bằng của hộ gia đình nông thôn Bắc Bộ, mô hình lựa chọn các biến thể hiện ở Bảng 1.

Với các biến đã lựa chọn, kết hợp với mô hình hồi quy Binary Logistic, mô hình sẽ có phương trình như sau:

Ln[Odds] = β0 + β1EDUC + β2BARGAIN + β3S1 + β4S2 + β5 iAGRI + β6 iINDUS + β7 iSERVICES + β8 iEDUC + β9 iSAVING + β10 iOTHERβ0 (1)

Hoặc Odds = eβ0 + β1EDUC + β2BARGAIN + β3S1 + β4S2 + β5 iAGRI + β6 iINDUS + β7 iSERVICES + β8 iEDUC + β9 iSAVING +

β10 iOTHERβ0 (2)

4. Kết quả nghiên cứu định lượng và thảo luận

4.1. Kết quả thống kê mô tả

Theo kết quả thống kê cho thấy, tuổi trung bình của chủ hộ giữa các tỉnh thành trong phạm vi nghiên cứu là khá tương đồng, khoảng 45,5 tuổi. Điều này cho thấy nhiều hộ dân vẫn còn ở trong độ tuổi lao động.

Khi nhận bồi thường và hỗ trợ sau khi thu hồi đất, các hộ dân có thể phải chuyển đổi sinh kế, tìm việc làm mới, ví dụ như làm việc tại các công ty, doanh nghiệp trong KCN hoặc chuyển sang làm việc trong lĩnh vực dịch vụ. Tổng diện tích đất bị thu hồi ở Hà Nội là 131.676 m2, ở Bắc Giang là 11.055 m2 và ở Bắc Ninh là 3.258 m2. Diện tích đất bị thu hồi chủ yếu là đất nông nghiệp (chiếm tỉ trọng hơn 90% tổng diện tích đất bị thu hồi). Diện tích trung bình bị thu hồi trên một hộ gia đình ở Hà Nội là cao nhất, 1.386,1 m2/hộ, cao gần gấp 3 lần diện tích trung bình bị thu hồi trên một hộ ở tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh. Tỷ lệ diện tích đất được đền bù trên diện tích đất được thu hồi cũng rất cao (trên 95%) cho thấy hầu hết các hộ gia đình bị thu hồi đất đều được đền bù.

Bảng 3 cho thấy mục đích sử dụng tiền đền bù khá đa dạng như phần lớn các gia

Bảng 2. Thống kê mô tả dữ liệu đất thu hồi và đền bù

Chỉ tiêu ĐVT Hà Nội Bắc Giang Bắc Ninh

SL SL SL

1. Tổng số hộ điều tra hộ 95 26 18

2. Tuổi TB của chủ hộ tuổi 45,5 44,6 45,4

3. Diện tích bị thu hồi m2 131.676 11.055 3.258

Hộ cao nhất m2/hộ 5.468 1.350 500

4. Diện tích trung bình bị thu hồi m2 1.386,1 425,2 500,0 5. Diện tích được đền bù m2 131.435 11.035 3.132

Hộ cao nhất m2/hộ 4.016 1.300 500

6. Đất nông nghiệp bị thu hồi m2 130.501 10.220 3.032

7. Đất thổ cư bị thu hồi m2 955 0 190

8. Đất khác bị thu hồi m2 220 835 36

Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm tác giả

(8)

đình được đền bù sử dụng tiền để cho vay, tiết kiệm, với tỷ lệ 82%, tiếp đến là đầu tư vào kinh doanh dịch vụ và đầu tư vào giáo dục, chiếm tỷ lệ lần lượt là 38,1% và 36%

chia cho con cái và người thân chiếm tỷ lệ 34,5%. Ngoài ra, các hộ dân còn sử dụng tiền vào mục đích khác như: xây dựng nhà cửa, mua sắm tài sản, chữa bệnh, du lịch giải trí với tỷ lệ dưới 30%. Nhóm tác giả phân loại hành vi sử dụng tiền đền bù của các hộ gia đình thành 2 nhóm: đúng mục đích và không đúng mục đích. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng các hộ gia đình trong phạm vi khảo sát có xu hướng sử dụng số tiền bồi thường đúng mục đích khi nhiều gia đình dành số tiền này để đầu tư kinh doanh dịch vụ (38,1%) và đầu tư cho giáo dục đào tạo nghề (36%), và đầu tư vào nông nghiệp

