• Tidak ada hasil yang ditemukan

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "NGHIÊN CỨU KHOA HỌC"

Copied!
5
0
0

Teks penuh

(1)

VI NSC KH EC NG NG

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

TÌNH HÌNH DỊCH CHUYỂN CÁN BỘ Y TẾ TỪ CÁC CƠ SỞ Y TẾ CÔNG LẬP RA NGOÀI CÔNG LẬP TẠI VIỆT NAM

Vũ Văn Hoàn1 TÓM TẮT:

Báo cáo này phân tích tình hình chuyển công tác của CBYT từ các CSYT công lập ra các CSYT NCL trong giai đoạn 2005 – 2009 dựa trên số liệu của đề tài nghiên cứu về tình hình chuyển công tác của CBYT tại 39 tỉnh/

thành phố và 43 bệnh viện tư nhân trên toàn quốc. Đề tài điều tra cắt ngang vào thời điểm tháng 9/2009, kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, tình hình CBYT tại các CSYT công lập chuyển công tác sang các CSYT tư nhân tăng nhanh trong giai đoạn 2005 – 2009, trong đó số CBYT công lập chuyển đến các bệnh viện NCL năm 2009 cao hơn 3,6 lần so với năm 2005. Các CBYT công lập chuyển đến các CSYT NCL chủ yếu là những người có trình độ cao, có kinh nghiệm của các CSYT thuộc lĩnh vực điều trị tại tuyến tỉnh và tuyến huyện.

Từ khóa: Cán bộ y tế, chuyển công tác, cơ sở y tế công lập, cơ sở y tế ngoài công lập.

ABSTRACT:

THE WORKING PLACE CHANGE OF HEALTH WORKERS FROM PUBLIC HEALTH FACILITIES TO PRIVATE HEALTH FACILITIES IN VIETNAM

This paper aims to analyze the working place change of health workers from public health faciilities to private health facilities during the period of 2005 – 2009 based on data from a research study on the migration of health workers in 39 provinces/cities across Vietnam and 43 private health facilities. The cross-sectional study was conducted in September 2009 and incorporated both qualitative and quantitative research methods.

The research results show that the situation of health workers in public health facilities shifting their work to private health facilities increased rapidly in the period of 2005-2009, of which the number of public health workers

transferred to private hospitals in 2009 was 3.6 times higher than in 2005. The health workers in public health facilities who transferred to private health facilities are mainly those with high qualifications and experience of the treatment field at provincial and district levels.

Từ khóa: Health workers, migration, public health facilities, private health facilities.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Trên thế giới, hầu hết các quốc gia đều tồn tại cả loại hình các cơ sở y tế (CSYT) do nhà nước quản lý và cả các CSYT ngoài công lập (NCL) do các tổ chức và cá nhân sở hữu và quản lý. Các CSYT nhà nước được cho rằng được thành lập để chủ yếu đảm nhận thực hiện các mục tiêu y tế công cộng của nhà nước[2]. Các CSYT NCL bao gồm cả các CSYT vì lợi nhuận và không vì lợi nhuận, chủ yếu tập trung ở các khu kinh tế phát triển, đầu tư ở các chuyên khoa dễ đem lại lợi nhuận và phục vụ các nhóm dân cư có khả năng chi trả viện phí [2] [4] [5] [6].

Sự phát triển của y tế NCL được cho rằng là một tác nhân làm trầm trọng hơn tình trạng mất cân đối về trình độ NLYT giữa công và tư tại nhiều quốc gia, bởi đã thu hút nhiều CBYT trình độ cao từ các CSYT công lập. Tại các nước vùng Nam Phi, khu vực y tế NCL có tới 52,7%

CBYT, 76% số chuyên gia giỏi nhưng chỉ phục vụ cho 20% dân số có thu nhập cao [4] [6]. Tình trạng phân bố không hợp lý này làm trầm trọng thêm việc thiếu NLYT trên phạm vi toàn cầu [2].