(23%). Tuy nhiên sử dụng đúng mục đích nhưng các hộ gia đình sử dụng số tiền đền bù chưa thật sự bền vững, bởi vì phần lớn sử dụng vào mục đích cho vay, tiết kiệm (82%), và một bộ phận không nhỏ các gia đình chia tài sản cho con cháu (34,5%) cũng như sử dụng tiền đền bù vào các hoạt động sai mục đích. Sau khi nhận được tiền đền bù GPMB, có 61,9% số hộ gia đình có thu nhập tăng trong khi thu nhập của 38,1%

hộ gia đình còn lại không tăng hoặc giảm.

4.2. Kết quả thực nghiệm

Sau khi sử dụng mô hình Binary Logistic để xử lý số liệu, nhóm tác giả thu được kết quả thể hiện tại Bảng 4.

Dựa vào kết quả hồi quy, phương trình (1) Bảng 3. Thống kê mô tả hành vi sử dụng tiền đền bù của các hộ gia đình

Diễn giải Hà Nội Bắc Giang Bắc Ninh Tổng

(hộ) CC (%) SL (hộ) CC (%)SL SL

(hộ) CC

(%) SL (hộ) CC (%)

1. Tổng số hộ gia đình 95 100 26 100 18 100 139 100

2. Sử dụng đúng mục đích

Đầu tư vào nông nghiệp 15 15,8 11 42,3 6 33,3 32 23,0

Đầu tư vào CN, TTCN 6 6,3 1 3,8 2 11,1 9 6,5

Đầu tư vào kinh doanh

dịch vụ 33 34,7 15 57,7 5 27,8 53 38,1

Đầu tư cho giáo dục, đào

tạo nghề 26 27,4 18 69,2 6 33,3 50 36,0

Cho vay, tiết kiệm 77 81,1 21 80,8 16 88,9 114 82,0

3. Sử dụng không đúng mục đích Mua bất động sản và xây

dựng nhà cửa 29 30,5 7 26,9 4 22,2 40 28,8

Mua sắm đồ gia dụng 15 15,8 6 23,1 7 38,9 28 20,1

Chia cho con cháu 42 44,2 2 7,7 2 11,1 48 34,5

Chữa bệnh 9 9,5 2 7,7 2 11,1 13 9,4

Du lịch, giải trí 29 30,5 2 7,7 2 11,1 33 23,7

Mục đích khác 9 9,5 1 3,8 4 22,2 14 10,1

Sau khi được đền bù tiền giải phóng mặt bằng, thu nhập

của gia đình có được cải thiện không 61,9% Không 38,1%

Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm tác giả

(9)

(2) của mô hình được viết lại như sau:

Ln[Odds] = -1,851 + 0,079EDUC + 0,845BARGAIN + 0,003S1 - 0,002S2 + 1,268iAGRI + 1,743iINDUS + 0,849 iSERVICES + 0,369iEDUC + 0,906 iSAVING - 2,042 iOTHER

Hoặc: Odds = e-1,851 + 0,079EDUC + 0,845BARGAIN + 0,003S1 - 0,002S2 + 1,268 iAGRI + 1,743iINDUS + 0,849 iSERVICES + 0,369iEDUC + 0,906 iSAVING - 2,042 iOTHER

Nhóm tác giả thống nhất sử dụng Odds Ratio ở Bảng 5 để diễn giải kết quả hồi quy một cách dễ hiểu nhất. Likelihood ratio Chi-square= 35.52 với giá trị p = 0,0001 cho thấy tổng thể mô hình của nhóm tác giả phù hợp và có ý nghĩa.

Biến Đàm phán (BARGAIN) có Odds ratio= 2.328 (>1) có nghĩa rằng: Khi tất cả các yếu tố không đổi, nếu hộ gia đình được tham gia đàm phán khi thực hiện thu hồi và đền bù GPMB thì Odds của việc cải thiện thu nhập (so với việc không cải thiện thu nhập) tăng 2,328 lần, có ý nghĩa thống kê

ở mức 10%. Điều này hoàn toàn có lý vì nếu hộ gia đình được tham gia đàm phán trong quá trình thực hiện thu hồi và đền bù GPMB họ sẽ có cơ hội để đưa ra những thông tin chi tiết hơn về diện tích đất đai cũng như những lợi thế của mình với mục đích đảm bảo quyền lợi của người được đền bù cũng như hạn chế được những rủi ro về đền bù xuất phát từ phía đơn vị GPMB.

Biến Đầu tư vào nông nghiệp (iAGRI) có Odds ratio= 3.553 (>1) có nghĩa rằng: Khi tất cả các yếu tố không đổi, nếu hộ gia đình sử dụng tiền đền bù đầu tư vào nông nghiệp thì Odds của việc cải thiện thu nhập (so với việc không cải thiện thu nhập) tăng 3,553 lần, có ý nghĩa thống kê ở mức 5%. Điều này là dễ hiểu khi 72,7% số hộ gia đình được khảo sát có thu nhập chính đến từ lĩnh vực nông nghiệp trước thời điểm thu hồi và đền bù GPMB. Do đó, sau khi nhận tiền đền bù GPMB, với kinh nghiệm và kỹ năng dày dặn trong lĩnh vực nông nghiệp, các hộ Bảng 4. Kết quả hồi quy mô hình theo Ln[Odds]

Logistic regression Number of obs = 139 LR chi2(10) = 35.52 Log likelihood = - 74.630699 Prob > chi2 = 0.0001

Pseudo R2 = 0.1922

Ln [Odds] Coefficient Std. Err. Z P > |z| [95% Conf. Interval]

EDUC 0.079172 0.067003 1.18 0.237 -0.052151 0.21049

BARGAIN 0.844998 0.483237 1.75 0.080 * -0.102129 1.79212

S1 0.002873 0.002462 1.17 0.243 -0.001953 0.00769

S2 -0.002089 0.002435 -0.86 0.391 -0.006862 0.00268

iAGRI 1.267931 0.605837 2.09 0.036 ** 0.080512 2.45535 iINDUS 1.742837 0.988556 1.76 0.078 * -0.194696 3.68037 iSERVICES 0.849199 0.489799 1.73 0.083 * -0.110789 1.80918 iEDUC 0.369316 0.545532 0.68 0.498 -0.699908 1.43854 iSAVING 0.906361 0.539338 1.68 0.093 * -0.150722 1.96344 iOTHER -2.041993 0.662918 -3.08 0.002 *** -3.341289 -0.74269 _cons -1.850653 1.248977 -1.48 0.138 -4.298603 0.59729 Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả qua phần mềm Stata 14

(10)

gia đình này không khó để cải thiện thu nhập bằng cách nâng cấp máy móc, trang thiết bị cũng như cải thiện chất lượng giống cây trồng để bù đắp lại diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi.

Biến Đầu tư vào công nghiệp (iINDUS) có Odds ratio= 5.713 (>1) có nghĩa rằng: Khi tất cả các yếu tố không đổi, nếu hộ gia đình sử dụng tiền đền bù đầu tư vào công nghiệp thì Odds của việc cải thiện thu nhập (so với việc không cải thiện thu nhập) tăng 5,713 lần, có ý nghĩa thống kê ở mức 10%. Các hộ gia đình sử dụng tiền đền bù đầu tư vào hoạt động công nghiệp có xu hướng đầu tư vào tiểu thủ công nghiệp và thủ công mỹ nghệ. Các sản phẩm trong lĩnh vực công nghiệp thường có hàm lượng chất xám cao, có độ tinh xảo cũng như có giá thành cao hơn so với các sản phẩm nông nghiệp.