Tại Việt Nam, bước vào thời kỳ Đổi mới, các CSYT NCL hoạt động theo Luật Doanh nghiệp với mục tiêu thu lợi nhuận được khuyến khích phát triển. Từ năm 2000, các CSYT NCL phát triển nhanh chóng tại Việt Nam, đặc biệt là tại các thành phố lớn và khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển. Năm 1999 mới có 4 bệnh viện NCL nhưng đến năm 2018, cả nước có 231 bệnh viện NCL và hàng chục nghìn phòng khám [1].

1. Viện Chiến lược và Chính sách Y tế, Bộ Y tế.

Điện thoại: 0949688455; email: [email protected].

(2)

JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE

2020

Với nhiều thuận lợi hơn các CSYT công lập về cơ chế quản lý, các CSYT NCL dễ dàng có các cơ chế thu hút các CBYT công lập có trình độ cao với những mức lương hấp dẫn và điều kiện làm việc thuận lợi hơn. Hiện tượng các CBYT trong các CSYT công lập bỏ sang làm việc cho các CSYT NCL đã được ghi nhận tại các địa phương trong cả nước. Xu hướng này được cho rằng sẽ dẫn tới nguy cơ mất các thầy thuốc giỏi tại các CSYT công lập, nơi phục vụ đa số dân cư, đặc biệt là người có thu nhập thấp trong xã hội, ảnh hưởng xấu tới việc cung cấp dịch vụ y tế có chất lượng, dễ tiếp cận cho hơn 70%

dân số Việt Nam.

Dựa trên kết quả nghiên cứu của đề tài cấp Bộ “Đánh giá thực trạng chuyển dịch CBYT từ các CSYT công lập ra NCL, từ nông thôn về thành thị và đề xuất giải pháp khắc phục”, bài báo này mô tả tình hình chuyển công tác của CBYT công lập sang các CSYT NCL tại các tỉnh trên toàn quốc trong giai đoạn 2005 – 2009 nhằm cung cấp đầy đủ hơn các thông tin về vấn đề dịch chuyển nhân lực y tế từ công lập sang NCL tại Việt Nam.

II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu

Bao gồm các nhóm đối tượng: 1) Các CBYT đã chuyển công tác đến các cơ quan/CSYT tuyến tỉnh và tuyến huyện trong giai đoạn từ 1/1/2005 đến 1/9/2009; 2) Lãnh đạo các Sở Y tế, Phòng y tế huyện; 3) Lãnh đạo các CSYT, các phòng chức năng, công đoàn cơ sở và CBYT tại các CSYT các tuyến.

Địa điểm nghiên cứu

Việc thu thập thông tin về tình hình dịch chuyển CBYT được triển khai trên tất cả các CSYT công lập các tuyến và các bệnh viện NCL tại 63 tỉnh/TP trực thuộc trung ương trên toàn quốc. Các thông tin nghiên cứu định tính được triển khai tại 5 tỉnh: Bắc Ninh, Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh và Kiên Giang.

Thiết kế nghiên cứu

Thiết kế nghiên cứu cắt ngang, kết hợp nghiên cứu định lượng và nghiên cứu định tính; hoạt động thu thập số liệu được triển khai trong giai đoạn từ tháng 9 đến tháng 12/2009.

Phương pháp thu thập số liệu

Các biểu mẫu thống kê được xây dựng sẵn nhằm thu thập thông tin về biến động nhân lực y tế từ năm 2005 đến năm 2009 của các đơn vị y tế công tại 63 tỉnh/TP và tại các bệnh viện NCL trên toàn quốc. Kết quả có 39/63 tỉnh/

TP và 43/83 bệnh viện NCL hoàn thành công tác thống kê và có báo cáo số liệu. Các cuộc phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm được thực hiện tại các cơ quan, CSYT của 5 tỉnh/

thành phố nghiên cứu.

Phương pháp phân tích số liệu

Các thông tin thống kê về các trường hợp CBYT chuyển khỏi đơn vị được mã hóa dưới dạng số và được phân tích bằng phần mềm SPSS 18.0. Các thông tin định tính được hệ thống các ý kiến chủ đạo của từng vấn đề, phân tích và trích dẫn theo các mục tiêu nghiên cứu.