Biến Đầu tư vào dịch vụ (iSERVICES) có Odds ratio= 2.338 (>1) có nghĩa rằng: Khi tất cả các yếu tố không đổi, nếu hộ gia đình sử dụng tiền đền bù đầu tư vào dịch vụ thì

Odds của việc cải thiện thu nhập (so với việc không cải thiện thu nhập) tăng 2,338 lần, có ý nghĩa thống kê ở mức 10%. Với việc các khu công nghiệp được xây dựng, lượng nhân công đổ về các khu vực này sẽ rất nhiều dẫn đến nhu cầu sử dụng dịch vụ thiết yếu như mua bán hàng hóa, ăn uống, thuê trọ… sẽ tăng rất nhanh. Điều này góp phần cải thiện thu nhập của những hộ gia đình ở xung quanh khu vực các khu công nghiệp.

Biến Đầu tư vào gửi tiết kiệm và cho vay (iSAVING) có Odds ratio= 2.475 (>1) có nghĩa rằng: Khi tất cả các yếu tố không đổi, nếu hộ gia đình sử dụng tiền đền bù đầu tư vào gửi tiết kiệm và cho vay thì Odds của việc cải thiện thu nhập (so với việc không cải thiện thu nhập) tăng 2,475 lần, có ý nghĩa thống kê ở mức 10%. Có tới 82%

số hộ gia đình được khảo sát sử dụng tiền đền bù để gửi tiết kiệm hoặc cho vay. Điều này dễ hiểu khi các hộ gia đình được khảo sát hầu hết là nông dân và họ thường có ít Bảng 5. Kết quả hồi quy mô hình theo Odds

Logistic regression Number of obs = 139 LR chi2(10) = 35.52 Log likelihood = - 74.630699 Prob > chi2 = 0.0001

Pseudo R2 = 0.1922

Odds (Y) Odds Ratio Std. Err. Z P > |z| [95% Conf. Interval]

EDUC 1.08239 0.072523 1.18 0.237 .9491852 1.234289

BARGAIN 2.327973 1.124963 1.75 0.080 * .9029129 6.002193

S1 1.002877 0.002469 1.17 0.243 .9980485 1.007728

S2 0.997912 0.002429 -0.86 0.391 .9931614 1.002686

iAGRI 3.553492 2.152837 2.09 0.036 ** 1.083842 11.65051 iINDUS 5.713531 5.648143 1.76 0.078 * .8230846 39.66109 iSERVICES 2.337776 1.145041 1.73 0.083 * .8951276 6.105493 iEDUC 1.446745 0.789246 0.68 0.498 .496631 4.214538 iSAVING 2.475297 1.335021 1.68 0.093 * .8600868 7.123812 iOTHER 0.129769 0.086027 -3.08 0.002 *** .0353913 0.475828 _cons 0.157134 0.196257 -1.48 0.138 .0135875 1.817201 Nguồn: Tính toán của tác giả qua phần mềm Stata 14 (*, **, ***: Có ý nghĩa thống kê lần lượt ở mức 10%, 5%, 1%)

(11)

kiến thức về các sản phẩm tài chính. Thay vào đó, họ thường sử dụng tiền đền bù để gửi tiết kiệm để đảm bảo tính an toàn cũng như có một khoản tiền chắc chắn nhận được hàng năm. Kết hợp với việc tiền đền bù GPMB thường là một số tiền lớn nên khoản tiền hàng năm nhận được của các hộ gia đình cũng sẽ tăng lên và điều này khiến tăng thu nhập của các hộ gia đình.