Đạo đức nghiên cứu

Thông tin về nghiên cứu được cung cấp và giải thích rõ cho các cơ sở y tế. Các thông tin của các CBYT dịch chuyển được đảm bảo tính vô danh, được mã hóa hoàn toàn trong quá trình phân tích, trích dẫn và chỉ sử dụng cho mục đích nghiên cứu.

III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Số lượng CBYT công lập chuyển ra các CSYT NCL

Theo số liệu thống kê từ 39 tỉnh/TP có báo cáo, đã có 2.968 CBYT bỏ việc nhưng chỉ xác định được nơi chuyển đến của 498 người, chiếm 16,8% trong đó có 244 người đã chuyển sang y tế NCL. Theo số liệu thống kê từ 43/83 bệnh viện tư nhân trong toàn quốc cho thấy, từ năm 2005 đến năm 2009 đã có 514 CBYT từ các CSYT công lập chuyển đến.

Bảng 1. Tình hình chuyển công tác của CBYT công lập ra NCL qua các năm

TT NĂM SỐ LIỆU TỪ 39 TỈNH/TP (n=244) SỐ LIỆU TỪ 43 BV NCL (n=514)

Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ

1 2005 19 7,8 47 9,1

2 2006 56 23,0 55 10,7

3 2007 48 19,7 105 20,4

4 2008 69 28,3 139 27,0

5 2009 52 21,3 168 32,7

TỔNG 244 100,0 514 100,0

(3)

VI NSC KH EC NG NG

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

Số liệu báo cáo từ các CSYT công lập và các bệnh viện NCL đều cho thấy, các CBYT từ các CSYT công lập chuyển đến các bệnh viện NCL tăng mạnh qua các năm tuy nhiên, theo số liệu từ 39 tỉnh/TP thì tỷ lệ này có giảm nhẹ vào năm 2009 (21,3%), trong khi số liệu từ các bệnh viện NCL cho thấy số liệu này vẫn tăng mạnh đến năm 2009.

Nghiên cứu định tính cũng cho thấy, CBYT công lập bỏ việc thường giấu thông tin nơi chuyển đến để tránh phiền phức cho nơi chuyển đến, do đó chỉ có một tỷ lệ nhỏ CBYT công bỏ việc xác định được nơi chuyển đến.

Mức lương cao hơn công lập gấp nhiều lần và sự hỗ trợ về điều kiện sinh hoạt khi chuyển đến các CSYT NCL

được nhận định là điểm thu hút chính đối với các CBYT công lập, đặc biệt là đối với những CBYT có trình độ và kinh nghiệm.

3.2. Nơi công tác của CBYT công lập trước khi chuyển ra các CSYT NCL

* Về tuyến công tác trước khi chuyển ra CSYT NCL Theo số liệu từ 39 tỉnh/thành phố, trong số 244 CBYT từ các CSYT công lập chuyển ra NCL, xác định được tuyến công tác cũ của 225 trường hợp. Theo số liệu từ 43 bệnh viện NCL, trong số 514 CBYT từ các CSYT CL chuyển đến các bệnh viện tư đã xác định được tuyến công tác trước khi dịch chuyển của 377 người, cụ thể là:

Có thể thấy, các CBYT công lập chuyển đến các bệnh viện NCL chủ yếu là những công tác tại tuyến tỉnh (58,7%

và 42.7%), tiếp đến là tại tuyến huyện (36,9% và 21.5%).

* Lĩnh vực làm việc của CBYT CL trước khi chuyển ra CSYT NCL

Trong số CBYT từ các CSYT công lập chuyển ra CSYT NCL, xác định được lĩnh vực công tác cũ của 226/244 trường hợp (theo báo cáo của 39 tỉnh/TP) và 365/514 trường hợp (theo báo cáo của 43 bệnh viện NCL).