Biến Đầu tư các hoạt động sai mục đích (iOTHER) có Odds ratio= 0.129 (<1) có nghĩa rằng: Khi tất cả các yếu tố không đổi, nếu hộ gia đình sử dụng tiền đền bù đầu tư vào các hoạt động sai mục đích thì Odds của việc cải thiện thu nhập (so với việc không cải thiện thu nhập) giảm 1÷

0.129 = 7,7 lần, có ý nghĩa thống kê ở mức 1% và đúng với kỳ vọng của nhóm tác giả.

Điều này có thể giải thích bởi việc có một bộ phận không nhỏ các hộ gia đình không tăng thu nhập sau khi nhận tiền đền bù vì họ đã sử dụng phần lớn tiền đền bù để đầu tư vào các hoạt động sai mục đích như mua bất động sản và xây dựng nhà cửa, mua sắm đồ gia dụng, chia cho con cháu, du lịch và vui chơi giải trí… Khi nhận được tiền đền bù, các hộ gia đình thường chi tiêu cho việc giải quyết các khó khăn hiện tại và cải thiện mức sống của gia đình. Khi đã tạm thỏa mãn với nhu cầu cuộc sống thì các hộ mới nghĩ đến việc đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh để tạo ra thu nhập, và đến lúc này thì số tiền còn lại không đáng kể và không tạo được thu nhập cho hộ gia đình.

Biến Trình độ học vấn của chủ hộ (EDUC) và biến Đầu tư cho giáo dục, học nghề (iEDUC) mặc dù có mối quan hệ cùng chiều với xác suất tăng thu nhập của hộ gia đình và đúng với kỳ vọng của nhóm tác giả nhưng không có ý nghĩa thống kê.

Điều này được giải thích bởi việc tác động của việc đầu tư cho giáo dục, học nghề lên thu nhập của hộ gia đình là tác động trong dài hạn. Không giống việc đầu tư vào các

hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ ngay lập tức cải thiện thu nhập, việc đầu tư cho giáo dục, học nghề yêu cầu khoảng thời gian dài để có thể mang lại thu nhập cao hơn cho hộ gia đình. Bên cạnh đó, các hộ gia đình vẫn luôn đầu tư cho giáo dục, học nghề dù có hay không việc nhận được tiền đền bù GPMB.

Biến Diện tích đất bị thu hồi (S1), Diện tích đất được đền bù (S2) không có ý nghĩa thống kê. Từ kết quả này, có thể rút ra được kết luận: Việc hộ gia đình có thể cải thiện thu nhập sau khi nhận tiền đền bù GPMB hay không, hoàn toàn phụ thuộc vào hành vi của hộ gia đình chứ không phụ thuộc vào số tiền hay diện tích được đền bù.

5. Kết luận và một số khuyến nghị nhằm tăng cường hiệu quả sử dụng tiền đền bù giải phóng mặt bằng của hộ gia đình nông thôn

Bài báo nghiên cứu hành vi sử dụng tiền đền bù giải phóng mặt bằng của hộ gia đình nông thôn Bắc Bộ. Qua kết quả thực nghiệm, nhóm tác giả rút ra được kết luận:

Các hộ gia đình sử dụng tiền đền bù GPMB đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp sẽ có xác suất tăng thu nhập cao nhất với 5,713 lần, tiếp theo là đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp với xác suất tăng thu nhập đạt 3,553 lần. Các hộ gia đình sử dụng tiền đền bù GPMB để gửi tiết kiệm, cho vay và đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ có xác suất tăng thu nhập lần lượt là 2,475 và 2,338 lần. Nếu hộ gia đình được tham gia đàm phán khi thực hiện thu hồi và đền bù GPMB thì xác suất cải thiện thu nhập tăng 2,328 lần. Tuy nhiên, nếu hộ gia đình sử dụng tiền đền bù GPMB để đầu tư vào các hoạt động sai mục đích sẽ giảm xác suất tăng thu nhập lên tới 7,7 lần. Trình độ học vấn, sử dụng tiền đền bù GPMB đầu tư vào giáo dục, học nghề, hay diện tích đất bị thu hồi và được đền

(12)

bù không ảnh hưởng đến xác suất tăng thu nhập của hộ gia đình. Từ đó cho thấy, việc hộ gia đình có thể cải thiện thu nhập sau khi nhận tiền đền bù GPMB hay không, hoàn toàn phụ thuộc vào hành vi của hộ gia đình chứ không phụ thuộc vào số tiền hay diện tích được đền bù.