Cụ thể như sau:

Bảng 2. Tuyến công tác của CBYT công lập trước khi chuyển ra CSYT NCL

TT TUYẾN CÔNG TÁC CŨ SỐ LIỆU TỪ 39 TỈNH/TP (n=225) SỐ LIỆU TỪ 43 BV NCL (n=337)

Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ

1 Trung ương - - 70 18,6

2 Y tế ngành - - 53 14,1

3 Tỉnh 132 58,7 161 42,7

4 Huyện 83 36,9 81 21,5

5 Xã 10 4,4 12 3,2

TỔNG 225 100,0 377 100,0

Bảng 3. Lĩnh vực làm việc của CBYT công lập trước khi chuyển ra CSYT NCL TT LĨNH VỰC CÔNG

TÁC CŨ

SỐ LIỆU TỪ 39 TỈNH/TP (n=226) SỐ LIỆU TỪ 43 BV NCL (n=365)

Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ

1 Điều trị 158 69,9 284 77,8

2 Dự phòng 50 22,1 45 12,3

3 Đào tạo 10 4,4 2 0,5

4 Lĩnh vực khác 8 3,5 32 8,8

TỔNG 226 100,0 365 100,0

(4)

JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE

2020

Bảng trên cho thấy, thông tin từ 2 nguồn số liệu khá tương đồng, theo đó các CBYT công lập chuyển đến các bệnh viện NCL, chủ yếu là từ lĩnh vực điều trị (69,9% và 77.8%), tiếp đến là từ lĩnh vực dự phòng (22,1% và 12.3%).

* Các tỉnh/TP có nhiều CBYT công lập chuyển sang CSYT NCL:

Trong số 514 CBYT công lập chuyển sang các bệnh viện NCL được báo cáo, đã xác định được địa phương làm việc trước khi dịch chuyển của 350 người. Các tỉnh có CBYT công chuyển sang các bệnh viện NCL nhiều nhất là: TP Hồ Chí Minh (43%), Hà Nội (6%), Quảng Nam (6%), Thừa Thiên Huế (5%) và Đà Nẵng (4%). Các tỉnh khác chiếm tỷ lệ thấp hơn (2% - 3%).

Nghiên cứu định tính cũng cho thấy, các bệnh viện NCL chủ yếu thu hút các CBYT có kinh nghiệm trong lĩnh vực điều trị, còn các lĩnh vực khác ít được chú ý hơn do không gắn với công việc chuyên môn điều trị.

Các bệnh viện NCL chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn nên các CBYT công lập tại các đô thị này và của các tỉnh lân cận dễ dàng bị thu hút hơn các tỉnh xa do việc chuyển công tác của CBYT không xáo trộn nhiều tới cuộc sống của gia đình.

3.3. Trình độ chuyên môn và chức vụ của CBYT công lập chuyển công tác

* Trình độ chuyên môn của CBYT công lập trước khi chuyển ra CSYT NCL

Kết quả nghiên cứu cho thấy, các CBYT công lập chuyển ra CSYT NCL chủ yếu là những người có trình độ đại học trở lên (72,1% theo số liệu của 39 tỉnh/Tp và 57,6% theo số liệu của 43 bệnh viện NCL).

Trong số CBYT từ các CSYT công lập chuyển ra CSYT NCL xác định được trình độ chuyên khoa của 366/758 trường hợp, trong đó, chủ yếu là những người được đào tạo về các chuyên khoa sâu đang có nhu cầu lớn trong lĩnh vực điều trị như: sản (17,1%), ngoại (11,4%), gây mê hồi sức (11,5%), chẩn đoán hình ảnh, xét nghiệm (7,1%), tai mũi họng, răng hàm mặt, mắt (12,9%), dược,...

Nghiên cứu định tính cũng cho kết quả tương tự, các CBYT có trình độ cao, được đào tạo chuyên khoa sâu là đối tượng được các bệnh viện NCL quan tâm thu hút.

* Chức vụ của CBYT công lập chuyển ra CSYT NCL Theo số liệu của 39 tỉnh/TP, từ năm 2005 – 2009, trong số 1540 CBYT đã đảm nhiệm các chức vụ khác nhau tại đơn vị cũ chuyển công tác thì chỉ có 3,3% chuyển sang CSYT NCL. Chỉ số này ở số liệu từ 43 bệnh viện NCL là 8,75%. Khi chuyển sang các bệnh viện tư nhân,

khác nhau tại các bệnh viện NCL.

Theo kết quả nghiên cứu định tính, các bệnh viện NCL cũng đã quan tâm tới việc bổ nhiệm các chức vụ quản lý cho các CBYT từ công lập chuyển sang, để họ không bị hụt hẫng khi chuyển sang bệnh viện NCL.

IV. BÀN LUẬN

Kết quả nghiên cứu cho thấy, tình hình chuyển công tác của CBYT công lập sang các CSYT NCL là rất đáng kể. Theo số liệu của 39 tỉnh/thành phố có báo cáo, trong số 2968 trường hợp CBYT công lập bỏ việc chỉ xác định được nơi chuyển đến của 498 trường hợp và có đến ½ số này chuyển sang các CSYT NCL; xu hướng tăng nhanh qua các năm nhưng lại có xu hướng giảm mạnh vào năm 2009. Tuy nhiên, số liệu từ 43 bệnh viện NCL cho thấy, tình hình CBYT công lập chuyển sang các CSYT NCL tăng nhanh qua các năm và không có xu hướng giảm: so với năm 2005, tỷ lệ CBYT công lập chuyển sang các bệnh viện NCL năm 2009 cao hơn 3,6 lần.

Các CBYT công lập chuyển đến các bệnh viện NCL chủ yếu là những người đã từng công tác tại tuyến tỉnh (58,7% và 42.7%) và tuyến huyện (36,9% và 21.5%). Số liệu tại 43 bệnh viện NCL cho thấy, còn có một tỷ lệ đáng kể các CBYT công lập từ các CSYT tuyến trung ương và CSYT của Bộ Ngành khác bỏ việc chuyển đến các bệnh viện NCL (18,6% và 14,1%). Các CBYT của lĩnh vực điều trị chiếm đa số trong số CBYT công lập chuyển đến các CBYT NCL. Lý do là các CBYT đang trực tiếp làm công tác điều trị nên sẽ đáp ứng được ngay công việc của các bệnh viện NCL, không phải mất thời gian đào tạo như các trường hợp từ các lĩnh vực khác chuyển về. Các thành phố lớn và các tỉnh lân cận là địa phương có tình trạng CBYT công lập chuyển sang các bệnh viện NCL nhiều nhất do việc chuyển công việc của CBYT không gây xáo trộn nhiều tới cuộc sống của họ và gia đình.

Các CBYT công lập chuyển ra CSYT NCL chủ yếu là những người có trình độ đại học trở lên (72,1% theo báo cáo của 39 tỉnh/tp và 57,6% theo báo cáo của 43 bệnh viện NCL). Các CBYT này chủ yếu đã được đào tạo các chuyên khoa đang có nhu cầu lớn trong lĩnh vực điều trị như: ngoại, sản, chẩn đoán hình ảnh,.... Các CBYT có trình độ dưới đại học cũng là điều dưỡng, kỹ thuật viên và hộ sinh có kinh nghiệm. Thực tế này đã khiến cho các CSYT công lập các địa phương mất đi một lực lượng đáng kể CBYT trình độ cao, trong khi họ đang khó khăn trong thu hút lực lượng này về công tác.

Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, các chế độ thu

(5)

VI NSC KH EC NG NG

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

gấp nhiều lần công lập và sự hỗ trợ về điều kiện sinh hoạt cho CBYT khi chuyển đến. Đây là những biện pháp tác động mạnh tới CBYT khi bối cảnh chế độ lương, phụ cấp tại các CSYT công lập ở mức thấp và khó có thể thay đổi. Việc bổ nhiệm vào các chức vụ lãnh đạo cũng là chính sách thu hút của các bệnh viện NCL. Tỷ lệ CBYT công lập giữ các chức vụ tại đơn vị cũ theo báo cáo của 39 tỉnh/thành phố chỉ là 3,3% và theo báo cáo của 43 bệnh viện NCL là 8,8%, tuy nhiên, khi chuyển sang bệnh viện NCL, có tới 23% CBYT công lập được bổ nhiệm giữ các chức vụ khác nhau tại bệnh viện. Các đặc điểm này đã được ghi nhận trên nhiều nghiên cứu trên thế giới [3] [4] [5].