Nhằm nâng cao và tăng cường hiệu quả sử dụng tiền đền bù giải phóng mặt bằng của hộ gia đình nông thôn, từ kết quả nghiên cứu trên, nhóm tác giả có một số khuyến nghị như sau:

Thứ nhất, vì các hộ gia đình sử dụng tiền đền bù GPMB đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp sẽ có xác suất tăng thu nhập cao nhất (5,713 lần), tiếp theo là đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp (3,553 lần), gửi tiết kiệm (2,475 lần), cho vay và đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ (2,338 lần) nên các hộ gia đình cân nhắc lựa chọn sử dụng tiền đền bù để đầu tư vào các hoạt động trên nhằm tối ưu hóa số tiền đền bù cũng như có xác suất tăng thu nhập cao nhất.

Thứ hai, bởi vì hộ gia đình được tham gia đàm phán khi thực hiện thu hồi và đền bù GPMB thì xác suất cải thiện thu nhập tăng 2,328 lần nên các hộ dân cần phải tích cực tham gia vào quá trình đàm phán đền bù GPMB nhằm có thể cải thiện xác suất tăng thu nhập cũng như đảm bảo quyền lợi của người được đền bù và hạn chế được những rủi ro về đền bù xuất phát từ phía đơn vị GPMB. Bên cạnh đó, các cấp chính quyền cũng cần phải tạo điều kiện cũng như hỗ trợ các hộ dân có thể tham gia vào quá trình đàm phán khi thu hồi và đền bù GPMB.

Thứ ba, vì hộ gia đình sử dụng tiền đền bù GPMB để đầu tư vào các hoạt động sai mục đích sẽ giảm xác suất tăng thu nhập lên tới 7.7 lần nên các hộ gia đình cẩn phải hạn chế đến mức tối đa việc đầu tư tiền đền bù vào các hoạt động sai mục đích đã được đề cập ở trên. Điều này có thể rất khó vì nó xuất phát từ thói quen cũng như nhận thức của

các hộ dân.

Do đó, nhóm tác giả đề xuất thêm một số khuyến nghị nhằm hạn chế việc sử dụng tiền đền bù sai mục đích cho các hộ gia đình:

Trước tiên, cần phải có phương án nhằm nâng cao trình độ của nông hộ. Thực tế cho thấy, tuổi của chủ hộ tương đối cao, trình độ của chủ hộ cũng như các lao động trong nông hộ còn thấp, ảnh hưởng rất lớn đến phương hướng và kết quả sản xuất kinh doanh của hộ. Chính vì vậy, cần nâng cao trình độ của hộ, giúp hộ thay đổi cách tư duy, cách nghĩ cho phù hợp với thời cuộc và thực tế đang diễn ra tại địa phương. Muốn làm được như vậy nhóm tác giả đề xuất một số hướng giải quyết như tổ chức các khóa đào tạo, trao đổi chuyên môn; tăng cường học hỏi kinh nghiệm sản xuất và trao đổi công nghệ; cũng như hỗ trợ và khích lệ các nông hộ tự trau dồi, học hỏi thêm thông tin và kiến thức nhằm tăng cường hiệu quả sử dụng tiền đền bù.