V. KẾT LUẬN

Tình hình CBYT tại các CSYT công lập chuyển công tác sang các CSYT tư nhân tăng nhanh trong giai đoạn 2005 – 2009, trong đó số CBYT công lập chuyển đến các bệnh viện NCL năm 2009 cao hơn 3,6 lần so với năm 2005.

Các CBYT công lập chuyển đến các CSYT NCL chủ yếu là những người có trình độ cao, có kinh nghiệm của các CSYT thuộc lĩnh vực điều trị tại tuyến tỉnh và tuyến huyện. Các biện pháp thu hút chính của các bệnh viện NCL chủ yếu là mức lương cao, các điều kiện hỗ trợ khi CBYT công lập và gia đình khi chuyển công tác và được bổ nhiệm vào các chức vụ tại bệnh viện nơi chuyển đến.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Y tế (2019), Niên giám Thống kê y tế năm 2018, 279 trang.

2. Basu S, Andrews J, Kishore S, Panjabi R, Stuckler D (2012), Comparative Performance of Private and Public Healthcare Systems in Low- and Middle Income Countries: A Systematic Review. PLoS Med 9(6): e1001244.

doi:10.1371/journal.pmed.1001244.

3. Dussault G, Franceschini MC (2006): Not enough there, too many here: understanding geographical imbalances in the distribution of the health workforce, Human Resour Health 2006, 4:12.

4. Padarath A, Chamberlain C, McCoy D, Ntuli A, Rowson M, Lowenson R (2003), Health personnel in Southern Africa: confronting maldistribution and brain drain, Equinet Discussion Paper no 4 2003.

5. WHO (2004), Joint Learning Initiative. Human Resources for Health: Overcoming the Crisis, Cambridge, MA: Global Equity Initiative, Harvard University.

6. WHO (2006), The world health report 2006: working together for health, World Health Organzation, Geneva.

Referensi

Dokumen terkait

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Khoa học Điều dưỡng – Tập 03 – Số 04 5 MỤC LỤC Thực trạng tuân thủ quy trình an toàn phẫu thuật lấy thai của nhân viên y tế tại Bệnh viện Đa khoa huyện Quỳnh

VI NSC KH EC NG NG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THỰC TRẠNG TUÂN THỦ VỆ SINH TAY THƯỜNG QUY CỦA ĐIỀU DƯỠNG TẠI CÁC KHOA LÂM SÀNG NGOẠI KHOA CỦA BỆNH

Để thực hiện tốt kế hoạch phòng chống tai nạn thương tích cộng đồng của ngành Y tế giai đoạn 2016-2020 vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài với mục tiêu sau: Thực trạng thực

VI NSC KH EC NG NG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIẾN THỨC VỀ CÁC BIỆN PHÁP TRÁNH THAI THÔNG THƯỜNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TẠI HUYỆN TÂN PHÚ ĐÔNG, TỈNH

Mặc dù trong nghiên cứu đã phát hiện về các loại chi phí chăm sóc y tế và vai trò của bảo hiểm y tế trong điều trị chấn thương, song nghiên cứu còn một số hạn chế, bao gồm: Nghiên cứu

VI NSC KH EC NG NG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ĐÁNH GIÁ TÍNH AN TOÀN CỦA ĐIỀU TRỊ LAO PHỔI KHÁNG ĐA THUỐC ĐƠN THUẦN BẰNG PHÁC ĐỒ NGẮN HẠN TẠI BỆNH VIỆN PHỔI HÀ NỘI Lý Châu1, Lê Ngọc Hưng2,

TẠP CHÍ CÔNG THIÍ0NG NGHIÊN CỨU NÂNG CAO NĂNG Lực CẠNH TRANH CỦA NGÀNH DU LỊCH TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ Quốc TẾ • vù VĂN ĐÔNG TÓM TẮT: Năng lựccạnh tranh của ngànhDu lịch trong

- Quản lý điều hành: Tập huấn nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ các khoa phòng - Công nghệ thông tin CNTT: Chưa sử dụng phần phần tương tác thuốc tại khoa Khám bệnh và Khoa nội trú