Tiếp theo, chính quyền, các tổ chức đoàn thể tại địa phương cần tư vấn các nông hộ lập kế hoạch chi tiết việc sử dụng tiền đền bù. Có thể thấy rằng do trình độ của nông hộ thấp, nông hộ chủ yếu làm việc theo thói quen và không có định hướng phát triển kinh tế hộ một cách rõ ràng, không có kế hoạch cụ thể trong các hoạt động kinh tế của hộ. Đây cũng chính là vấn đề nan giải trong quá trình phát triển kinh tế hộ, đặc biệt là khi nông hộ mất đất sản xuất kinh doanh nông nghiệp và phải chuyển đổi nghề nghiệp. Vì vậy, việc cùng hộ lập kế hoạch sử dụng tiền đền bù phục vụ mục đích ổn định cuộc sống và chuyển đổi nghề nghiệp là khuyến cáo thiết thực, giải quyết tận gốc của vấn đề. Việc lập kế hoạch sử dụng tiền đền bù cho nông hộ cần thực hiện các bước sau: (1) Thành lập Tổ tư vấn và giám sát kế hoạch sử dụng tiền đền bù của hộ; (2) Hướng dẫn các hộ tự lập kế hoạch sử dụng tiền đền bù nhận được; (3) Kiểm tra

(13)

và giám sát quá trình thực hiện kế hoạch;

(4) Tổng kết nghiên cứu định kỳ.

Cuối cùng, cần có sự phối kết hợp giữa chủ đầu tư, chính quyền địa phương và nông hộ nhằm nâng cao chất lượng quản lý quá trình giải ngân tiền và hiệu quả sử dụng tiền đền bù GPMB của các nông hộ. Người nông dân thường có ý thức kỷ luật kém, gặp vấn đề phát sinh rất dễ phá kế hoạch và chi tiêu phung phí. Chính vì vậy mà phối kết hợp trên sẽ giúp hộ thực hiện được đúng kế hoạch đặt ra và hạn chế việc tiêu tiền không đúng mục đích. Hiện nay, việc giải ngân (chi trả tiền đền bù) cho nông hộ được thực hiện một lần và được trả toàn bộ số tiền tương ứng với diện tích đất nông nghiệp hộ bị mất, điều này sẽ làm tăng xác suất chi tiêu không đúng mục đích của hộ.

Chính vì vậy, trên cơ sở kế hoạch sử dụng tiền đền bù của hộ, nhóm tác giả đề xuất một số phương án giải ngân, chi trả tiền đền bù cho nông hộ như:

(1) Giải ngân theo thu nhập thiếu hụt từ việc mất đất của hộ: Căn cứ vào thu nhập của hộ trên diện tích đất nông nghiệp của hộ để giải ngân khoản tiền đền bù của hộ, kỳ hạn trả cho hộ là theo vụ hoặc theo năm, số tiền

trả mỗi lần đúng bằng thu nhập bị thiếu hụt do diện tích đất nông nghiệp tạo ra trong một vụ hoặc một năm. Giải ngân tiền đền bù như vậy nhằm đảm bảo thu nhập của hộ không bị ảnh hưởng do diện tích đất nông nghiệp bị mất.

(2) Giải ngân theo kế hoạch sản xuất kinh doanh của hộ: Cần bám sát vào kế hoạch đầu tư cho sản xuất kinh doanh do hộ và tổ tư vấn giám sát lập để giải ngân, nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh của hộ.

(3) Một số trường hợp đặc biệt cần linh hoạt trong việc giải ngân như: Nông hộ có người đau ốm cần một khoản tiền lớn để chạy chữa vượt quá khả năng của hộ, giải ngân toàn bộ cho những hộ đã chuyển hẳn sang ngành nghề phi nông nghiệp, những người già neo đơn,…

Bên cạnh đó, việc quản lý các giai đoạn giải ngân cho các hộ phải kết hợp chặt chẽ với tổ tư vấn, hoặc có thể do tổ tư vấn giám sát trực tiếp quản lý để đảm bảo sự chặt chẽ trong việc quản lý sử dụng tiền đền bù của hộ và kịp thời cung cấp vốn cho hộ đầu tư sản xuất kinh doanh ■

Tài liệu tham khảo

Department for International Development (1999), Sustainable Livelihoods Guidance Sheets.

Đinh Phi Hổ, Huỳnh Sơn Vũ (2011), “Sự thay đổi về thu nhập của người dân sau thu hồi đất để xây dựng khu công nghiệp, các yếu tố ảnh hưởng và gợi ý chính sách”, Tạp chí phát triển kinh tế.

Đỗ Thị Nâng và Nguyễn Văn Ga (2008), “Nghiên cứu sinh kế của hộ nông dân sau thu hồi đất nông nghiệp tại thôn Thọ Đa, xã Kim Nỗ, huyện Đông Anh, Hà Nội”, Tạp chí Khoa học Công nghệ, 5, 10-15.

Green, S. B. (1991), “How many subjects does it take to do a regression analysis?”, Multivariate behavioral research, 26(3), 499-510.

Hồ Kiệt, Trần Văn Hòa, Ngô Nhật Linh (2017), “Ảnh hưởng của công tác giải phóng mặt bằng đến sinh kế của người dân bị thu hồi đất tại khu kinh tế Nhơn hội, tỉnh Bình Định”, Tạp chí khoa học, Đại học Huế, 37CA, 195–205.

Hội Nông Dân Việt Nam (2010), Công bố kết quả điều tra về thu hồi đất xây dựng khu công nghiệp, đô thị:

Hơn 2,5 triệu nông dân bị ảnh hưởng, truy cập 15/4/2021 từ: http://www.hoinongdan.org.vn/channel.

aspx?Code=NEWS&NewsID=1583

Huỳnh Văn Chương (2010), “Ảnh hưởng của việc chuyển đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp đến sinh kế người nông dân bị thu hồi đất tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam”, Tạp chí khoa học, Đại học Huế, 62A, 47–58.

Morduch, J. (1995), ““Income Smoothing and Consumption Smoothing.” Journal of Economic Perspectives, 9 (3):

103-114.”

Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) (1995), Cẩm nang về tái định cư, Truy cập 15/4/2021 từ: http://www.adb.org/

Documents/Translations/Vietnamese/Resettlement_Handbook_VN.pdf

Nguyễn Đình Hà (2012), “Nghiên cứu sử dụng tiền đền bù đất nông nghiệp của hộ nông dân tại huyện Mỹ Hào tỉnh

(14)

Hưng Yên”, Luận văn Thạc sĩ, ĐH Nông nghiệp Hà Nội.

Nguyễn Bình Giang (2012), “Tác động xã hội vùng của các khu công nghiệp ở Việt Nam”, Nhà xuất bản Khoa học xã hội Hà Nội.

Nguyễn Thị Diễn, Vũ Đình Tôn and Lebailly, P. (2007), “Ảnh hưởng của việc thu hồi đất nông nghiệp cho công nghiệp hóa đến sinh kế của các hộ nông dân ở tỉnh Hưng Yên”.

Nguyễn Thị Hồng Hạnh, Nguyễn Thanh Trà and Hồ Thị Lam Trà (2013), “Ảnh hưởng của việc thu hồi đất nông nghiệp đến đời sống, việc làm của nông dân huyện Văn Lâm, Hưng Yên”, Tạp chí Khoa học và Phát triển trường Đại học Nông nghiệp Hà Nôi, 11(1), 59–67.

World Bank (2004), Involuntary Resettlement Sourcebook Planning and Implementation in Development Projects Hanstad, T., Nielsen, R., and Brown, T. (2004), “Land and Livelihoods – Making Land Rights Real for India’s Ruural

Poor”, Rural Development Institute (RDI)

Trần Thị Thơm (2015), “Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ dân sau khi thu hồi đất xây dựng Khu công nghiệp Hòa Phú tỉnh Vĩnh Long”, Luận văn Thạc sĩ, ĐH Cần Thơ.

Referensi

Dokumen terkait

Bảng 2.1: Tổng hợp các bài nghiên cứu trước đây Tác giả Năm Kết quả nghiên cứu Jimmy D.Moss và Bert Stine 1993 Việc rút ngắn độ dài của vòng quay chuyển đổi tiền mặt có thể cải